Vào thời nhà trần nước ta có tên gọi
Với vương triều Lý, kinh đô nước Ðại Việt đã chuyển từ Hoa Lư ra Ðại La, nơi "ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước...", với tên gọi mới là Thăng Long - rồng bay lên. Trải qua nhiều biến thiên của lịch sử, Thăng Long từng bước được xây dựng, củng cố về mọi mặt, xứng đáng là trung tâm chính trị - quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội của cả nước. Tiếp sau nhà Lý, nhà Trần (1226 - 1400), đã tiếp nhận, củng cố nền tảng mà nhà Lý đã tạo dựng; mặt khác, khơi dậy và phát huy thế mạnh về vị trí, địa hình của chốn kinh đô, giúp cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên của quân dân ta giành được thắng lợi vẻ vang. Show
Về chính trị - quân sự: Nửa đầu thế kỷ 13, nước Ðại Việt vừa bước qua cuộc chuyển giao quyền lực từ tay nhà Lý về tay nhà Trần. Trong vòng 30 năm (1258 - 1288), đế chế Mông - Nguyên đã ba lần xâm lược nước ta, với mưu đồ chiếm vị trí chiến lược của Ðại Việt để bành trướng khắp vùng Ðông - Nam Á. Tổng số quân lính mà chúng huy động lên tới hơn 130.000 người. Ngay từ lần kháng chiến thứ nhất năm 1258, theo sự chỉ huy của Thái sư Trần Thủ Ðộ, quân dân ta đã tạm thời rút khỏi Thăng Long, thực hiện kế sách "thanh dã" (vườn không nhà trống), không để cho giặc có cơ hội tiếp cận nguồn lương thực, của cải sẵn có trong kinh thành. Giặc đến Thăng Long chỉ còn thấy một tòa thành trống rỗng, với tù binh để lại chính là mấy tên sứ giả do chúng cử sang. Kế sách "thanh dã" đã bảo tồn toàn vẹn lực lượng của quân dân ta, chờ thời cơ tốt thuận lợi thì nghênh chiến giành lấy thắng lợi. Trận quyết chiến chiến lược trên sông Bạch Ðằng vào năm 1288 đã chấm dứt hoàn toàn âm mưu thôn tính Ðại Việt của đế chế Nguyên - Mông. Từ đó, nhân dân ta lại được sống trong thanh bình, vua tôi đồng lòng xây dựng đất nước. Về kinh tế: Dưới thời Trần, nền kinh tế công thương nghiệp thành thị bắt đầu hình thành và phát triển. Là trung tâm kinh tế lớn nhất lúc bấy giờ, Thăng Long tập trung đông đảo đội ngũ thị dân tham gia buôn bán, sinh sống. Tiếp nối sự nghiệp xây dựng, củng cố đê điều đã có từ triều Lý, các vua nhà Trần đặt ra chức quan trông coi việc đắp đê gọi là "hà đê sứ". Hằng năm sau vụ mùa, triều đình lệnh cho quân sĩ đắp đê, hào, giúp đỡ nhân dân, trong đó đặc biệt chú trọng đến đê sông Hồng. Về văn hóa - xã hội: Khoa thi Thái học sinh được tiến hành từ năm 1239, rồi theo lệ, cứ bảy năm tổ chức một lần. Ðến năm 1247, triều đình đặt danh hiệu Tam khôi cho ba người đỗ đầu là: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Từ năm 1253, nhà Trần chuyển nhà Thái học vốn chỉ dành cho các hoàng tử và con cháu quan lại thành Quốc học viện, thu hút những người học giỏi xuất thân từ tầng lớp bình dân. Vua quan nhà Trần là những người có tinh thần thượng võ. Ðể đào tạo ra các tướng lĩnh vừa có khả năng chỉ huy và tham mưu, vừa có kỹ thuật chiến đấu nhanh nhạy, sắc bén, năm 1253, Vua Trần Thái Tông cho lập Giảng Võ đường. Chính từ ngôi trường võ bị này đã sản sinh ra nhiều vị tướng xuất sắc, có đóng góp lớn cho cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên. Thời Trần, kinh thành Thăng Long tiếp tục được xây dựng và mở mang, củng cố. Năm 1243, nhà vua hạ lệnh đắp lại vòng thành giữa - Hoàng thành, đặt ra tên mới là Phượng Thành. Các cổng thành được xây dựng kiên cố theo mẫu tam quan gồm có một cổng chính giữa và hai cổng phụ ở hai bên, phía trên có lầu gác. Trong Cấm thành có các cung điện riêng biệt: cung Quan Triều (nơi ở của nhà vua), cung Thánh Từ (nơi ở của Thái Thượng hoàng sau khi truyền ngôi cho con), điện Diên Hiền (nơi nhà vua làm việc), điện Tập Hiền (nơi họp mặt các quan và danh sĩ), điện Diên Hồng (nơi đã diễn ra hội nghị họp bàn giữa nhà vua và các vị bô lão về đường lối "hòa hay chiến" khi đất nước lâm nguy)... Thành Thăng Long được quy hoạch thành hai khu vực: khu vực thành mang tính chất hành chính; khu vực thị là nơi ở của nhân dân, bố trí thành từng phường, tập trung theo ngành nghề sản xuất. Sinh hoạt văn hóa của Thăng Long tập trung vào những ngày đầu năm, ngày hội mùa. Trong triều đình, các đội ca múa, đánh vật, đá cầu được lập ra, chuyên phục vụ trong các hoạt động mang tính giải trí, vui chơi. Gần 200 năm nắm giữ quyền điều hành, quản lý đất nước, các vua triều Trần đã có nhiều đóng góp lớn đối với dân tộc, đặc biệt trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ quốc gia. Kinh đô Thăng Long trải qua hai triều đại Lý - Trần đang ngày càng thể hiện rõ vị thế của mình trên cả hai phương diện: quân sự và hành chính, xứng đáng là trung tâm chính trị - kinh tế- văn hóa xã hội của đất nước./.
TÀI LIỆU KỲ HỌP
TÀI LIỆU PHIÊN HỌP TT HĐND
Tin tức / Thông tin tuyên truyền trung ương, địa phương
A+ | A | A-
Quốc hiệu Việt Nam có từ khi nào?Người đăng: Administrator Account Ngày đăng: 11:09 | 05/09 Lượt xem: 44990 Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, đất nước ta từng có nhiều tên gọi. Và bắt đầu từ triều Nguyễn (1804), nước ta mang quốc hiệu Việt Nam. Như thế có phải hai chữ Việt Nam là do nhà Nguyễn đặt ra không? Rất kỳ lạ và lý thú là không phải!
Ngày 2.9.1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 2, năm Giáp Tý (1804), vua Gia Long chính thức đổi quốc hiệu nước ta là Việt Nam. Sự kiện đổi quốc hiệu được diễn ra rất nghiêm trang. Mộc bản triều Nguyễn sách Đại Nam thực lục đệ nhất kỷ, quyển 23, mặt khắc 12, 13 có khắc: “Ngày Đinh Sửu, vua đem việc cáo Thái miếu. Lễ xong, vua ngự ở điện nhận lễ chầu mừng. Xuống chiếu bố cáo khắp trong ngoài: “Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất Viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước. Hơn 200 năm, nối hòa thêm sáng, vững được nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng. Chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta lấy mình nhỏ, lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam, đều vào bản tịch. Sau nghĩ tới mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu mệnh mới, nên định lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa. Lại hạ chiếu báo các nước Xiêm La, Lữ Tống và các thuộc quốc Chân Lạp, Vạn Tượng, khiến cho đều biết”.
Sự kiện vua Gia Long công bố cho đổi quốc hiệu Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng lúc bấy giờ. Đó là sự thể chế hóa nguyện vọng lâu đời của các tầng lớp trí thức, quan lại và nhân dân; khẳng định tính pháp lý về chủ quyền của một Nhà nước Việt ở phương Nam; thể hiện ý chí, sức mạnh muôn đời của các cộng đồng cư dân Việt trên dải đất phương Nam, cũng là một sự khiêm nhường, đúng mực, “biết người biết ta”, trong quan hệ bang giao với nhà Thanh và các nước khác.
Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, hai chữ “Việt Nam” được sử dụng với tư cách là quốc hiệu và được công nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao. Tuy nhiên, theo các cứ liệu lịch sử thì hai từ Việt Nam đã xuất hiện từ rất sớm. Ngay từ cuối thế kỷ 14, đã có bộ sách với nhan đề “Việt Nam thế chí” do Học sĩ viện Hàn lâm Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi viết đầu thế kỷ 15 cũng nhiều lần nhắc đến hai chữ Việt Nam. Điều này còn được đề cập rõ trong tác phẩm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngay trang mở đầu tập “Trình tiên sinh quốc ngữ” có câu: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Ngoài ra, người ta cũng tìm thấy hai chữ “Việt Nam” trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16 - 17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh... Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: “Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan” (đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Dưới vương triều Nguyễn, quốc hiệu Việt Nam tồn tại trong suốt 34 năm (1804 - 1838). Quốc hiệu Việt Nam được sử dụng ít hơn kể từ khi vua Minh Mạng lên nối ngôi và cho đổi quốc hiệu là Đại Nam. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, hai tiếng Việt Nam được sử dụng trở lại bởi các nhà sử học và chí sĩ yêu nước trong các tác phẩm và các tổ chức chính trị, như: Phan Bội Châu viết Việt Nam vong quốc sử (1905), Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (1925) và Hội Việt Nam độc lập đồng minh (1941)… Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Hiến pháp năm 1946 chính thức thể chế hóa quốc hiệu này. Từ đấy, quốc hiệu Việt Nam được sử dụng phổ biến, với đầy đủ ý nghĩa thiêng liêng, toàn diện nhất. Tác giả: Thơm Quang(theo báo Quảng Nam) [Trở về] Các tin mới:
Các tin khác:
Tài liệu kỳ họp
TÀI LIỆU PHIÊN HỌP TT HĐND
Thông tin - Thông báo
Đại biểu dân cử với cử tri
Phóng sự ảnh
Khảo sát việc trồng rừng thay thế tại các dự án thủy điệnĐổi thay Đại LộcKhảo sát khu, cụm công nghiệpĐổi thay Đại Lộc Khảo sát khu, cụm công nghiệp
Liên kết web
Liên kết Website
|