Từ năm 1972 Mỹ đứng thủ đoạn ngoại giao để cô lập cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam như thế nào

Cuộc tiến công chiến lược năm 1972

Tháng 5-1971, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 nhằm giành thắng lợi quyết định, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp chiến tranh còn kéo dài.

Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ đạo các địa phương dốc sức chuẩn bị trong 9 tháng, đặc biệt là về vận chuyển tăng cường lực lượng chiến đấu cho các chiến trường. Miền Bắc đã tăng viện cho miền Nam 5,5 vạn cán bộ, chiến sĩ cùng một khối lượng lớn trang bị kỹ thuật gồm cả xe tăng và pháo cơ giới là những vũ khí hạng nặng lần đàu tiên được đưa vào chiến trường.

Sơ đồ tiến công chiến lược mùa hè năm 1972. Ảnh: baotanglichsu.vn

Tháng 2-1972, Tổng thống Mỹ Níchxơn đi Trung Quốc, ký “Thông cáo chung Thượng Hải” nhằm phân chia khu vực ảnh hưởng, đồng thời cô lập cuộc kháng chiến của Nhân dân ta.

Cuối tháng 3-1972, trước diễn biến phức tạp của tình hình mới, Bộ Chính trị sau khi cân nhắc mọi mặt đã khẳng định quyết tâm không có gì thay đổi là kiên quyết tiến hành cuộc tiến công chiến lược đánh bại về cơ bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, làm chuyển biến cục diện chiến tranh.

Ngày 30-3-1972, nhằm lúc địch chủ quan, sơ hở do phán đoán sai thời gian, quy mô và hướng tiến công của ta, quân và dân ta mở đầu cuộc tiến công chiến lược với quy mô lớn và cường độ mạnh vào hướng chủ yếu là Trị - Thiên, đánh thẳng vào tuyến phòng ngự của địch ở Đường 9, tiếp sau là các hướng Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ rồi đến đồng bằng Khu V và đồng bằng sông Cửu Long. Mỹ - ngụy phản công quyết liệt ở Quảng Trị và ngày 6-4-1972, không quân và hải quân Mỹ đánh phá trở lại miền Bắc Việt Nam.

Sau hai tháng tiến công, đến cuối tháng 5-1972 quân và dân ta giành thắng lợi lớn: Phá vỡ từng mảng ba tuyến phòng thủ vòng ngoài mạnh nhất của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 11 vạn quân địch, giải phóng tỉnh Quảng Trị và một số vùng đất rộng gồm hơn 1 triệu dân. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ đứng trước nguy cơ bị phá sản hoàn toàn.

Tháng 5-1972, Níchxơn đi Mátxcơva nhằm tranh thủ Liên Xô để cùng Trung Quốc hạn chế viện trợ vật chất cho ta và ép ta đàm phán theo điều kiện của Mỹ. Song với sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa tất thắng và đường lối quốc tế đúng đắn, ta vẫn tiếp tục nhận được sự ủng hộ lớn nhất có thể có của cả Trung Quốc và Liên Xô.

Ngày 01-6-1972, nhận định cục diện kháng chiến đã có điều kiện để tiến lên đánh bại về cơ bản chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, Bộ Chính trị chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cuộc tiến công chiến lược ở miền Nam, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, bảo đảm hậu phương làm tốt nghĩa vụ chi viện cho tiền tuyến.

Thực hiện quyết tâm của Đảng, quân và dân ta không quản hy sinh gian khổ, kiên cường đánh bại nhiều cuộc phản kích quyết liệt của địch, bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị trong 81 ngày đêm và giữ được phần lớn các vùng giải phóng mới mở ra ở miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Khu V. Đồng thời, quân và dân ta mở các chiến dịch kết hợp tiến công và nổi dậy ở đồng bằng Nam Bộ và Khu V, tiêu diệt nhiều địch, phá kế hoạch bình định của chúng. Riêng ở đồng bằng Nam Bộ, ta đã giải phóng và làm chủ 72 xã với 48 vạn dân, tạo thế đứng vững chắc cho lực lượng tương đương 2 sư đoàn chủ lực ta trở về hoạt động. Quân và dân ở hai nước Lào và Campuchia liên tiếp tiến công địch ở nhiều nơi, phối hợp với cuộc chiến đấu của quân và dân ta ở miền Nam.

Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đã giành thắng lợi to lớn, làm chuyển biến căn bản cục diện chiến tranh. Ta đã diệt và làm tan rã khoảng 30 vạn quân địch, giải phóng những vùng đất rộng gồm trên 1 triệu dân, đưa tổng số dân được giải phóng lên tới 4 triệu [trong tổng số 11 triệu dân]. Bộ đội chủ lực ta trở về miền Nam đứng vững trên những địa bàn quan trọng, bộ đội địa phương và dân quân du kích phát triển. Thắng lợi của cuộc tiến công đã góp phần quyết định buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari rút hết quân ra khỏi miên Nam nước ta.

Tuy nhiên, bên cạnh thắng lợi mà ta đạt được, sự chỉ đạo của Đảng còn có nhiều thiếu sót trong việc đánh giá tình hình và so sánh lực lượng, chưa thấy hết khả năng đối phó của địch cũng như những mặt hạn chế của ta, đề ra mục tiêu của cuộc tiến công vượt quá khả năng của ta, chỉ đạo kế hoạch ứng phó chưa đầy đủ và kịp thời. Vì vậy, thương vong và tổn thất còn ở mức cao.

Theo Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, 2018, tr.279-282.

Mục lục

  • 1 Lực lượng tham chiến
    • 1.1 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
    • 1.2 Quân lực Việt Nam Cộng hòa
    • 1.3 Không lực Hoa Kỳ và Hải quân Hoa Kỳ yểm trợ
  • 2 Ý đồ của các bên tham chiến và vai trò của các nước lớn có liên quan
    • 2.1 Ý đồ và phương án tấn công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
      • 2.1.1 Ý đồ chiến lược chính trị, quân sự, ngoại giao
      • 2.1.2 Khó khăn của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
      • 2.1.3 Phương án tấn công
        • 2.1.3.1 Hướng Trị Thiên Huế
          • 2.1.3.1.1 Giai đoạn I
          • 2.1.3.1.2 Giai đoạn II
        • 2.1.3.2 Hướng Bắc Tây Nguyên
        • 2.1.3.3 Hướng Đông Nam Bộ
    • 2.2 Phương án phòng thủ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa
      • 2.2.1 Mục tiêu chính trị - quân sự
      • 2.2.2 Phương án phòng thủ
        • 2.2.2.1 Vùng chiến thuật I
        • 2.2.2.2 Vùng chiến thuật II
        • 2.2.2.3 Vùng chiến thuật III
    • 2.3 Vai trò của các nước lớn trong chiến cục năm 1972
  • 3 Diễn biến chính của chiến cục
    • 3.1 Tại mặt trận Trị Thiên Huế
    • 3.2 Tại Tây Nguyên và Bắc Bình Định
      • 3.2.1 Mặt trận Bắc Tây Nguyên
      • 3.2.2 Mặt trận phối hợp Bắc Bình Định
    • 3.3 Tại Nam Bộ
      • 3.3.1 Chiến dịch Nguyễn Huệ
      • 3.3.2 Chiến dịch khu 8
    • 3.4 Các chiến trường phối hợp
    • 3.5 Mặt trận phòng không ở miền Bắc năm 1972
  • 4 Mặt trận ngoại giao tại Hội nghị Paris
  • 5 Kết quả chiến cục
    • 5.1 Thế yếu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và "lối thoát danh dự" của Hoa Kỳ
    • 5.2 Những mục tiêu đạt được và chưa đạt được của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
  • 6 Chú thích
  • 7 Tham khảo
  • 8 Xem thêm
  • 9 Liên kết ngoài

Lực lượng tham chiếnSửa đổi

[xem tổng quát tại bảng so sánh]

Quân Giải phóng miền Nam Việt NamSửa đổi

Mặt trận Trị Thiên Huế

  • Giai đoạn 1 [30/3/1972 đến 27/6/1972]: Các sư đoàn bộ binh 304, 308, 324; các trung đoàn bộ binh 48, 27, 66; 3 tiểu đoàn đặc công; 2 trung đoàn tăng - thiết giáp 202, 203; 4 trung đoàn pháo binh 164, 38, 45, 84; 2 sư đoàn phòng không 376, 377[15]
  • Giai đoạn 2 [28/6/1972 đến 31/1/1973]: Các sư đoàn bộ binh 304, 305, 320B, 325, 312; các trung đoàn bộ binh 6, 27; 3 trung đoàn pháo binh 164, 45, 84; 4 trung đoàn cao xạ 241, 243, 250, 280, trung đoàn tên lửa phòng không 236, trung đoàn tăng - thiết giáp 203, 2 trung đoàn công binh 229, 249. 5 tiểu đoàn đặc công [16]
  • Đây là mặt trận được tập trung nhiều binh lực nhất, bao gồm những đơn vị dự bị chiến lược như sư đoàn 308, các đơn vị xe tăng cơ giới. Đặc biệt ở giai đoạn sau, những đơn vị ban đầu của GĐ1 phục hồi sức chiến đấu và tăng cường hoạt động.
Chỉ huy chiến dịch: Đại diện Quân ủy Trung ương: Thượng tướng Văn Tiến Dũng. Tư lệnh: Thiếu tướng Lê Trọng Tấn [đến 27/6/1972], Thiếu tướng Trần Quý Hai. Chính ủy: Thiếu tướng Lê Quang Đạo [đến 27/6/1972], Trung tướng Song Hào.

Mặt trận Bắc Tây Nguyên

2 sư đoàn bộ binh [2 và 320A], 4 trung đoàn bộ binh [24, 28, 95, 66], 2 trung đoàn pháo binh [40, 675], Trung đoàn cao xạ 234, 2 tiểu đoàn tăng độc lập; 2 tiểu đoàn đặc công địa phương; 2 tiểu đoàn bộ binh địa phương. Chỉ huy chiến dịch Tư lệnh: Thiếu tướng Hoàng Minh Thảo Chính ủy: Trương Chí Cương, Ủy viên Ban chấp hành trung ương Đảng Lao động Việt Nam.

Mặt trận Đông Nam Bộ

Các sư đoàn bộ binh 5, 7, 9; các trung đoàn 16, 24, 271 [họp thành đơn vị C30B thuộc Bộ Tư lệnh Miền, tương đương sư đoàn]; trung đoàn đặc công 429; 2 tiểu đoàn tăng; 2 trung đoàn pháo binh [45 và 75]. Đây là những lực lượng được dồn vũ khí hạng nặng để tấn công. Đóng ở phía sau các đơn vị này, QĐNDVN chỉ còn lại 3 trung đoàn 201, 205, 207 làm dự bị cuối cùng. Hầu như không còn đơn vị cấp trung đoàn nào đủ mạnh để chi viện. Tại Bà Rịa - Long Khánh có trung đoàn Đồng Nai và 2 trung đoàn thiếu của chủ lực QK7. Tại QK8 có trung đoàn Đồng Tháp và trung đoàn 88. Tại QK9 có các tiểu đoàn thành phần của trung đoàn U Minh. Tất cả phải bám địa bàn không thể tham chiến, một số được điều động cho chiến trường phối hợp sau đó. Chỉ huy chiến dịch Đại diện quân ủy miền: Phạm Hùng Đại diện Quân ủy Trung ương: Trung tướng Hoàng Văn Thái Tư lệnh: Trung tướng Trần Văn Trà, Phó tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Chính ủy: Thiếu tướng Trần Độ

Chiến trường phối hợp Bắc Bình Định

Sư đoàn bộ binh 3, trung đoàn 8 chủ lực khu V; hai tiểu đoàn đặc công; bộ đội địa phương Chỉ huy chiến dịch phối hợp Tư lệnh: Thiếu tướng Chu Huy Mân Chính ủy: Võ Chí Công, Bí thư khu ủy khu V

Chiến trường phối hợp đồng bằng Nam Bộ

Phần lớn quân chủ lực được kéo từ chiến trường chính sang miền Tây. Tại hướng phối hợp, lực lượng bao gồm Sư đoàn bộ binh 5, các trung đoàn độc lập [271, 207, 320]; Trung đoàn pháo 28; tiểu đoàn đặc công khu 8, D công binh chủ lực Miền; bộ đội địa phương. Chỉ huy chiến dịch phối hợp Tư lệnh kiêm Chính ủy: Trung tướng Hoàng Văn Thái Phó Chính ủy: Đồng Văn Cống, Lê Văn Tưởng.

Mặt trận đất đối không ở miền Bắc của Quân đội Nhân dân Việt Nam

8 trung đoàn tên lửa đất đối không SAM-2 [238, 257, 261, 263, 265, 267, 274, 285]; 16 trung đoàn pháo cao xạ; 3 trung đoàn không quân tiêm kích [trang bị MiG-17, MiG-19, MiG-21]; 3 trung đoàn radar cảnh giới; 1 tiểu đoàn radar độc lập; hơn 200 trung đội súng phòng không tầm thấp.Chỉ huy các chiến dịch Phó tổng tham mưu trưởng phụ trách quân chủng: Đại tá Phùng Thế Tài Tư lệnh Quân chủng phòng không-không quân: Đại tá Lê Văn Tri. Chính ủy: Đại tá Hoàng Phương Không quân:
  • Tư lệnh: Thượng tá Đào Đình Luyện
Sư đoàn phòng không 361:
  • Tư lệnh: Thượng tá Trần Quang Hùng
  • Chính ủy: Thượng tá Trần Văn Giang
  • Tham mưu trưởng: Trung tá Nguyễn Đình Sơn
Sư đoàn phòng không 363:
  • Tư lệnh: Thượng tá Bùi Đăng Tự
  • Chính ủy: Thượng tá Vũ Trọng Cảnh

Quân lực Việt Nam Cộng hòaSửa đổi

Trị Thiên Huế

  • Giai đoạn 1 [30/3/1972 đến 27/6/1972]: 2 sư đoàn bộ binh [1, 3]; 2 lữ thủy quân lục chiến [TQLC] [147, 258], 3 thiết đoàn [1, 17, 20], lữ dù 2 và Bộ Tư lệnh tiền phương sư đoàn dù, 9 cụm pháo [mỗi cụm 20 khẩu]; 2 liên đoàn biệt động quân [BĐQ] [4, 5].[15]
  • Giai đoạn 2 [28/6/1972 đến 31/1/1973]: sư đoàn bộ binh 1; Sư đoàn TQLC [gồm đủ 4 lữ 147, 258, 369, 470]; Sư đoàn Dù [gồm đủ 3 lữ 1, 2, 3 và lữ biệt kích dù 81]; 4 thiết đoàn 11, 17, 18, 20; 3 liên đoàn BĐQ [1, 4, 7]; 3 trung đoàn pháo; 1 liên đoàn không quân[16]
Chỉ huy chiến dịch: Tư lệnh: Trung tướng Hoàng Xuân Lãm [đến 5/5/1972], Trung tướng Ngô Quang Trưởng.

Bắc Tây Nguyên

2 sư đoàn bộ binh [22 và 23], 2 liên đoàn BĐQ [1,6], 14 tiểu đoàn bảo an; 3 cụm pháo [mỗi cụm 16 khẩu]; Thiết đoàn 14; lữ dù 3 [đến ngày 5/5/1972], Liên đoàn Không quân số 6 [QLVNCH]. Chỉ huy chiến dịch Tư lệnh: Trung tướng Ngô Dzu [đến 1/5/1972], Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn Cố vấn quân sự: John Paul Vann.

Đông Nam Bộ

Các sư đoàn 5, 18, 21, 25; trung đoàn 15; lữ dù 1 và lữ biệt cách dù 81 [đến ngày 15/5/1072]; các liên đoàn BĐQ 2, 8, 9; 7 thiết đoàn: 5, 6, 7, 9, 10, 13, 15; 2 trung đoàn; các liên đoàn không quân 3 và 5. Chỉ huy chiến dịch Tư lệnh Quân đoàn 3: Trung tướng Nguyễn Văn Minh Tư lệnh chiến trường: Đại tá Lê Văn Hưng, Đại tá Lê Minh Đảo [sau chiến cục cả hai đều được thăng Chuẩn tướng]

Đồng bằng Nam Bộ

Sư đoàn 7, sư đoàn 9; 7 trung đoàn bộ binh độc lập; 2 trung đoàn pháo; 2 thiết đoàn; 2 giang đoàn, Liên đoàn không quân 4.

Không lực Hoa Kỳ và Hải quân Hoa Kỳ yểm trợSửa đổi

Không quân:
  • 2 không đoàn máy bay ném bom chiến lược B-52 [D và G]
  • 1 liên đội máy bay F-111
  • 5 liên đoàn không quân chiến thuật F-4 và A-7
  • 2 liên đội trinh sát và tác chiến điện tử SR-71, EB-66, EC-121, F-105G
  • 2 liên đoàn tiếp dầu KC-135
Hải quân: 6 Tàu sân bay, 135 Tàu tuần dương, Tàu khu trục và tàu nổi khác. Chỉ huy các chiến dịch Trung tướng John W. Vogt Jr: Phó tư lệnh TAC tại Tập đoàn không quân số 7 Trung tướng John D. Ryan: Tư lệnh Tập đoàn không quân số 7 [từ 7/4/1972] Trung tướng Gerald W. Johnson: Tư lệnh Tập đoàn không quân số 8 Tại căn cứ Guam]: Thiếu tướng Andrew B. Anderson Jr Tư lệnh không đoàn lâm thời số 57 Tại căn cứ U-Tapao]: Thiếu tướng Glenn R. Sullivan, Tư lệnh không đoàn lâm thời số 17 Hạm đội 7: Phó Đô đốc William P. Mack [đến ngày 23 tháng 5 năm 1972]; Phó Đô đốc James L. Holloway III [từ ngày 23 tháng 5 năm 1972]

Trong quá trình chiến đấu, Hoa Kỳ còn tiến hành chiến dịch tiếp vận quy mô lớn để bổ sung cho những thiệt hại của quân VNCH thông qua 2 chiến dịch Tăng cường [Operations Enhance và Enhance Plus], được tiến hành từ tháng 5 đến tháng 12 năm 1972. Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon vào ngày 17 tháng 5 đã chỉ đạo rằng phải cung cấp tối đa trang bị và vật chất cho quân VNCH càng nhanh càng tốt. Cụ thể:

  • "Chiến dịch Tăng cường" đã cung cấp cho quân VNCH hàng nghìn vũ khí chống tăng, 69 máy bay trực thăng, 55 máy bay chiến đấu phản lực, 100 máy bay khác và 7 tàu tuần tra[17] Trang bị cho lục quân bao gồm 2 tiểu đoàn pháo phòng không, 3 tiểu đoàn pháo tự hành 175mm, 2 tiểu đoàn xe tăng M48A3 và 141 bệ phóng tên lửa chống tăng BGM-71 TOW[18]:511
  • "Chiến dịch Tăng cường Plus" từ tháng 10 tới tháng 12/1972 cũng viện trợ rất lớn, bao gồm 234 máy bay chiến đấu phản lực F-5A và A-37 Dragonfly, 32 máy bay vận tải C-130, 277 trực thăng UH-1H , 72 xe tăng, 117 xe bọc thép chở quân, pháo binh và 1.726 xe tải[18]:512 Chi phí trang bị lên tới khoảng 750 triệu đôla [~6 tỷ đôla thời giá năm 2017].

Ngoài ra, khi hai sư đoàn Hàn Quốc [khoảng 38.000 quân] rút khỏi Việt Nam thì phần lớn trang bị của họ cũng được trao lại cho quân VNCH. Thêm nữa, trong quá trình quân viễn chinh Mỹ rút khỏi Việt Nam, phần lớn vũ khí trong các căn cứ Mỹ đều được chuyển giao cho quân VNCH chứ không đưa về Mỹ[19] Kết quả số lượng viện trợ rất lớn này là quân VNCH vào cuối năm 1972 đã có lực lượng không quân lớn thứ 4 và lục quân lớn thứ 5 trên thế giới xét về số lượng trang bị.

Ý đồ của các bên tham chiến và vai trò của các nước lớn có liên quanSửa đổi

Ý đồ và phương án tấn công của Quân Giải phóng miền Nam Việt NamSửa đổi

Ý đồ chiến lược chính trị, quân sự, ngoại giaoSửa đổi

Chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bí thư Quân ủy Trung ương

Tại cuộc họp ngày 15 tháng 8 năm 1971, các thành viên chủ chốt trong Bộ chính trị đã quyết định mở một cuộc tấn công lớn vào năm 1972 trên 3 hướng chiến lược: Trị Thiên Huế, Bắc Tây Nguyên, và Đông Nam Bộ. Trong đó, hướng Đông Nam Bộ [tuyến Lộc Ninh - Bình Long - Chơn Thành - Bến Cát] được chọn làm hướng tấn công chính. Hướng Trị Thiên, Tây Nguyên là các hướng tấn công thứ yếu. Đồng bằng Trung Trung Bộ và Đồng Bằng Nam Bộ là những hướng phối hợp.[20]

Điện ngày 8 tháng 3 năm 1972 của Tổng Quân ủy Trung ương gửi Trung ương cục miền Nam có đoạn viết: "Năm 1972 là năm hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh... trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao. Nhiệm vụ cần kíp là đẩy mạnh tấn công quân sự, chính trị, binh vận.. và ngoại giao... tạo ra một chuyển biến căn bản làm thay đổi cục diện trên chiến trường miền Nam và cả trên bán đảo Đông Dương. Buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh... bằng một giải pháp chính trị... mà Mỹ có thể chấp nhận được".[21]

Ngày 10 tháng 3 năm 1972, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn gửi thư cho Trung ương cục miền Nam và khu ủy các khu về chiến cục năm 1972. Bức thư có đoạn viết: "Mục tiêu của ta trong giai đoạn này là tạo ra tình hình có hai chính quyền song song tồn tại".[22]

Ý đồ chiến cục năm 1972 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam không chỉ là những mục tiêu quân sự. Ngoài mục tiêu tiêu diệt được một bộ phận lớn sinh lực và vũ khí, khí tài của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Chiến cục này còn nhằm nâng cao vị trí hợp pháp, hợp lý cho sự tồn tại vốn có từ trước của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cả về địa bàn đứng chân, dân cư, thủ đô. v.v...; để chuyển thế đối thoại ở Paris từ tay đôi [Hoa Kỳ-Việt Nam Dân chủ Cộng hòa] sang bốn bên: Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa chứ không phải là tay ba như Mỹ và Việt Nam Cộng hòa cùng chủ trương [Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa]. Do đó, đây là mục tiêu chính trị tối cao của Quân Giải phóng.

Sau khi tính toán lại. Ngày 11 tháng 3 năm 1972, Thường vụ Tổng Quân ủy Trung ương quyết định chọn hướng Trị-Thiên làm hướng tấn công chính: "Trị Thiên từ vị trí là hướng phối hợp quan trọng chuyển thành hướng chiến lược chủ yếu nhằm tiêu diệt một phần lớn sinh lực địch và mở rộng vùng giải phóng, góp phần thay đổi so sánh lực lượng..., thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam, đưa cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới".[23]

Ngày 27 tháng 3 năm 1972, Ủy viên Bộ chính trị Lê Đức Thọ gửi điện số 119 đến Trung ương cục miền Nam: "Nếu trong Xuân - Hè này ta diệt được một số sư đoàn chủ lực, chiếm được một số vị trí quan trọng sẽ tạo điều kiện để ta có thể đánh tiếp tục làm cho địch bị tiêu diệt và tan rã hơn nữa trong đợt Thu tiếp theo đó,...lực lượng so sánh trên chiến trường có sự thay đổi rất lớn và tác động đến toàn bộ hệ thống... Một đặc điểm khác của cuộc tấn công này là đánh liên tục trong một thời gian dài từ xuân - hè cho đến mùa thu, khác với các lần trước đây khi xong xuân-hè ta nghỉ một thời gian để củng cố rồi mới lại đánh tiếp. Tuy nhiên, sau xuân-hè, ở Tây Nguyên và Nam Bộ bước vào mùa mưa nên hoạt động của chủ lực ta có phần bị hạn chế, nhưng ở Khu V và Trị Thiên thì mùa khô còn kéo dài đến tháng 8, tháng 9. Như vậy, ta phải có kế hoạch để liên tục đánh mạnh ở Khu V và Trị Thiên. Lúc đó ở Nam Bộ và Tây Nguyên phải có kế hoạch hoạt động phối hợp một cách chủ động".[24] Bức điện của Lê Đức Thọ cho thấy các hoạt động quân sự của Quân Giải phóng ở miền Nam năm 1972 không phải là các chiến dịch riêng lẻ mà nằm trong một kế hoạch chiến cục lớn [Chiến cục năm 1972] với tổng hợp các mục tiêu quân sự, chính trị, ngoại giao.

Khó khăn của Quân Giải phóng miền Nam Việt NamSửa đổi

Nhưng thực tế buộc các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam phải tính toán lại chiến lược của mình, thay đổi vị trí, tầm quan trọng của các hướng tấn công chính do không thể bảo đảm phương tiện, vũ khí hậu cần cho các chiến dịch. Quân Giải phóng mặc dù có nhiều tiến bộ song vẫn còn kém xa QLVNCH về trang bị, cụ thể:

  • QLVNCH có không quân riêng với hơn 1.200 máy bay, chưa kể hàng ngàn máy bay Mỹ cũng sẵn sàng tham gia chiến đấu; Quân Giải phóng không có máy bay [Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ có gần 100 máy bay tiêm kích để phòng thủ không phận miền Bắc, không có cường kích]. Quân đội Nhân dân Việt Nam ngoài Bắc có SAM-2, SAM-7 và pháo cao xạ nhưng phải vừa yểm hộ chiến trường, vừa phòng thủ toàn bộ không phận miền Bắc với cơ số đạn hạn chế do Trung Quốc cố tình làm chậm việc chuyển hàng quân sự từ Liên Xô đến Việt Nam. Không lực Hoa Kỳ phong tỏa các cảng của Bắc Việt Nam từ ngày 6 tháng 4 năm 1972, khi chiến sự nổ ra.
  • QLVNCH có hơn 1.000 máy bay trực thăng chở quân và yểm hộ mặt đất; Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam không có. QLVNCH có không quân chiến thuật [TAC], lại được Hoa Kỳ yểm trợ bằng không quân chiến lược [SAC] [chủ yếu là B-52] và các pháo hạm của Hạm đội 7; Quân Giải phóng không có. Khối xã hội chủ nghĩa cũng không yểm trợ bất cứ phương tiện nào ở miền nam, muốn có vũ khí chiến đấu thì Quân Giải phóng phải tự vận chuyển vào qua Đường Trường Sơn. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ chối các khoản viện trợ có toan tính nên không nhận được thêm viện trợ về chuyển quân bằng cơ giới.
  • Bộ binh, quân dù, thủy quân lục chiến của QLVNCH tiếp cận chiến trường và tham chiến bằng máy bay trực thăng, tàu đổ bộ LCU, xe thiết giáp M-113 các loại quân xa khác; bộ binh Quân Giải phóng tiếp cận chiến trường bằng đôi chân [trừ sư đoàn 308 bộ binh cơ giới]. Chiến trường ở xa làm hao hụt quân số do sốt rét, ốm đau, bị oanh tạc trên đường hành quân. Trung bình 10 quân xuất phát thì chỉ có từ 4 đến 6 người đến đích và tham chiến. Các đơn vị càng ở xa càng thiếu thụt quân số bổ sung.
  • Về xe cơ giới, xe tăng: trong năm 1971, QĐNDVN chỉ nhận được 58 xe tăng T-54, 18 xe tăng T-59 [do Trung Quốc chế tạo], 27 xe tăng lội nước hạng nhẹ PT-76 [do Ba Lan chế tạo][25]. Dù sao, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng đã có thể huy động 1 lực lượng tăng thiết giáp tham gia chiến dịch lớn nhất từ trước đến nay. Theo nguồn của Anh, có khoảng 300 xe tăng, thiết giáp các loại đã vào miền Nam qua giới tuyến quân sự tạm thời; trong khi ở mặt trận phía Nam cũng có khoảng 100 xe tăng và xe thiết giáp tham chiến[26]. Theo thống kê của Quân Giải phóng miền Nam [bên điều quân], đã có 136 xe tăng T-54, 24 pháo cao xạ tự hành ZSU-57-2, 54 xe tăng PT-76 được đưa vào mặt trận, tuy nhiên không có thống kê số lượng xe tăng T-34 và xe thiết giáp BTR-50 tham chiến. Tại An Lộc theo Quân Giải phóng thì họ chỉ có 48 xe tăng và xe thiết giáp, trong đó có 17 xe chiến lợi phẩm thu được của QLVNCH trong trận Snul [từ 25 đến 51/5/1971].[27][28] Đây là tiến bộ đáng kể của binh chủng [công đầu thuộc về bộ đội xăng dầu] trong việc lắp đường ống tiếp liệu từ miền bắc vào chiến trường. Tuy vậy, số lượng thiết giáp này vẫn ít hơn nhiều so với đối phương [tại miền Nam, Mỹ và Việt Nam Cộng hòa có khoảng 3.000 xe tăng, xe thiết giáp các loại].
  • Toàn bộ 3 trung đoàn pháo binh dự bị chiến lược đều tham chiến [Trị Thiên 2, Tây Nguyên 1]; 6 trung đoàn pháo binh của các sư đoàn đều tham chiến [Trị Thiên 3, Tây nguyên 1, Đông Nam Bộ 2]. Đặc điểm chung là pháo binh Quân Giải phóng tương đối thiếu đạn: Pháo dự bị chiến lược có 4 cơ số, pháo sư đoàn chỉ có 2,5 cơ số. QLVNCH có 1.671 khẩu pháo các loại, trong đó có hơn 800 khẩu có cỡ nòng từ 105mm trở lên; được đảm bảo từ 8 đến 10 cơ số đạn.[29] Tuy nhiên số pháo này lại đóng rải rác ở các tỉnh chứ không tập trung như Quân Giải phóng. Trong suốt chiến dịch năm 1972, Quân Giải phóng đã dùng khoảng 400.000 viên, dẫn đến sự thiếu hụt đạn pháo vào năm 1975.
  • Về nhân lực, do chiến sự kéo dài lẻ tẻ trong giai đoạn VN hóa chiến tranh, các lực lượng quân Giải phóng tổn thất nhiều về người và phụ thuộc lớn vào con đường tiếp tế khó khăn từ miền Bắc. Các đơn vị chính quy rất hay bị thiếu người, mà quân số chi viện từ đường Trường Sơn vào B bị tiêu hao dọc đường khá lớn. Trong nửa cuối năm 1972, hậu phương miền bắc đã phải kêu gọi sinh viên và giảng viên trẻ từ các trường đại học, cao đẳng; nhiều khi thanh niên trẻ đã rủ nhau viết đơn tình nguyện nhập ngũ.

Phương án tấn côngSửa đổi

Vì gặp phải những khó khăn lớn do không quân Mỹ oanh tạc mạnh dọc tuyến Đường Trường Sơn nên chỉ có hai đại đội xe tăng T54 và hai đại đội xe tăng PT76 vào đến miền Đông Nam Bộ [B2], số còn lại được thay thế bằng xe tăng M41 chiến lợi phẩm chiếm được của QLVNCH và quân Lon Nol. Các đơn vị pháo mạnh thuộc lực lượng pháo binh chiến lược định đưa đến Đông Nam Bộ phải dừng lại ở Bắc Tây Nguyên [B3] và được lệnh chuyển hướng tham gia chiến dịch này. Cũng do sự thay đổi hướng tấn công chính được ấn định muộn nên trong thế bố trí của Quân Giải phóng tham gia tấn công cũng có sự thay đổi. Sư đoàn 320A chỉ nhận được Trung đoàn 52 tham gia chiến dịch Bắc Tây Nguyên, số quân còn lại sẽ được bổ sung bằng bộ binh bảo vệ Đường Trường Sơn [đoàn 968 bảo vệ Tây Trường Sơn]. Trung đoàn 48 và trung đoàn 64 được bổ sung trung đoàn 27 độc lập thành Sư đoàn 320B chiến đấu tại mặt trận Trị Thiên [B5] và có đến 2 trung đoàn cùng mang số 48 tham chiến ở thị xã QT. Trung đoàn 88 [Sư đoàn 308] vừa tham gia xong chiến dịch Cánh đồng chum - Xiêng Khoảng [Trung Lào] được lệnh về hội quân với chủ lực Sư đoàn 308 ở Tây Vĩnh Linh [tháng 12-1971].

Hướng Trị Thiên HuếSửa đổi Giai đoạn ISửa đổi

- Cánh quân phía Tây: Sư đoàn 304 ở Tây Hướng Hóa tấn công từ điểm cao 544 đến Động Toàn, phát triển đến Mai Lộc, Phượng Hoàng; phối hợp tiểu đoàn 3 [trung đoàn tăng - thiết giáp 203] đánh chiếm La Vang, TX Quảng Trị, chia cắt, cô lập sư đoàn 3 QLVNCH, lữ 147 TQLC, trung đoàn 2 [sư đoàn 3], thiết đoàn 17, các liên đoàn BĐQ 4, 5 đóng ở Bắc sông Thạch Hãn. Mục tiêu cuối cùng là đánh chiếm thị xã Quảng Trị. Yểm hộ cho hướng này có các trung đoàn pháo binh 65, 38 [đoàn Bông Lau trang bị pháo 130mm] và Sư đoàn phòng không 377.

- Cánh quân Tây Nam: Sư đoàn 324 ở Động Ché và Đá Bàn tấn công từ Động Ngô đến Động Tranh, phát triển đến Động Ông Do và Mỹ Chánh, chia cắt, cô lập các đơn vị QLVNCH đóng từ Nam sông Thạch Hãn đến Bắc Sông Mỹ Chánh: trung đoàn 1 [sư đoàn 1], thiết đoàn 20, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3. Yểm hộ có hướng này có trung đoàn 365 [của mặt trận Trị Thiên].

- Cánh quân phía Bắc: sư đoàn 308 [thiếu] và trung đoàn tăng - thiết giáp 203 [thiếu] vượt sông Bến Hải tấn công các cứ điểm từ Dốc Miếu - Cồn Tiên đến Cam Lộ, phối hợp với tiểu đoàn 6 phát triển đến Lai Phước, đánh chiếm Đông Hà - Ái Tử. Các trung đoàn 27, 64 [sư 320B], 18 [sư 325], và tiểu đoàn 7 [trung đoàn tăng 202] đánh chiếm Cửa Việt, phát triển đến Triệu Phong, sau đó tách trung đoàn 27 phối hợp với Sư đoàn 308 đánh chiếm Ái Tử; các trung đoàn 64, 18 và tiểu đoàn 7 tấn công dọc bờ biển, phát triển đến Hải Lăng và Bắc sông Mỹ Chánh, hội quân với Sư đoàn 324, bao vây toàn bộ lực lượng QLVNCH từ Nam sông Bến Hải đến Bắc sông Mỹ Chánh. Yểm hộ cho hướng này có các trung đoàn pháo binh 154, 84; Sư đoàn phòng không 367.

- Lực lượng dự bị: sư đoàn 325 [thiếu], sư đoàn 320B [thiếu], sư đoàn 312 [mới có 1 trung đoàn đến mặt trận], tiểu đoàn 808 địa phương, trung đoàn pháo binh 45 [đoàn Tất Thắng], trung đoàn tăng - thiết giáp 202 [thiếu].

Giai đoạn IISửa đổi

Bao vây, tiêu diệt và làm tan rã các đơn vị QLVNCH đóng từ Nam Bến Hải đến Bắc Mỹ Chánh, đánh chiếm các căn cứ đầu cầu ở bờ Nam sông Mỹ Chánh, đưa lực lượng dự bị vượt sông, phát triển đến Phong Điền, Cầu Nhi, Phố Trạch. Nếu có thời cơ sẽ đánh chiếm thành phố Huế.

Hướng Bắc Tây NguyênSửa đổi

Được xác định là hướng phối hợp, Quân Giải phóng chỉ bố trí ở Bắc Tây nguyên một lực lượng hạn chế. Lực lượng dự bị chỉ có đoàn 968 vừa tham gia chiến dịch Cánh đồng chum - Xiêng Khoảng về, đang trong giai đoạn củng cố. Phương án tấn công được phân chia thành 3 đợt:

Đợt tạo thế

Các trung đoàn 400 [thuộc 559] và 28 [độc lập] cắt đường 14 ở Bắc Võ Định, các trung đoàn 2 và 3 [đoàn 320A] tấn công các tiền đồn phía Tây, vượt sông Pô-kô đánh chiếm Võ Định, cô lập cụm cứ điểm Đắc Tô - Tân Cảnh với Kon Tum. Các trung đoàn 24, 85, tiểu đoàn 6 và 16 [quân địa phương] cắt đường 14 ở Chư Thoi, Tân Phú, phía Nam Kon Tum 25km, cô lập cụm cứ điểm Kon Tum.

Đợt 1

Sư đoàn 2 [chủ lực khu V] và trung đoàn 66 [độc lập] có 1 tiểu đoàn phối hợp tấn công các cứ điểm quận lỵ Đắc Tô, các tiền đồn Plei Cần, Ngọc Rinh Rua, Ngọc Bờ Biêng, Đắc Moi, đánh chiếm cụm phòng ngự Đắc Tô - Tân Cảnh. Đánh tiêu hao các lực lượng QLVNCH từ Kon Tum lên ứng cứu cho Đắc Tô - Tân Cảnh.

Đợt 2

Đưa toàn bộ lực lượng dự bị tham chiến gồm 1 tiểu đoàn [thiếu], đoàn 968 [thiếu], đánh chiếm thị xã Kon Tum.

Hướng Đông Nam BộSửa đổi

Vì là chiến trường xa nhất trong ba hướng chiến lược nên về trang bị, vũ khí, khí tài nặng, phương tiện, đạn trái phá. v.v... mặt trận Đông Nam Bộ được tiếp tế ít nhất, phải dựa vào sức mình là chính. Bộ chỉ huy chiến dịch cũng chia phương án tấn công thành ba đợt.

Đợt 1

Trung đoàn 271, một tiểu đoàn của trung đoàn 24 và một đại đội tăng tấn công nghi binh hướng Tân Biên - Xa Mát, kéo lực lượng của Sư đoàn 25 và Lữ đoàn biệt kích dù 81 [QLVNCH] về hướng Tây Bắc. Hai tiểu đoàn còn lại của trung đoàn 24 tấn công Chi Phú, Gò Dầu, cắt đường Thủ Dầu Một - Xoài Riêng, kéo Trung đoàn 3 [Sư đoàn 5 QLVNCH] tiến ra phản kích, làm suy yếu lực lượng dự bị phòng thủ Đông Nam Bộ. Yểm hộ các hướng này chỉ có 3 đại đội cối 120 và 81.

Đợt 2

Sư đoàn 5 và một tiểu đoàn tăng [thiếu] đánh chiếm Lộc Ninh. Cùng lúc, Sư đoàn 9, trung đoàn 271 và một tiểu đoàn tăng tấn công bao vây, cô lập và đánh chiếm An Lộc [Bình Long]. Hai tiểu đoàn bộ binh địa phương và 1 tiểu đoàn đặc công đánh chiếm tiền đồn Phước Long ở cực Đông tuyến phòng ngự Đông Nam Bộ. Sư đoàn 7 cắt đứt đường 13 ở Tàu Ô, Chơn Thành, lập các chốt chặn đánh tiêu hao lực lượng QLVNCH ở Bến Cát lên ứng cứu. Sử dụng Trung đoàn pháo binh 75 yểm hộ cho các đơn vị tấn công Lộc Ninh, Trung đoàn pháo binh 40 yểm hộ cho các đơn vị tấn công An Lộc

Đợt 3

Đưa lực lượng dự bị gồm: các trung đoàn bộ binh 205, 101, các tiểu đoàn độc lập 12, 14, 205, 209, 289 [thuộc C30B của khối chủ lực Miền] phối hợp với các lực lượng đã tham chiến phát triển đến tuyến Bến Cát, Thủ Dầu Một. Đánh chiếm toàn bộ tỉnh Bình Long.

Phương án phòng thủ của Quân lực Việt Nam Cộng hòaSửa đổi

Mục tiêu chính trị - quân sựSửa đổi

Đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng QLVNCH

Các cơ quan tình báo của Việt Nam Cộng hòa chỉ thông qua các điệp viên mình cài được vào một đơn vị Quân giải phóng người miền Nam [thông qua các chiến dịch Thiên Nga, Phượng Hoàng] để nắm tin tức. Tất cả các tư lệnh vùng I chiến thuật [Trung tướng Hoàng Xuân Lãm], vùng II chiến thuật [Trung tướng Ngô Du], vùng III chiến thuật [Trung tướng Nguyễn Văn Minh] đều quả quyết với Đại tướng Cao Văn Viên rằng: Việt Cộng sẽ mở một đợt tấn công còn lớn hơn năm 1968 và chắc chắn là vào vùng mà họ phụ trách. Thời điểm tấn công chắc chắn sẽ diễn ra trong dịp Tết Nhâm Tý. Điều này gây khó xử cho Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Họ bị phụ thuộc vào các cơ quan tình báo Hoa Kỳ và MACV trong việc nắm tình hình xâm nhập của đối phương. Vì không thể biết đích xác thời điểm và hướng tấn công chính của đối phương nên họ không thể chủ động có được một thế trận phòng ngự có trọng điểm, trọng tâm. Đại tướng Cao Văn Viên đành phải chấp nhận rải đều các lực lượng dự bị chiến lược của ông ta ra khắp ba vùng chiến thuật [chủ yếu là Sư đoàn dù và Sư đoàn Thủy quân lục chiến] [30].

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lo lắng, phần vì năm Nhâm Tý là "năm tuổi" của ông, phần vì Hoa Kỳ đang thúc ép ông phải nhượng bộ để sớm giải quyết vấn đề Việt Nam, phần nữa là mặc dù Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã phục hồi phần lớn các đơn vị dự bị chiến lược sau thất bại trong chiến dịch Lam Sơn 719 nhưng đây là lần đầu tiên, Quân lực Việt Nam Cộng hòa tác chiến mà không có lục quân Mỹ đi cùng, chỉ có máy bay yểm hộ từ trên trời và pháo hạm từ biển. Để tăng cường cho hướng Quảng Trị, ngày 1 tháng 10 năm 1971, ông đã cho thành lập Sư đoàn 3 bộ binh Sư đoàn Bến Hải mà không được sự đồng ý của người Mỹ, làm phật lòng Đại tướng Creighton Abrams.[31].

Mục đích cuối cùng của thế trận phòng ngự năm 1972 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố vào dịp Tết Nhâm Tý: "Tử thủ, nỗ lực tối đa để ngăn chặn sự xâm lăng của Cộng sản".[30]

Thực hiện hiện mệnh lệnh của Nguyễn Văn Thiệu, ngày 10 tháng 2 năm 1972, Đại tướng Cao Văn Viên đã mời Đại tướng Abrams ra Đà Nẵng, triệu tập các tướng Hoàng Xuân Lãm, Vũ Văn Giai và bộ tham mưu Quân khu I bàn kế hoạch phòng thủ Quảng Trị. Tướng Hoàng Xuân Lãm tuyên bố: "Nếu có một cuộc tấn công mạnh của Cộng sản thì những tuyến phòng thủ của Việt Nam Cộng hòa chỉ có thể chùng nhưng không thể đứt".

Tóm lại, ý đồ chiến lược của phía QLVNCH là lấy phòng thủ làm chính, cố gắng giữ được càng nhiều, càng lâu càng tốt; chỉ phản công khi có thời cơ. Phương án tác chiến cũng dựa vào sự yểm hộ của không quân và hải quân Mỹ. Các sư đoàn bộ binh có trách nhiệm phòng thủ các địa bàn được giao; các sư đoàn trù bị chiến lược và biệt động quân, tăng-thiết giáp là lực lượng cơ động ứng cứu cho vùng nguy cấp. Để không rơi vào thế bị động phòng ngự, các lực lượng trù bị chiến lược không tập trung quanh thủ đô Sài Gòn như trước đây mà bố trí từng lữ đoàn ở các vùng chiến thuật trọng điểm; sau đó, tùy theo tình hình mà điều động. Trong thời điểm đó, đây là một phương án phòng thủ tối ưu có thể có được của phía Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Nguyễn Văn Thiệu từng tuyên bố: "Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chỉ là bóng ma chính trị do Cộng sản Bắc Việt dựng lên; không có dân, không có đất, không có thủ đô, không đủ tư cách để nói chuyện với Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ". Phía Việt Nam Cộng hòa hi vọng rằng sau khi "chặn đứng cuộc xâm lăng của Cộng sản", sẽ cùng với Mỹ tăng sức ép buộc đối phương phải rút phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam khỏi cuộc hòa đàm Paris; đặt yêu cầu miền Bắc rút quân khỏi miền Nam làm điều kiện để ký kết hiệp định chấm dứt chiến tranh. Đây là mục đích chính trị quan trọng nhất của phía Việt Nam Cộng hòa trong Chiến cục năm 1972.

Phương án phòng thủSửa đổi

Phán đoán cuộc tấn công lớn của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam có thể diễn ra trong Tết Nhâm Tý, Nguyễn Văn Thiệu yêu cầu Bộ Tổng tham mưu QLVNCH soạn thảo một kế hoạch sử dụng thủy quân lục chiến và bộ binh đánh ra Quảng Bình, Vĩnh Linh bằng đường biển [để không vi phạm khu phi quân sự], đánh vào hậu phương cách quân chủ lực của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đang tập trung tại đây; huy động 6 khu trục hạm, 2 tuần dương hạm và các tàu nổi khác yểm hộ. Tuy nhiên, tướng Abrams phản đối ý tưởng này, ông ta nhắc Nguyễn Văn Thiệu về Lam Sơn 719 và cho biết Mỹ có kế hoạch khác.[32].

Ngày 23/1/1972, Cao Văn Viên tường trình kế hoạch phối trí lực lượng phòng thủ[33][34]:

Vùng chiến thuật ISửa đổi

Tại Quảng Trị: Phòng thủ hướng Tây và Tây Nam là chính, hướng Bắc là hướng phải đề phòng. Phía biển đã có hạm đội hỗn hợp Việt-Mỹ ngăn chặn và yểm hộ. Lấy phòng ngự cơ động làm chiến thuật cơ bản. Các cụm phòng thủ trọng điểm:

  • Hướng Tây:
    • Tuyến 1: Đầu Mầu [544], Tân Lâm [241], Xa Mưu [597], Ba Hồ, Động Toàn [548];
    • Tuyến 2: Mai Lộc, Động Lớn
  • Hướng Tây Nam:
    • Tuyến 1: Động Ngô, Động Ông Do
    • Tuyến 2: Phượng Hoàng, La Vang
  • Hướng Bắc:
    • Tuyến 1: Dốc Miếu, Cồn Tiên, Bái Sơn, Quán Ngang
    • Tuyến 2: Cam Lộ, Lai Phước, Đông Hà
  • Hướng biển: Triệu Phong, Hải Lăng
  • Dải phòng ngự trung tâm: Ái Tử, TX Quảng Trị.

Tại Thừa Thiên Huế: Lấy Sông Mỹ Chánh làm tuyến phòng ngự cơ bản; giữ hướng Bắc là chính, Tây Nam và hướng Nam là hướng cần đề phòng, yểm hộ và tăng phái cho Quảng Trị nếu gặp nguy cấp. Các cụm phòng thủ trọng điểm:

  • Hướng Bắc:
    • Tuyến 1: Phong Điền, Mỹ Chánh, Câu Nhi;
    • Tuyến 2: Phố Trạch, Quảng Điền.
  • Hướng Tây Nam:
    • Tuyến 1: Động Tranh, Động Chúc Mao, Đèo Sơn Na
    • Tuyến 2: Khe Thai, Hòn Vượn
  • Hướng Nam: La Sơn, Lăng Cô, Hải Vân Bắc
  • Dải phòng ngự trung tâm: Thành phố Huế, Phú Bài

Tại Đà Nẵng: Căn cứ chỉ huy Vùng chiến thuật I, sư đoàn 2 dự bị của Quân đoàn I, căn cứ không quân, tiếp vận.

Vùng chiến thuật IISửa đổi

Tại Kon Tum: Phòng thủ hướng Tây và Bắc là chính, hướng Nam và Đông là hai hướng phải đề phòng. Lấy phòng ngự co cụm làm chiến thuật cơ bản. Các cụm phòng thủ trọng điểm:

  • Hướng Bắc:
    • Tuyến 1: Plei Cần, Đắc Moi, Ngọc Tu;
    • Tuyến 2: Quận lỵ Đắc Tô, Tân Cảnh, Diên Bình, Võ Định
  • Hướng Tây: Ngọc Rinh Rua, Ngọc Bờ Biêng, tuyến Sông Poko, K' Leng
  • Hướng Nam: Chư Thoi, Tân Phú, Tân Biên.
  • Hướng Đông: Đắc Ruông, Đắc Rong
  • Cụm phòng ngự trung tâm: TX Kon Tum

Tại Pleiku: Giữ đường 14 liên thông Kon tum, Pleiku, Buôn Ma Thuột, đường 19 nối với Quy Nhơn; lấy phòng ngự tại chỗ là chính. Các cụm phòng thủ trọng điểm:

  • Cứ điểm cực đông: An Khê
  • Vòng ngoài: Chư Ty, Ia kha, Phú Hòa, Đắc Đoa, Kon Dong, Plei Bông, Bàu Cạn.
  • Trung tâm phòng ngự: TX Pleiku, sân bay, chỉ huy sở Vùng chiến thuật II;

Buôn Ma Thuột: Căn cứ tiếp vận Vùng chiến thuật II, sư đoàn 23 [thiếu] dự bị của Quân đoàn II, căn cứ không quân Hòa Bình, trại huấn luyện Mai Hắc Đế.

Vùng chiến thuật IIISửa đổi

Tại Bắc và Đông Bắc Sài Gòn: Đây là hướng phòng ngự trọng điểm: Phòng thủ hướng Tây Bắc và Bắc là chính, hướng Đông là hướng phải đề phòng. Lấy phòng ngự tại chỗ làm chiến thuật cơ bản. Các cụm phòng thủ trọng điểm:

  • Hướng Tây Bắc:
    • Tuyến 1: Tân Biên, Xa Mát, Xoài Riêng, Chi Phú;
    • Tuyến 2: TX Tây Ninh, Dương Minh Châu, Gò Dầu.
  • Hướng Bắc:
    • Tuyến 1: Lộc Ninh;
    • Tuyến 2: Bình Long, An Lộc, Hớn Quản, Sông Bé.
    • Tuyến 3: Minh Thành, Chơn Thành, Long Hòa.
  • Hướng Đông: các tiểu khu Phước Long, Đồng Phú.
  • Cụm phòng ngự trung tâm: Bến Cát, Thủ Dầu Một

Tại Biên Hòa: Căn cứ liên hợp không quân, lục quân, tiếp vận, chỉ huy sở Vùng chiến thuật III

Vùng chiến thuật IV: Giữ thế phối trí hiện hữu, cơ động yểm trợ Vùng chiến thuật III và Biệt khu Thủ đô.[34]

Vai trò của các nước lớn trong chiến cục năm 1972Sửa đổi

Bài chi tiết: Các nước lớn trong chiến cục 1972 tại Việt Nam

Trong Chiến tranh Việt Nam năm 1972, các nước lớn: Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Quốc đều có những yểm trợ đáng kể đến các bên tham chiến. Ngoài Hoa Kỳ là bên trực tiếp tham chiến bằng không quân và hải quân yểm trợ cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa và yểm trợ về chính trị, ngoại giao; các nước Liên Xô, Trung Quốc chủ yếu yểm trợ Quân đội nhân dân Việt Nam bằng viện trợ vật chất: vũ khí, khí tài, đạn dược và cũng yểm trợ bằng chính trị, ngoại giao. Khác với các giai đoạn trước đây của cuộc chiến, do các mối quan hệ có tính toàn cầu giữa ba nước này tăng lên, đánh dấu bằng chuyến thăm của Tổng thống Richard Nixon đến Trung Quốc [tháng 2 năm 1972] và Liên Xô [tháng 5 năm 1972]. Sự ủng hộ của các nước này đối với các bên đối địch tại Việt Nam có những thay đổi, tác động nhiều đến diễn biến và kết quả chiến cục.

Video liên quan

Chủ Đề