Trước khi có tên gọi là hà nội thì hà nội có tên gọi trước đó là gì?

Thành phố Hà Nội từng trải qua 9 tên gọi khác nhau trong lịch sử, trong đó có một tên gọi mang ý nghĩa Rốn Rồng.

Trước khi có tên gọi là hà nội thì hà nội có tên gọi trước đó là gì?

Theo Cổng thông tin điện tử Hà Nội, Rốn Rồng (Long Đỗ) là một tên gọi cũ, không xuất hiện trong văn bản hành chính của vùng đất Hà Nội ngày nay trong lịch sử. Tên gọi này xuất hiện trong thời Bắc thuộc, khi nước ta đang bị nhà Đường đô hộ.

Trước khi có tên gọi là hà nội thì hà nội có tên gọi trước đó là gì?

Theo sách “Lịch sử thủ đô Hà Nội”, Đại La là một trong những tên gọi của Hà Nội trước năm 1010. Theo đó, Đại La, hay Đại La thành, nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy Kinh Đô. Theo kiến trúc xưa, Kinh Đô thường có "Tam trùng thành quách": trong cùng là Tử Cấm thành (tức bức thành màu đỏ tía) nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La thành. Năm 866 Cao Biền bồi đắp thêm Đại La thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là thành Đại La.

Trước khi có tên gọi là hà nội thì hà nội có tên gọi trước đó là gì?

Tên gọi Thăng Long của Hà Nội ngày nay xuất hiện dưới thời vua Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ). Theo nghĩa Hán Việt, Thăng Long có nghĩa là rồng bay lên trời. Thăng Long chính là kinh đô Đại Việt dưới thời Lý, Trần (1010-1397).

Trước khi có tên gọi là hà nội thì hà nội có tên gọi trước đó là gì?

Năm 1397, khi thủ đô được di chuyển về Thanh Hóa. Thăng Long khi đó có tên gọi là Đông Đô. Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" cho biết: "Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô". Sách "Khâm định Việt sử thông giám cương mục", chú thích: "Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hoá là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô" .

Trước khi có tên gọi là hà nội thì hà nội có tên gọi trước đó là gì?

Theo sách “Nghìn năm văn hiến Thăng Long”, trải qua hơn 2.000 năm lịch sử, Hà Nội trải qua 9 tên gọi chính thức gồm: Long Đỗ, Tống Bình, Đại La, Thăng Long, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh, Bắc Thành, Hà Nội; cùng đó là 6 tên gọi không chính thức gồm: Tràng An, Phượng Thành, Long Biên, Long Thành, Hà Thành, Hoàng Diệu.

Trước khi có tên gọi là hà nội thì hà nội có tên gọi trước đó là gì?

Năm 1831 vua Minh Mạng lập ra tỉnh Hà Nội nằm trong (nội) hai con sông (hà) là sông Hồng và sông Đáy. Theo đó, Hà Nội có nghĩa là phía trong các con sông.

Trước khi có tên gọi là hà nội thì hà nội có tên gọi trước đó là gì?

Theo số liệu của UBND thành phố Hà Nội, hiện nay, thành phố này có 7 sông chảy qua địa phận, gồm sông Hồng, sông Đuống, sông Đà, sông Nhuệ, sông Cầu, sông Đáy, sông Cà Lồ. Ngoài ra, 3 sông Tô Lịch, Kim Ngưu, sông Tích chảy trong nội thành. Sông Lục Nam không chảy qua Hà Nội, chỉ chảy qua 2 tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh. Theo thống kê của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch năm 2018, cả nước có 7.966 lễ hội, trong đó 7.039 lễ hội dân gian. Hà Nội là địa phương có nhiều lễ hội nhất với 1.095 lễ hội.

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.

Tin cùng chuyên mục

  • Trước khi có tên gọi là hà nội thì hà nội có tên gọi trước đó là gì?
  • Trước khi có tên gọi là hà nội thì hà nội có tên gọi trước đó là gì?
  • Trước khi có tên gọi là hà nội thì hà nội có tên gọi trước đó là gì?
  • Trước khi có tên gọi là hà nội thì hà nội có tên gọi trước đó là gì?
  • Trước khi có tên gọi là hà nội thì hà nội có tên gọi trước đó là gì?
  • Trước khi có tên gọi là hà nội thì hà nội có tên gọi trước đó là gì?

Tin nổi bật

  • Trước khi có tên gọi là hà nội thì hà nội có tên gọi trước đó là gì?

Hà Nội, đất rồng bay là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Mảnh đất địa linh nhân kiệt này từ khi hình thành cho đến nay đã có nhiều tên gọi khác nhau, xin cùng ôn lại lịch sử nhân dịp chào mừng 1.000 năm Thăng Long – Hà Nôi.

Đại La: Đại La hay Dại La thành nguyên là cái tên vòng thành ngoài cùng bo bọc lấy kinh đô. Theo kiến trúc xưa, kinh đô thường có “tam trùng thành quách”: trong cùng là Tử cấm thành (tức bức thành màu đỏ tía) nơi vua và hoang tộc ở, giữa là kinh thành và ngoài cùng là Đại La thành.

Thăng Long (rồng bay lên), đây là cái tên có tính văn chương nhất, gợi cảm nhất trong số các tên của Hà Nội. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết lý do hình thành tên gọi này như sau “Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010) vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra Kinh phủ thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long”.

Đông Đô: Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sư thần nhà Nguyễn chú thích “Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi là Thanh Hoá là Tây Đô Thăng Long là Đông Đô”.

Đông Quan: Đây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của Việt Nam, chỉ được ví là “cửa quan phía đông” của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết, năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan.

Đông Kinh: Sách đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau “Mùa hạ tháng tư năm Đinh Mùi (1427), vua Lê Lợi từ điện thanh ở Bồ Đề, vào đóng ở thành Đông Kinh, đại xá đổi tên niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15 vua lên ngôi ở Đông Kinh tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hoá có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh”.

Bắc Thành: Đời Tây Sơn, Nguyễn Huệ - Quang Trung vì kinh đô đóng ở Phú Xuân (Huế) nên gọi Thăng Long là Bắc Thành.

Thăng Long: sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết “Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân không Trung Long, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng trần miền Bắc. Kinh thành đã chuyển làm trấn thành thì tên Thăn Long đã có từ lâu đời, quên dùng trong nhân dân toàn quốc, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ “long” là rồng thành chữ “long” là thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ “long” là “rồng”.

Hà Nội: Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết “Năm 1931, vua Minh Mạng đem kinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ ứng Hoà, phủ Lý Nhân Và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội. Ngoài ra Hà Nội còn có các tên gọi khác như:

Tràng An (Tràng An): vốn là tên Kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nước Trung Quốc do đó được các nhà nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh đô và cũng được người bình dân sử dụng nhiùe trong cao dao, tục ngữ chỉ kinh đô Thăng Long.

“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”.

Long Biên: vốn là nơi quan lại nhà Hán, Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều vào thế kỷ III, IV, V và VI, đóng trị sở của Giao Châu (tên nước Việt Nam thời đó). Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ văn để chỉ Thăng Long – Hà Nội. “Long Biên tài hướng phượng thành hồi/Triệu đối do hi, vĩnh biệt thôi”.

Hà Thành: Là tên viết tắt của thành phố Hà Nội được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn Văn Giai, bài Hà Thành thât thủ, Hà Thành hiểu vọng….

Hoàng Diệu: Ngay sau Cách mạng tháng Tám – 1945, đôi khi trong các báo chí của Việt Nam sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.

Dù là sử dụng tên gọi nào thì khi nhắc tới Hà Nội ta không thể không rưng rưng xúc động, hai chữ thiêng liêng ấy như khắc sâu vào tâm trí người Việt Nam, là quê hương, là trái tim nơi thủ đô yêu dấu…

“Dù có đi bốn phương trời, lòng vẫn nhớ về Hà Nội…”

TĐN (st)