Trụ sinh là thuốc gì

Thầy thuốc Văn nghệ

Nhiều độc giả viết thư hỏi thầy lang tôi cách phân biệt kháng sinh, trụ sinh và kháng viêm. Kháng sinh theo ngữ nguyên antibiotic bao gồm hai từ anti nghĩa là kháng và bio nghĩa là vi sinh vật. Đây là các hợp chất có tác dụng tiêu diệt các tác nhân gây bệnh như vi khuẩn. Kháng sinh đầu tiên trên thế giới là Penicillin do nhà khoa học Alexander Fleming tìm ra một cách tình cờ khi đang nghiên cứu sự phát triển của loài nấm men Penicillinum. Sau này người ta càng ngày càng tìm ra nhiều loại kháng sinh mới có tác dụng diệt khuẩn mạnh hơn và phổ diệt khuẩn rộng hơn. Trụ sinh là danh từ có ý nghĩa tương tự như kháng sinh nhưng thường dùng trước năm 1975 ở miền Nam, ngày nay ít người còn sử dụng. Dựa theo tác dụng, người ta chia ra hai loại kháng sinh, đó là kháng khuẩn và trụ khuẩn hay kềm khuẩn. Kháng sinh có tác dụng kháng khuẩn khi tiêu diệt vi khuẩn tận gốc, còn kháng sinh kềm khuẩn chỉ hạn chế khả năng phát triển và sinh sản của vi khuẩn chứ không thể tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên, khái niệm này chỉ có ý nghĩa tương đối vì người ta nhận thấy ở liều cao, các kháng sinh kềm khuẩn cũng có tác dụng diệt khuẩn. Kháng sinh bao gồm nhiều nhóm có tác dụng trên nhiều loại vi khuẩn khác nhau. Chẳng hạn như nhóm kháng sinh Penicillin có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn gram dương. Nhóm kháng sinh Cephalosporin thế hệ I, II có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn gram dương, nhưng thế hệ III, IV lại có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn gram âm. Nhóm Aminosid có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn gram âm, trong khi nhóm Macrolid lại có tác dụng trên vi khuẩn gram dương. Nên nhớ, khi nhuộm bằng phương pháp nhuộm gram, vi khuẩn bắt màu hồng là gram âm, còn vi khuẩn bắt màu xanh là gram dương, và trên thực tế thì vi khuẩn gram âm độc hại hơn. Hiện nay, tình trạng đề kháng kháng sinh ngày càng trầm trọng. Các vi khuẩn lờn với hầu hết các loại kháng sinh, ngay cả các kháng sinh thế hệ mới. Nguyên nhân là do tình trạng dùng kháng sinh bừa bãi, bệnh gì cũng dùng kháng sinh, đánh kháng sinh bao vây. Nhiều dòng vi khuẩn đề kháng với hầu hết các loại kháng sinh đời mới, nói nôm na là “hết thuốc chữa”. Hai con vi khuẩn nổi tiếng hiện nay là vi khuẩn mủ xanh Pseudomonas aeruginosa gây bệnh viêm phổi bệnh viện và vi khuẩn cơ hội Clostridium difficile gây bệnh tiêu chảy kéo dài.

Kháng sinh gây ra nhiều tác dụng phụ như dị ứng từ nhẹ là nổi mề đay và ngứa ngáy đến nặng là sốc phản vệ gây tử vong. Kháng sinh cũng gây độc cho gan, thận, máu và thần kinh. Đặc biệt kháng sinh hay gây loạn khuẩn đường ruột dẫn đến tiêu chảy mất nước nghiêm trọng và thiếu vitamin.

Hiện tượng viêm là gì? Viêm là một phản ứng của cơ thể đối với vật lạ, đó có thể là vi khuẩn hay siêu vi, đó có thể là một khối u mới nổi lên, đó cũng có thể là một chấn thương hay vết thương ngoài da. Phản ứng viêm thể hiện qua dấu hiệu sung, nóng, đỏ và đau do bạch cầu kéo đến và tiết ra chất prostaglandin. Thuốc kháng viêm là chất ức chế prostaglandin nên ức chế hiện tượng viêm. Có hai loại thuốc kháng viêm chính: đó là thuốc kháng viêm không có steroid NSAID và thuốc kháng viêm steroid. Loại NSAID có tác dụng giảm đau hạ sốt nhưng có tác dụng phụ là gây xuất huyết dạ dày. Các thuốc kháng viêm steroid thường gọi nôm na thuốc “hạt dưa” hay “đề-xa”. Đây là loại thuốc có tác dụng rất mạnh nhưng cũng có nhiều tác dụng phụ như giữ nước, suy thận, mục xương và suy giảm miễn dịch.

Bs Đào Ty Tách
Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 432

Trong lâm sàng hiệu quả kháng sinh chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bao gồm

Kháng sinh diệt vi khuẩn. Thuốc kháng vi khuẩn sẽ làm chậm hoặc ngừng sự phát triển của vi khuẩn trong ống nghiệm. Những định nghĩa này không tuyệt đối; thuốc diệt khuẩn có thể giết chết một số loài vi khuẩn nhạy cảm, và các loại thuốc diệt khuẩn chỉ có thể ức chế sự phát triển của một số loài vi khuẩn nhạy cảm. Các phương pháp định lượng chính xác hơn xác định nồng độ in vitro tối thiểu mà kháng sinh có thể ức chế sự tăng trưởng [nồng độ ức chế tối thiểu, MIC] hoặc giết chết vi khuẩn [nồng độ diệt khuẩn tối thiểu MBC]. Thuốc kháng sinh có hoạt tính diệt khuẩn có thể cải thiện việc tiêu diệt vi khuẩn khi cơ chế bảo vệ cơ thể bị khiếm khuyết ở cơ quan nhiễm trùng [ví dụ như trong viêm màng não hoặc viêm nội tâm mạc] hoặc có hệ thống [ví dụ ở những bệnh nhân giảm bạch cầu trung tính hoặc suy giảm miễn dịch theo cách khác]. Tuy nhiên, có những dữ liệu lâm sàng hạn chế chỉ ra rằng một loại thuốc diệt khuẩn nên được lựa chọn trên một loại thuốc diệt khuẩn đơn giản dựa trên sự phân loại đó. Lựa chọn thuốc cho hiệu quả tối ưu nên dựa trên cách nồng độ thuốc thay đổi theo thời gian liên quan đến MIC hơn là liệu thuốc có hoạt tính diệt khuẩn hay không.

  • Phụ thuộc vào nồng độ: Cường độ theo đó nồng độ đỉnh vượt quá MIC [thường được biểu thị bằng tỷ số đỉnh-MIC] tương quan tốt nhất với hoạt tính kháng khuẩn

  • Phụ thuộc vào thời gian: Thời gian của khoảng thời gian dùng thuốc trong đó nồng độ kháng sinh vượt quá MIC [thường được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm thời gian trên MIC] tương quan tốt nhất với hoạt tính kháng khuẩn

  • Phụ thuộc vào tiếp xúc: Lượng thuốc liên quan đến MIC [lượng thuốc là 24 giờ dưới đường cong nồng độ [AUC24]; tỷ lệ AUC24-MIC tương ứng tốt nhất với hoạt tính kháng khuẩn]

Aminoglycosides Aminoglycosides , fluoroquinolones Fluoroquinolones và daptomycin Daptomycin có hoạt tính diệt khuẩn phụ thuộc vào nồng độ. Tăng nồng độ của chúng từ các mức hơi cao hơn MIC đến các mức cao hơn MIC làm tăng tỷ lệ và mức độ hoạt động diệt khuẩn của chúng. Ngoài ra, nếu nồng độ vượt quá MIC thậm chí một thời gian ngắn, aminoglycosides và fluoroquinolones có hiệu ứng sau kháng sinh [PAE] trên vi khuẩn còn lại; thời gian PAE cũng phụ thuộc vào nồng độ. Nếu PAE dài, mức độ thuốc có thể thấp hơn MIC trong thời gian dài mà không làm giảm hiệu quả, cho phép dùng ít thường xuyên hơn. Do đó, aminoglycosides và fluoroquinolones thường có hiệu quả nhất như boluses không liên tục mà đạt đến mức độ huyết thanh miễn phí cao điểm 10 lần MIC của vi khuẩn; thông thường, mức đáy không quan trọng.

Beta-Lactam β-Lactam , clarithromycin và erythromycin có hoạt tính diệt khuẩn theo thời gian. Tăng nồng độ của chúng trên MIC không làm tăng hoạt tính diệt khuẩn, và việc giết chết cơ thể của chúng nói chung chậm. Ngoài ra, vì Không áp dụng hoặc rất ngắn ức chế sự phát triển của vi khuẩn sau khi nồng độ giảm xuống dưới MIC [tác dụng hậu kháng sinh], beta-lactam thường có hiệu quả nhất khi nồng độ thuốc trong huyết thanh [thuốc không liên quan đến protein huyết thanh] cao hơn MIC 50% thời gian. Bởi vì ceftriaxone có thời gian bán thải huyết thanh dài [khoảng 8 giờ], nồng độ tự do tự miễn dịch vượt quá MIC của các mầm bệnh rất dễ bị nhiễm bệnh trong suốt khoảng thời gian dùng 24 giờ. Tuy nhiên, đối với beta-lactam có thời gian bán hủy huyết thanh 2 giờ, cần phải dùng liều thường xuyên hoặc tiêm truyền liên tục để tối ưu hóa thời gian trên MIC.

Hầu hết các thuốc kháng sinh có hoạt tính kháng khuẩn phụ thuộc vào phơi nhiễm, đặc trưng bởi tỷ lệ AUC-MIC. Vancomycin, tetracyclines, và clindamycin là những ví dụ.

Có 3 thông số dược động học/dược lực học liên quan đến hiệu quả kháng khuẩn:

  • Tỷ lệ nồng độ đỉnh trong huyết thanh

  • Phần trăm thời gian trên MIC

Video liên quan

Chủ Đề