Trong mô hình nhà trường hiệu quả đòi hỏi lãnh đạo phải như thế nào

Phân tích chức năng và năng lực lãnh đạo, quản lý của hiệu trưởng nhà trường

  • doc
  • 18 trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Ngày nay, nhiều thành tựu khoa học và công nghệ xuất hiện một cách hết sức
bất ngờ và đổi mới một cách cực kì nhanh chóng. Theo đó hệ thống giáo dục cũng
đặt ra những yêu cầu đổi mới. Từ đó cho thấy việc giải quyết những vấn đề xung
quanh mọi người không chỉ bằng tri thức uyên thâm mà dần được thay đổi bằng
năng lực chuyên môn, năng lực giải quyết vấn đề, đưa ra những quyết định sáng
tạo, mang lại hiệu quả và thích ứng với đời sống xã hội. Đây là thời đại bùng nổ
thông tin, thời đại của toàn cầu hoá, của nền kinh tế tri thức. Cùng với sự phát triển
vượt bậc về khoa học kỹ thuật, nền kinh tế thế giới cũng đang trên đà phát triển với
tốc độ phi mã. Để đạt được sự phát triển như vậy, mỗi quốc gia, dân tộc trên thế
giới đều có những chiến lược riêng của mình. Xong không một quốc gia, dân tộc
nào trong sự phát triển của mình lại không có sự đầu tư cho giáo dục. Việc đánh
giá sức mạnh và sự giàu có của một quốc gia không phải là ở chỗ nhiều tài nguyên
thiên nhiên mà ở số lượng và chất lượng những con người có trình độ văn hóa, có
sự nhạy bén và năng động. Sức mạnh của tri thức có thể giúp con người có khả
năng làm chủ được thế giới xung quanh, có khả năng giải quyết được những vấn đề
thách thức mà cuộc sống đặt ra. Giáo dục là một biện pháp hữu hiệu nhất nhằm
phát huy sức mạnh cho mỗi cá nhân. Trong mổi cá nhân ấy muốn phát triển tốt cần
phải có một người lãnh đạo quản lý. Do đó yếu tố quan trọng và quyết định đến
chất lượng và chiến lượng giáo dục là việc lãnh đạo quản lý nhà trường của hiệu
trưởng.
Thực tế cho thấy, có những quốc gia đương ở vị trí các cường quốc nhưng chỉ
vì quan điểm, chủ trương, đường lối quản lý đất nước sai lầm đã dẫn đến sự đổ vỡ,
suy thoái và lu mờ vị trí. Ngược lại, có những quốc gia tiềm lực kinh tế không lớn
nhưng có chủ trương, đường lối đúng đắn đã đưa đất nước tiến lên các bước phát
triển mới. Nước ta đang trong con đường đổi mới với đường lối, chủ trương đúng
đắn của Đảng cũng đã bước đầu thu được những thành quả hết sức quan trọng và
cơ bản về chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2020 và định hướng đến năm
2030. Người lãnh đạo quản lý đúng đắn sẽ giúp cho đơn vị hạn chế được nhược
điểm của mình, liên kết gắn bó mọi người, tạo ra niềm tin sức mạnh, tận dụng được
mọi cơ hội, sức mạnh tổng hợp của các yếu tố nội lực và ngoại lực. Hơn nữa còn
giúp cho đơn vị có thể xác định vị trí uy tín trong phạm vi giáo dục của Huyện và
Tỉnh.
Lãnh đạo quản lý là hoạt động sống còn của hiệu trưởng trong thời đại ngày
nay, thể hiện qua các chức năng vốn có của nó. Chức năng lãnh đạo quản lý quản
lý là hình thức biểu hiện sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý lên đối tượng
và khách thể quản lý, là tập hợp các nhiệm vụ khác nhau mà chủ thể quản lý phải
tiến hành trong quá trình lãnh đạo quản lý. Như vậy thực chất của các chức năng
và năng lực lãnh đạo quản lý là lý do tồn tại các hoạt động lãnh đạo quản lý và đây
cũng là lý do em chọn đề tài tiểu luận này.

1

B. PHẦN NỘI DUNG
I. Các khái niệm Lãnh đạo và Quản lý.
1.1 Khái niệm Lãnh đạo
Lãnh đạo là một thuật ngữ được sử dụng rất phổ biến trong các tài liệu, sách
viết về quản lý và các văn bản pháp lý của Nhà nước. Có nhiều cách hiểu khác
nhau về thuật ngữ này. Tuy nhiên, khi nói đến lãnh đạo là người ta liên tưởng đến
hoạt động của những người đứng đầu các nhóm, các bộ phận, tổ chức. Hiện nay có
nhiều tác giả đưa ra định nghĩa về lãnh đạo. Các tác giả này tiếp cận thuật ngữ lãnh
đạo ở nhiều phương diện khác nhau:
- Theo cách thức: Thì lãnh đạo được định nghĩa Lãnh đạo là làm thế nào để
các cá nhân và các tập thể đều nhận thấy rằng những mục tiêu theo đuổi hợp với
nguyện vọng của mình và khi hoàn thành với những mục tiêu ấy, những nguyện
vọng cá nhân cũng được thoả mãn. Theo cách tiếp cận này, để lãnh đạo được tập
thể thì người lãnh đạo phải nhận thức được mục tiêu của các cá nhân trong tập thể
và kết hợp hài hoà lợi ích chung của tập thể.
- Ở góc độ khả năng thì: Lãnh đạo là khả năng ảnh hưởng đến hành vi của
người khác. Trong tổ chức người lãnh đạo dùng ảnh hưởng để hình thành mục
tiêu Theo định nghĩa này để lãnh đạo được tổ chức thì người lãnh đạo phải có
những khả năng đặc biệt để ảnh hưởng đến những người khác, đó chính là quyền
lực.
- Ở góc độ nghệ thuật Lãnh đạo là nghệ thuật nhấn mạnh việc đạt được các
mục tiêu tương hỗ thông qua phối hợp và thúc đẩy các cá nhân và các nhóm John
D.ffifner và Robrt Presthus.
Lãnh đạo được định nghĩa như là nghệ thuật áp đặt mong muốn của mình
lên người khác theo cách thức như ra lệnh để người khác tuân theo, tin tưởng, tôn
trọng và trunh thành.
Hai định nghĩa này nhấn mạnh đến khía cạnh nghệ thuật của lãnh đạo,
lãnh đạo là làm việc với con người mà mỗi một cá nhân lại có những nhu cầu vật
thể và tinh thần riêng, vì vậy để đạt được mục tiêu của tổ chức hoặc của người lãnh
đạo thì người lãnh đạo phải nắm bắt được nhu cầu, động cơ của người khác và từ
đó tìm ra cơ chế cũng như phương tiện tác động lên động cơ đó để thúc đẩy họ
hoạt động nhằm đạt được mục tiêu đã định.
Như vậy, lãnh đạo là những hoạt động của người lãnh đạo để hướng dẫn và
thúc đẩy người khác [cấp dưới] thực hiện nhiệm vụ hình thành mục tiêu đã định.
Trong lãnh đạo có lãnh đạo chính thức và phi chính thức. Lãnh đạo chính thức
được mọi người trong đơn vị hoặc tổ chức thừa nhận và tuân thủ, nó ảnh hưởng
đến cấp dưới chủ yếu trên cơ sở quyền hành mà tổ chức trao cho chức vụ đó. Còn
lãnh đạo phi chính thức được mọi người trong nhóm phi chính thức tuân thủ một
cách tự nhiên và vô thức nó ảnh hưởng đến người khác trên cơ sở quyền uy cá
nhân.

2

- Lãnh đạo hành chính là hoạt động lãnh đạo của các chủ thể lãnh đạo hành
chính Nhà nước đối vố xã hội. Người lãnh đạo hành chính khác với người lãnh đạo
trong các tổ chức phi Nhà nước trên nhiều phương diện.
1 Lãnh đạo hành chính mang tính quyền lực Nhà nước được sử dụng
quyền hành mà Nhà nước trao để tác động lên cấp dưới và các đối tượng khác
trong phạm vi thẩm quyền đã định và vì vậy lãnh đạo hành chính có tính cưỡng
chế cao
2 Lãnh đạo hành chính mang tính chính trị sâu sắc, những người lãnh đạo
hành chính hoặc là trực tiếp hoặc là dán tiếp do dân bầu lên do đó họ có nghĩa vụ
phải phục vụ nhân dân vì lợi ích công nội dung của nó phụ thuộc vào chế độ chính
trị và các giai đoạn lịch sử
3 Lãnh đạo hành chính mang tính tổng hợp, vừa lãnh đạo chính trị vừa
lãnh đạo nhiệm vụ vừa mang tính chuyên ngành vừa mang tính đa ngành đa lĩnh
vực. Thái độ nghiêm túc và tác phong cần mẫn trong công việc của người lãnh đạo
sẽ tác động đôn đốc cấp dưới thi hành nhiệm vụ được giao.
1.2 Khái niệm Quản lý
Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, rất nhiều học giả trong và
ngoài nước đã đưa ra giải thích không giống nhau về quản lý. Cho đến nay, vẫn
chưa có một định nghĩa thống nhất về quản lý. Đặc biệt là kể từ thế kỷ 21, các
quan niệm về quản lý lại càng phong phú. Các trường phái quản lý học đã đưa ra
những định nghĩa về quản lý như sau:
- Tailor: "Làm quản lý là bạn phải biết rõ: muốn người khác làm việc gì và
hãy chú ý đến cách tốt nhất, kinh tế nhất mà họ làm " .
- Fayel: "Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức [gia đình, doanh nghiệp,
chính phủ] đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều
chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo điều
chỉnh và kiểm soát ấy.
- Peter. F. Dalark: "Định nghĩa quản lý phải được giới hạn bởi môi trường
bên ngoài nó. Theo đó, quản lý bao gồm 3 chức năng chính là: Quản lý doanh
nghiệp, quản lý giám đốc, quản lý công việc và nhân công".
Chủ trương của Peter. F. Dalark là giới hạn doanh nghiệp từ góc độ xã hội,
lấy quản lý làm chức năng chính của doanh nghiệp. Vì thế, quản lý trở thành chức
năng và vai trò của tổ chức xã hội, nó cũng sẽ thông qua các doanh nghiệp góp
phần xây dụng chế độ xã hội mới để đạt được mục tiêu lý tưởng là "một xã hội tự
do và phát triển". Nếu không có quản lý hiệu quả thì doanh nghiệp không thể tồn
tại và từ đó không thể xây dựng một xã hội tự do và phát triển.
Từ đó có thể thấy, cơ sở chính trong giải quyết độ khó của vấn đề là "quan
điểm về hệ thống", cơ sở chính trong giải quyết độ khó về thời gian là "quan điểm
về sự chuyển động. Như vậy, đặc điểm lớn nhất trong lý luận của Peter F. Dalark
là cách nhìn hệ thống mở và chuyển động". Đây cũng là quan niệm cốt lõi trong tư
tưởng triết học về quản lý của ông.

3

Tóm lại, quản lý là quan niệm chứ không phải kỹ thuật, là tự do chứ không
phải bị khống chế, là nhiệm vụ thực tế chứ không phải lý luận; là thành tích chứ
không phải tiềm năng, là trách nhiệm chứ không phải quyền lực; là cống hiến chứ
không phải thăng hến; là cơ hội chứ không phải chướng ngại; là đơn giản chứ
không phải phức tạp.
Có thể kể ra nhiều ý kiến khác nhau về định nghĩa quản lý, trên đây chỉ là
một vài ý kiến mang tính đại diện trên cơ sở phân tích tổng hợp những quan điểm
không giống nhau. Tóm lại, những quan điểm đó tuy rất rõ ràng, đúng đắn nhưng
chưa đầy đủ. Chúng chỉ chú trọng đến quản lý như là một hiện tượng chứ chưa làm
bộc lộ rõ bản chất của nó. Vậy, làm thế nào để khái quát khái niệm quản lý một
cách đơn giản và tương đối toàn diện?
Như chúng ta đều biết, quản lý thực chất cũng là một hành vi, đã là hành vi
thì phải có người gây ra và người chịu tác động. Tiếp theo cần có mục đích của
hành vi, đặt ra câu hỏi tại sao làm như vậy? Do đó, để hình thành nên hoạt động
quản lý trước tiên cần có chủ thể quản lý: nói rõ ai là người quản lý? Sau đó cần
xác định đối tượng quản lý: quản lý cái gì? Cuối cùng cần xác định mục đích quản
lý: quản lý vì cái gì?
Có được 3 yếu tố trên nghĩa là có được điều kiện cơ bản để hình thành nên
hoạt động quản lý. Đồng thời cần chú ý rằng, bất cứ hoạt động quản lý nào cũng
không phải là hoạt động độc lập, nó cần được tiến hành trong môi trường, điều
kiện nhất định nào đó.
II. Phân biệt Lãnh đạo và Quản lý, mối quan hệ hữu cơ.
2.1 Phân biệt Lãnh đạo và Quản lý
Trong cuộc sống thực tế, không ít người cho rằng lãnh đạo và quản lý là
cũng một khái niệm, giữa chúng không có gì khác nhau, quá trình lãnh đạo gần
như chính là quá trình quản lý. Song thực ra, giữa chúng có sự khác biệt và cũng
có liên quan với nhau.
Những nhà quản lý học có những quan điểm khác nhau về định nghĩa lãnh
đạo, nhưng nội dung bản chất là giống nhau. Họ đều cho rằng lãnh đạo là người
dẫn dắt cấp dưới thực hiện mục tiêu của tổ chức. Quản lý và lãnh đạo đều có mục
đích là thực hiện mục tiêu của tổ chức, nhưng chúng có điểm khác biệt rõ rệt như
sau:
Lãnh đạo và quản lý không thuộc cùng một phạm trù. Lãnh đạo là một chức
năng của quản lý, thường được gọi là chức năng lãnh đạo, còn chức năng khác của
quản lý lại không phải là lãnh đạo. Ví dụ: công việc mà những người tham mưu
trong tổ chức làm là công tác quản lý, nhưng không phải là công tác lãnh đạo.
Quản lý ở đây chỉ hành vi quản lý, công tác lãnh đạo vừa bao gồm hành vi quản lý,
vừa bao gồm hoạt động nghiệp vụ khác. Ví dụ: Một người làm trưởng phòng nhân
sự [một chức vụ quản lý] ở một chỗ này, thì dễ có thể chuyển sang làm trưởng
phòng nhân sự ở chỗ khác, vì làm quản lý nhân sự ở đâu cũng gần giống nhau, đòi
hỏi cùng một loại kỹ năng. Nhưng một người làm viện trưởng Viện Hóa [một chức

4

vụ lãnh đạo] cần có uy tín trong ngành hóa học, và khó có thể chuyển thành làm
viện trưởng Viện Cơ Học.
Thông thường, lãnh đạo chủ yếu là lãnh đạo con người, xử lý quan hệ giữa
người với người, đặc biệt là quan hệ cấp trên và cấp dưới. Đây là vấn đề cốt lõi
trong hoạt động quản lý. Còn về quản lý, ngoài quản lý con người, đối tượng của
quản lý còn bao gồm tài chính, vật chất. Quản lý không chỉ xử lý quan hệ giữa
người với người mà còn phải xử lý mối quan hệ tài chính và vật chất, giữa vật chất
và con người, giữa con người và tài chính. Phạm vi mà quản lý đề cập đến rộng
hơn nhiều so với lãnh đạo.
* Quản lý và lãnh đạo khác biệt nhau nhưng có liên quan mật thiết với nhau
Lãnh đạo và quản lý thuộc 2 tầng hoạt động khác nhau song chúng lại có quan hệ
mật thiết khó tách rời. Hoạt động lãnh đạo tập trung vào việc đưa ra quyết sách,
xác định mục tiêu, kế hoạch phấn đấu, vạch ra chính sách tương ứng và phương
hướng lãnh đạo khu vực, ban ngành, đơn vị tiến lên phía trước Còn quản lý tập
trung giữ vững và tăng cường hoạt động của tổ chức để đảm bảo thực hiện tốt mục
tiêu mà lãnh đạo đã xác định.
Sự khác biệt giữa lãnh đạo và quản lý là gì? Đây là câu hỏi có tần suất nhắc
lại cao nhất và cũng có từng ấy cách trả lời khác nhau. Sự khác biệt lớn nhất giữa
người lãnh đạo và nhà quản lý nằm ở cách thức họ khuyến khích người lao động,
sự khác biệt này cũng điều chỉnh những hành động khác của họ.
Trên thực tế có rất nhiều người có thể được coi vừa là nhà lãnh đạo vừa là
nhà quản lý. Công việc của họ là quản lý, nhưng họ hiểu ra rằng họ có thể dùng
tiền mua nhiều thứ trừ "trái tim" của những người lao động, càng khó hơn để tập
hợp những trái tim này vượt qua một chặng đường dài và nhiều gian khổ, khi đó
họ. lựa chọn cách làm của một nhà lãnh đạo.
Ta có một bảng tóm tắt một số đặc trưng so sánh giữa một nhà lãnh đạo và
một nhà quản lý. Những tiêu chí chỉ ở mức độ tương trưng và mô tả hai thái cực
của một vấn đề.
Tiêu chí

Lãnh đạo

Quản lý

Bản chất

Thay đổi

Ổn định

Tập trung

Lãnh đạo con người

Quản lý công việc



Người đi theo

Cấp dưới/Nhân viên

Tìm kiếm

Tầm nhìn

Mục tiêu

Mức độ cụ thể

Định hướng

Lên kế hoạch cụ thể

Quyền lực

Uy tín cá nhân

Quyền lực chuẩn tắc

Tác động đến

Trái tim

Trí óc

Năng lượng

Đam mê

Điều khiển

Mức độ năng động Chủ động đi trước
5

Bị động, phòng vệ

Thuyết phục

Bán ý tưởng

Bảo người khác làm theo

Phong cách

Chuyển đổi tâm lý con người Áp đặt tâm lý con người

Trao đổi

Niềm hăng say làm việc

Tiền Công việc

Rủi ro

Chấp nhận tìm kiếm rủi ro

Tối thiểu hóa rủi ro

Nguyên tắc

Phá bỏ nguyên tắc

Lập ra nguyên tắc

Đường đã cóXung Sử dụng xung đột
đột

Tránh xung đột

Đổ lỗiĐường mới

Đổ lỗi cho người khác

Nhận lỗi về mình

Định hướng
Có thể vẫn còn nhiều tranh luận về sự khác nhau của hai vị trí này nhưng
trong nền kinh tế hiện đại, giá trị tăng lên từ vốn hiểu biết của mọi người. Trong
những môi trường làm việc thì việc phân biệt không dễ dàng.
2.2 Mối quan hệ giữa Lãnh đạo và Quản lý
Lãnh đạo và quản lí là hai khái niệm khác nhau tuy nhiên nó hay được sử
dụng và hiểu là giống nhau. Nếu ta ví tổ chức giống như một cơ thể người thì:
Lãnh đạo là phần hồn [hệ thần kinh] còn Quản lí là phần xác. Tất cả đều quan
trọng, đều cùng tồn tại trong một cơ thể, bổ trợ cho nhau không thể tách rời. Nếu
chỉ có thể xác mà không có hồn thì tổ chức chỉ là tồn tại chứ không phải là
sống. Nếu phần xác chết thì hồn cũng chết theo.
Nói về chức năng công việc thì lãnh đạo và quản lí là hai công việc khác
nhau.
* Công việc chủ yếu của lãnh đạo là:
- Phân tích tình hình, định hướng, vạch chiến lược
- Đưa ra các quyết định quan trọng
- Làm điểm tựa về uy tín cho tổ chức, đối với cả người bên trong lẫn người
bên ngoài
* Công việc chủ yếu của người quản lí là:
- Thực hiện các quyết định của lãnh đạo
- Xử lí các công việc hàng ngày
- Đảm bảo cho bộ máy hoạt động trơn tru
- Quản lí cơ sở vật chất kĩ thuật của cơ quan tổ chức
Tuy chức năng công việc của lãnh đạo và quản lí là khác nhau nhưng lại hỗ
trợ tiếp nối công việc của nhau.

6

Nếu lãnh đạo chỉ ban hành ra các chủ trương chính sách, kế hoạch để đó
không có quản lí thực hiện thì các chủ trương kế hoạch đó chỉ ở trên trang giấy
không được thực hiện trong thực tế, tổ chức không thể hoạt động.
Nếu quản lí và lãnh đạo đều đưa ra các quyết định quan trọng thì sẽ có quá
nhiều quyết định quản lí, sẽ chồng chéo về chức năng nhiệm vụ.
Quản lí thực hiện và kết quả đi theo hướng nào lại là do lãnh đạo quyết định
Quản lí đảm bảo hoạt động của bộ máy được trơn tru thì lãnh đạo cơ quan sẽ
có uy tín, cơ quan tổ chức cũng có uy tín theo. Như vậy cơ quan sẽ thu hút được
nhiều đối tác giúp cơ quan tổ chức phát triển.
Vậy về công việc lãnh đạo và quản lí không hề tách rời nhau về vị trí, vai
trò, chức năng.
Ở các tổ chức nhỏ, việc lãnh đạo và quản lí hay được quy định làm một do
cùng một người đảm nhiệm. Tuy nhiên đối với tổ chức lớn thì sự phân biệt giữa
lãnh đạo và quản lí là tương đối rõ ràng và sự giao thoa về chức năng, nhiệm vụ
công việc càng lớn
Kĩ năng lãnh đạo và quản lí đòi hỏi khác nhau.
* Đối với lãnh đạo cần :
+ Uy tín cá nhân cao [nếu người bên trong không phục thì khó lãnh đạo, nếu
mất uy tín đối với bên ngoài thì toàn bộ tổ chức mất uy tín theo]
+ Có trình độ cao, tầm nhìn xa trông rộng, để có thể đưa ra những định
hướng và quyết định đúng đắn
+ Biết phối hợp hài hoà với bộ phận quản lí
* Đối với quản lí :
+ Hiểu được và tuân theo các quyết định của lãnh đạo
+ Có tính kỉ luật, cẩn thận, tỉ mỉ, nắm sát các chi tiết [người lãnh đạo có thể
không mạnh những điểm này]
Tuỳ lĩnh vực quản lí mà cần có trình độ chuyên môn tương ứng nhất định.
Lãnh đạo phải có trình độ cao hơn người quản lí và người quản lí thì phải có
tính chuyên môn cao, tuy nhiên tất cả đều vì uy tín, vì công việc, vì sự phát triển
của tổ chức.
Lãnh đạo và quản lí gồm một nhóm người cùng tiến hành một hoạt động
chung, cùng thống nhất về mặt lợi ích.
III. Vai trò uy tín của người Hiệu trưởng trong công tác Lãnh đạo quản

Là tiền đề và điều kiện đảm bảo chắc chắn cho sự thành công trong công tác
quản lý của hiệu trưởng. Lê nin nói rằng điều quyết định thành công trong việc
lãnh đạo quần chúng không phải bởi sức mạnh của uy tín, sức mạnh của nghị lực,
của sự hiểu biết phong phú, của tài năng xuất sắc. Nhờ có uy tín mà hiệu trưởng,

7

bằng những yêu cầu, bằng những gợi ý, bằng những lời thuyết phục, bằng những
quyết định quản lý của mình, luôn luôn có khả năng ám thị từng cá nhân và tập thể.
Điều đó có nghĩa là họ thực hiện nhiệm vụ được giao một cách tự giác, nhờ đó mà
hiệu trưởng thực hiện có kết quả những mục tiêu quản lý đã đề ra.
Giúp tăng cường tinh thần và hiệu quả làm việc của cán bộ, công nhân viên,
giáo viên; tăng cường nhịp điệu hoạt động tích cực của tập thể sư phạm và của nhà
trường.
Nhờ có uy tín mà hiệu trưởng mới tạo ra sự tin phục của tập thể và xã hội
đốivới lời nói và việc làm của mình. Nhờ đó mà:
+ Giáo dục được tập thể, giáo dục được từng thành viên của tập thể sư phạm
và học sinh, góp phần cực kỳ to lớn trong việc ngăn chặn các nhóm và các cá nhân
lệch chuẩn trong tập thể, ngăn chặn được xung đột trong tập thể, tạo ra bầu không
khí tâm lý lành mạnh trong tập thể.
+ Giúp cho hiệu trưởng tập hợp, động viên được các lực lượng trong xã hội
tham gia thực hiện có hiệu quả các mục tiêu giáo dục của nhà trường.
+ Là động lực bên trong giúp cho tinh thần của hiệu trưởng luôn sảng khoái,
bình tĩnh, tự tin, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm bởi vì hiệu trưởng
biết rằng tập thể coi mọi quyết định của hiệu trưởng là vì tập thể, cho tập thể chứ
không mảy may xen lẫn chút quyền lợi cá nhân nào chi phối quyết định của mình.
Ngược lại hiệu trưởng không có uy tín hoặc uy tín thấp luôn luôn gặp phải sự
chống đối, tâm trạng luôn luôn u ám nặng nề.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định: "Đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ
hóa và hội nhập quốc tế" và "Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục
quốc dân".
Một người lo bằng cả kho người làm đã nói lên vai trò quan trọng của nhà
quản lý, trong việc thực hiện các chức năng quản lý của mình. Khi xã hội bước
sang một thời kỳ mới thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa cần phải
có những con người phù hợp, mà trước hết rất cần phải có những nhà quản lý phù
hợp. Trong quản lý giáo dục cũng vậy, để có được nhà quản lý giáo dục tốt có
năng lực là hết sức quan trọng.
Như vậy, công nghiệp hóa không chỉ là phát triển nền công nghiệp, mà là phát
triển mọi lĩnh vực từ sản xuất vật chất và dịch vụ của nền kinh tế đến các khâu
trang thiết bị, phương thức và phương pháp quản lý, kỹ năng sản xuất, tác phong
lao động. Hiện đại hóa cũng không có nghĩa chỉ đưa những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào các lĩnh vực hoạt động kinh tế, mà là quá trình vận dụng tất
cả các thành tựu đó vào toàn bộ hệ thống chính trị - kinh tế - xã hội, nó đòi hỏi
phải thực hiện sự thay đổi trong toàn bộ cơ cấu kinh tế - xã hội một cách hợp lý,
cân đối, tạo lập cơ chế quản lý xã hội ở trình độ chuyên môn cao với phương pháp
quản lý hiện đại.

8

Người lãnh đạo là người chịu trách nhiệm tổ chức người dưới quyền thực hiện
những nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước giao phó; là đầu não của một cơ thể hết sức
nhạy cảm trước mọi biến cố cuộc sống, biết lựa chọn những giải pháp tối ưu để chỉ
huy, điều khiển bộ máy hoạt động một cách hiệu quả. Lãnh đạo trong sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa là công việc đầy tính sáng tạo, kết hợp nhuần
nhuyễn khoa học và nghệ thuật, cần sự nhìn nhận, phân tích, liên kết, tổng hợp,
điều hòa vô vàn mối quan hệ để vạch ra chủ trương, đường lối, chiến lược, sách
lược, điều hành hệ thống công việc đạt được mục đích cao.
Người lãnh đạo trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa vừa là chủ thể
có những phẩm chất phù hợp với xã hội hiện đại, vừa có đủ năng lực để lãnh đạo
thực hiện các nhiệm vụ cách mạng hiện nay. Phẩm chất và năng lực cần thiết đối
với người lãnh đạo trong các giai đoạn cách mạng trước đây rõ ràng là không thể
đáp ứng hoàn toàn các yêu cầu về phẩm chất và năng lực của người lãnh đạo trong
giai đoạn mới. Người lãnh đạo trong giai đoạn mới này phải là chủ thể làm chủ các
phương tiện khoa học - công nghệ hiện đại, nắm chắc cơ cấu và phương thức vận
hành của nền sản xuất công nghiệp, của cơ cấu, tổ chức, vận hành của xã hội hiện
đại; vừa phải nâng cao tính độc lập, vừa phải đặt mình trong tổng thể cơ cấu thống
nhất - liên hoàn của một xã hội phát triển cao.
Yếu tố đầu tiên của năng lực là tri thức chung, là kiến thức tổng hợp do kiến
thức và kinh nghiệm loài người đem lại, tạo nên trình độ hiểu biết rộng. Yếu tố thứ
hai là tri thức chuyên môn trong lĩnh vực mà người lãnh đạo đảm nhiệm. Năng lực
không chỉ nằm yên với tư cách nguồn lực dự trữ, nó phải được bộc lộ ra trong hoạt
động của người lãnh đạo. Đó là năng lực hoạt động thực tiễn. Trí tuệ dù cao sâu
đến đâu, nó chỉ mới là tiềm năng sáng tạo. Người lãnh đạo tỏ rõ tài năng lãnh đạo
của mình khi vận dụng toàn bộ tiềm năng sáng tạo vào ứng xử, điều hành công
việc mình đảm đương.
IV. Năng lực người lãnh đạo trong giai đoạn hiện nay
- Yêu cầu quan trọng đầu tiên đối với người lãnh đạo với tư cách là người tổ
chức là phải biết nhìn về mọi mặt bằng con mắt của người ngoài, bởi vì mỗi người
lãnh đạo bằng uy tín, hành động và tư cách của mình có ảnh hưởng rất lớn đối với
nhân viên dưới quyền. Thường thường người ta tự nhận xét mình bằng con mắt của
mình. Điều đó là cần thiết, nhưng chỉ cần thiết khi sự tự nhìn nhận đó không vì lợi
icáh cá nhân, mà là để hiểu rõ hơn nữa vai trò thủ trưởng của mình, là để tạo ra
không khí hiểu biết lẫn nhau giữa nhân viên và thủ trưởng.
Người lãnh đạo phải có được sự tín nhiệm của quần chúng, đây là biểu hiện
tâm lý của mối quan hệ với quần chúng. Uy tín chuyên môn của người lãnh đạo là
phải đưa ra được những quyết định đúng đắn để giải quyết công việc có tính chất
chuyên môn. Những quyết định này không nhất thiết phải do người lãnh đạo đề
xuất, nhưng họ phải ra được quyết định đúng đắn. Uy tín về chuyên môn hết sức
cần thiết với người lãnh đạo, nó góp phần nâng cao hiệu quả quản lí, nó làm cho
các quyết định của cuảt họ đưa ra được quàn chúng tin tưởng và cùng nhau thực
hiện tốt.

9

- Yêu cầu thứ hai là phải có khả năng duy trì thường xuyên sự tiếp xúc với
quần chúng. Muốn vậy, trước hết phải biết cách tạo ra bầu không khí thuận lợi cho
sự tiếp xúc nói chung.
Cần phải có năng lực thiết lập xúc tiến tâm lí thuận lợi với mọi người chẳng
những trong công tác mà cả trong cuộc sống thường ngày. Trong mọi trường hợp
cần phải trân trọng và giữ gìn tâm trạng vui vẻ của mọi người. Bởi vì nếu vui vẻ,
họ sẽ làm việc tốt hơn, và ngược lại nếu thiếu phấn khởi họ sẽ làm việc kém hẳn
đi, cản trở công việc của tổ chức nói chung. Vì vậy yêu cầu về khả năng biết giao
tiếp về mặt tâm lí học, biết dẫn dắt vấn đề theo ý mình là một vấn đề hết sức quan
trọng mà người lãnh đạo cần phải có.
- Yêu cầu thứ ba là khả năng nghe và nói đối với người lãnh đạo: Trong giao
tiếp trao đổi thông tin giữa người với người nghe và nói là một trong những
phương pháp cơ bản nhất và diễn ra thường xuyên đối với tất cả mọi người và đặc
biệt quan trọng với những người làm công tác quản lí, lãnh đạo.
Khi nghe cần nhấn mạnh tới sự lắng nghe. Lắng nghe không chỉ là biểu hiện
của thái đọ tôn trọng, lịch sự đối với người nói. khuyến khích người nói mà chữ
lắng trong lắng nghe còn biểu hiện sự lựa chọn chắt lọc những điều có lợi cho
việc đề ra quyết sách của người lãnh đạo. Muốn được như vậy thì phải lắng nghe,
có thể trong thâm tâm không vừa ý bằng lòng với ý kiến của người khác nhưng vẫn
phải lắng nghe, càng những lời nói tría ngược càng cần lắng nghe nhiều, bởi chính
những ý kiến không đồng ý, phản đối này chứa đựng điều mới mẻ và bổ ích nhất.
Ngưòi lãnh đạo cần biết nói. Trong việc đó cần chú ý tới nội dung và cách
nói. Người lãnh đạo cần phải nói khi truyền đạt nhiệm vụ mới, khi công việc gặp
khó khăn, trở ngại, khi cần thuyết phục để cho mọi người cùng hiểu, cùng đồng
tâm chung sức làm việc. Vì vậy người lãnh đạo phải vận dụng trí tuệ để có nội
dung phong phú đồng thời cần sắp xếp theo trật tự logic để người nghe dễ tiếp thu
và hiểu hết những điều mình cần nói. Do vậy lựa chọn nội dun và lựa chọn cách
nói là hai việc gắn liền nhau
- Yêu cầu thứ tư là biết nghiên cứu người khác theo những số liệu chưa đầy
đủ: bởi vì con người là một đối tượng nghiên cứu hết sức phức tạp, và ta không thể
nghiên cứu về một con người trên tất cả các phương diện được.
Để nghiên cứu, đánh giá nhân viên của mình điều trước tiên là phải chú ý
đến những phẩm chất của người đó liên quan đến hiệu quả công việc. Khi nghiên
cứu về một con người lãnh đạo cần phải dựa vào sự hiểu biết của những người
khác về con người đó. Không thể có những con người hoàn hảo về mọi phương
diện vì vậy khi đánh giá nhân viên của mình người lãnh đạo cần phải xác định
những phẩm chất tốt cũng như những thiếu sót trong cùng một con người ấy.
- Yêu cầu thứ năm là: biết cách tác động một cách có hiệu quả tới người
dưới quyền, biết khuyến khích họ hoàn thành nhiệm vụ chung. Nói khái quát, việc
lãnh đạo con người có thể được biểu thi qua hai thông số tưởng như đối lập, đó
làtính cứng rắn và tính mềm mỏng.

10

Tính cứng rắn có nghĩa là khi nhiệm vụ đã đặt ra, thì phải thực hiện nhiệm
vụ đó bằng mọi giá, bằng mọi biện pháp như kinh tế, kỹ thuật, hành chínhĐó là
tính cứng rắn của hệ thống quản lý.
Tính mềm mỏng có nghĩa là người lãnh đạo sử dụng những biện pháp càng
mềm càng tốt để tác động tới taam lí người dưới quyền mình thực hiện nhiệm vụ
được giao.
Nghệ thuật của người lãnh đạo càng cao, càng biết sử dựng những biện pháp
mềm dẻo buộc nhân viên của mình hoàn thành nhiệ vụ được giao. Ngược lại những
cán bộ yếu kém thường chạy theo những biện pháp khắc nghiệt sử dụng hình phạt
làm cho cấp dưới sợ hãi. Đã sợ hãi thì không thể chủ động sáng tạo trong công việc
được, vì thế đó là những biện pháp tồi tệ nhất.
- Yêu cầu thứ sáu là khả năng biết kết hợp kích thích vật chất và kích thích
tinh thần.
Có những trường hợp kích thích tinh thần có lợi hơn, hiệu quả hơn, đồng
thời lại có những trường hợp khác kích thích vật chất tỏ ra có hiệu quảt hơn. Do
đó, biết kết hợp kích thích vật chất và kích thích tinh thần là một trong những năng
lực của nhà lãnh đạo.
- Yêu cầu thứ bảy là khả năng biết đoàn kết mọi người, biết tạo lập một tập
thể thống nhất, một tổ chức có năng lực làm việc hiệu quả cao. Biết ngăn ngừa và
giải quyết những mâu thuẫn xung đột xảy ra trong tập thể.
- Yêu cầu thứ tám: Người lãnh đạo cần có tư duy linh hoạt trong cách xử
thế: Sự việc thường trong trạng thái luôn luôn biến đổi, đứng trước những trạng
thái biến đổi đó người lãnh đạo phải hết sức nhanh nhạy để nắm bắt cho được tình
thế. Người như thế mới có thể xử lí công việc được linh hoạt mà chắc chắn nắm
vững thành công.
Người lãnh đạo giỏi còn phải biết dự kiến đúng tình hình và chuẩn bị đối
phó hữu hiệu với tình huống xấu có thể xảy ra trong tương lai. Muốn vậy người
lãnh đạo cần phải có tư duy linh hoạt.
Trong việc quản lí, sử dụng con người: người lãnh đạo cần có con mắt tinh
tường thông hiểu công việc để sắp xếp mỗi người vào từng công việc, từng vị trí
phù hợp để họ phát huy khả năng, sở trường của mình đồng thời khai thác hết tiềm
năng con người. Vì vậy nghệ thuật lãnh đạo phụ thuộc rất nhiều vào nghệ thuật sử
dụng người.
- Yêu cầu cuối cùng là biết kích thích và duy trì nhiệt tình công tác của tập
thể.
Người lãnh đạo phải chú ý xem nhiệm vụ cụ thể của mình là gì, nhân viên
của mình là những ai, tâm tư nguyện vọng, tâm lý tình cảm của họ ra sao và từ đó
mà đắt ra cho mình những yêu cầu cụ thể. Trên cơ sở đó, có thể một mặt dễ dàng
tiếp cận với mọi người, động viên mọi người cùng thực hiện nhiệm vụ chung, mặt
khác việc thực hiện nhiệm vụ là điều kiện để giáo dục mọi người, tạo cho mọi
người một tâm hồn, một đạo đức trong sáng.

11

Ngoài những năng lực tối thiểu trên người lãnh đạo còn có những năng lực
sau:
- Là người có tầm nhìn thời đại; có trình độ và khả năng phù hợp với bản chất
của xã hội công nghiệp xã hội hiện đại.
- Có nhân cách lãnh đạo phù hợp với bản chất xã hội công nghiệp xã hội
hiện đại phát triển theo hướng nhân văn: Xu hướng và mục tiêu chính trị là phát
triển và tiến bộ xã hội con người.
- Có tư duy khoa học, phương pháp tư duy duy vật biện chứng, phù hợp tính
chất công nghiệp, lối sống hiện đại, biểu hiện trong năng lực tư duy sắc bén nhanh
nhạy, uyển chuyển, sáng tạo.
- Có tư chất đặc thù của người lãnh đạo như vững vàng về tinh thần, phát triển
sâu sắc và phong phú thế giới nội tâm; yếu tố lý trí và yếu tố tình cảm hài hoà.
- Có tri thức và kinh nghiệm phát triển tương ứng với tính chất công việc
được giao: tri thức tổng hợp và chuyên sâu.
- Có trình độ cao, kể cả hiểu biết về nền khoa học công nghệ hiện đại, cũng
như thao tác về kỹ thuật vi tính, viễn thông...
- Khả năng thu hút mọi người và quy tụ họ xung quanh mình, tổ chức, huy
động, phát huy sức mạnh tổng hợp của tập thể để thực hiện tối ưu mục tiêu chung.
- Khả năng tiên đoán, dự báo các khả năng có thể xảy ra trong hiện thực và
tương lai, đồng thời dự phòng các khả năng giải quyết, thực hiện chúng trong
những điều kiện ngặt nghèo nhất.
- Khả năng sáng tạo, phá vỡ cái định hình, vượt qua cái cũ, tìm tòi, khám phá,
phát hiện và đề xuất cái mới có ích cho nhân dân, có giá trị cho xã hội.
- Khả năng quyết đoán, táo bạo, đồng thời lại chắc chắn trong việc đưa ra
những quyết định cũng như trong chỉ đạo hành động.
V. Chức năng quản lý của hiệu trưởng trong giai đoạn hiện nay
Có nhiều cách phân chia về chức năng quản lý nhưng cơ bản thống nhất ở bốn
chức năng cơ bản:
- Chức năng lập kế hoạch:
Lập kế hoạch là quá trình ấn định những nhiệm vụ, những mục tiêu và
phương pháp tốt nhất để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ đó.
Lập kế hoạch là phương pháp tiếp cận hợp lý để đạt những mục tiêu định
trước, là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý vì nó gắn liền với việc
lựa chọn chương trình hành động trong tương lai.
Kế hoạch là văn bản trong đó xác định mục tiêu, mục đích của một tổ chức và
những con đường, các biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu, mục đích đó. Do
đó để xây dựng bản kế hoạch mang tính khả thi đồi hỏi người Hiệu trưởng cần xác
định được trường của mình đang ở đâu trên cơ sở phân tích những mặt mạnh, mặt
yếu, thời cơ, thách thức các nguyên nhân chủ quan, khách quan để từ đó xác định,
12

hình thành mục tiêu đối với tổ chức. Hiệu trưởng khi lập kế hoạch đòi hỏi phải
nắm chắc thông tin với tư duy dự báo tốt và sự tham gia dân chủ của mọi thành
viên bởi họ là người làm cho kế hoạch được thực hiện
Hiệu trưởng cần đảm bảo rằng với những nguồn lực hiện tại của nhà Trường
sẽ hoàn thành được mục tiêu đề ra trên cơ sở của sự cố gắng, phấn đấu của tập thể
nhà trường. Tất nhiên trong quá trình thực hiện Hiệu trưởng cần phải có tầm nhìn
để xác định xem những hoạt động nào là ưu tiên mà chúng ta phải thực hiện trước
làm tiền đề cho các hoạt khác
- Chức năng tổ chức:
Với chức năng này đòi hỏi người Hiệu trưởng nắm được tính cách và trạng
thái tâm lý của từng các bộ trong nhà trường hay nói một cách khác là phải hiểu
được cán bộ của mình quản lý từ đó có sự sắp xếp, bố trí một cách hợp lý giữa các
cá nhân, các bộ phận nhằm phát huy tối đa sức mạnh tập thể cũng như sức mạnh
của từng cá nhân họ trong khi thực hiện công việc được phân công
- Chức năng chỉ đạo:
Chỉ đạo là quá trình tác động, liên kết các thành viên trong tổ chức, tập hợp,
động viên họ hoàn thành những công việc nhất định để đạt được mục tiêu của tổ
chức. Do đó Hiệu trưởng cần phải có sự quan tâm trong chỉ đạo thực hiện công
việc, thường xuyên theo dõi, giám sát việc thực hiện công việc của các cá nhân, tổ
chức nhằm có những uốn nắn, sửa chữa, chỉnh lý cũng như động viên, khen thưởng
kịp thời những cá nhân tập thể hoàn thành tốt công việc được phân công
- Chức năng kiểm tra:
Để hoàn thành chức năng lãnh đạo, Hiệu trưởng cần thiết và phải thực hiện
chức năng kiểm tra của quản lý. Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không
lãnh đạo. Để thực hiện kiểm tra đánh đánh giá trong quá trình lập kế hoạch cần xác
định cụ thể các chuẩn hay yêu cầu mức độ hoàn thành của từng công việc cụ thể
trên cơ sở đó giúp cho việc kiểm tra đánh giá được tiến hành thuận lợi cũng như
làm cơ sở cho việc hiệu chỉnh các hoạt động trong việc thực hiện công việc
Các chức năng của quản lý có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một
chu trình quản lý. Chu trình quản lý bao gồm bốn giai đoạn với sự tham gia của hai
yếu tố quan trọng thông tin và quyết định. Trong đó thông tin có vai trò là huyết
mạch của hoạt động quản lý đồng thời cũng là tiền đề của một quá trình quản lý
tiếp theo.
VI. Những con đường hình thành năng lực lãnh đạo, quản lý của Hiệu
trưởng trường phổ thông trong giai đoạn hiện nay
6.1 Vai trò của người Hiệu trưởng
6.1.1 Hiệu trưởng là người lãnh đạo nhà trường, chịu trách nhiệm quản
lý các hoạt động của nhà trường
Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm trước Đảng và Nhà nước về việc đảm
bảo chất lượng giáo dục ở trường mình. Tuy có các Phó Hiệu trưởng giúp việc và

13

liên đới chịu trách nhiệm, nhưng Hiệu trưởng phải giữ vai trò thủ trưởng, thường
xuyên nắm thông tin và có những quyết định kịp thời không để những hiện tượng
thiếu trách nhiệm, phản sư phạm xảy ra hoặc tiếp diễn làm tổn hại đến chất lượng
giáo dục thế hệ trẻ. Để đảm bảo trách nhiệm này, cần khẳng định cho Hiệu trưởng
quyền đề bạt và đề nghị thay thế các Phó Hiệu trưởng, quyền đề nghị đình chỉ công
tác và thay thế các giáo viên, nhân viên không còn đủ các phẩm chất, năng lực làm
công tác giáo dục.
6.1.2 Hiệu trưởng, nhà sư phạm mẫu mực, nhà giáo dục có tâm hồn
Người Hiệu trưởng phải hiểu biết những cơ sở tâm lý học, giáo dục học, trực
tiếp tham gia giáo dục một số học sinh và là người thầy giáo mẫu mực của học sinh
trong nhà trường. Hiệu trưởng là người dạy tốt ít nhất là một môn học, có khả năng
thực hiện mẫu mực các nhiệm vụ của một nhà giáo bộ môn.
Trình độ chuyên môn về khoa học giáo dục, lý luận và thực hành là rất cần
thiết cho công tác quản lý trường học.
6.1.3 Hiệu trưởng, nhà hoạt động xã hội
Một trong những phương tiện quan trọng để làm công việc này là bản thân
người Hiệu trưởng tham gia vào công tác của địa phương. Hoạt động xã hội của
Hiệu trưởng còn có ý nghĩa giáo dục tính tích cực xã hội cho học sinh rất nhiều.
Hiệu trưởng cần động viên các thành viên của tập thể tham gia vào đời sống xã
hội.
Nói chung, những người lãnh đạo nhà trường, nhất là ở nông thôn thường
được mọi người biết đến như là những diễn giả, những cán bộ tuyên truyền, những
thành viên tích cực của các tổ chức xã hội khác nhau. Nhờ đó, họ tạo ra những điều
kiện thuận lợi cho công tác giáo dục toàn diện đối với thế hệ trẻ.
6.1.4 Hiệu trưởng, người tổ chức trong thực tiễn
Người Hiệu trưởng là người lãnh đạo cấp cơ sở trong sự nghiệp giáo dục, và
càng ở cấp cơ sở thì chức năng tổ chức thực hiện càng phong phú. Hoạt động tổ
chức về cơ bản là hoạt động với con người. Trong hoạt động với con người, những
Hiệu trưởng giỏi thường có những đặc điểm sau đây :
- Có sự đồng cảm hay sự nhạy cảm về tổ chức: Đó là khả năng đặt địa vị của
mình vào cương vị của người đối thoại, hiểu được thế giới nội tâm của họ, hiểu
được khó khăn của họ, cùng rung cảm với họ, khiến họ có thể dễ dàng bộc lộ tâm
tư với người lãnh đạo. Sự nhạy cảm về tổ chức còn thể hiện ở chỗ người lãnh đạo
biết rõ người dưới quyền đang cần gì và chủ động giúp đỡ họ cả trước khi họ có sự
yêu cầu.
- Có sự khéo léo đối xử: thể hiện ở chỗ tìm được cách cư xử thích hợp với
từng người, cách truyền thụ tế nhị kinh nghiệm và kiến thức của mình cho những
người khác để họ có thể tiến hành công việc có kết quả hơn.
6.1.5 Hiệu trưởng, người nghiên cứu khoa học giáo dục

14

Hiệu trưởng cần lôi cuốn các giáo viên đi vào nghiên cứu khoa học giáo dục.
Bước thứ nhất là nghiên cứu, phân tích, phổ biến và áp dụng những kinh nghiệm
giảng dạy, giáo dục của các đồng nghiệp tiên tiến ở trường mình và các trường
bạn. Bước tiếp theo là cộng tác với các nhà khoa học của các Viện nghiên cứu, các
trường đại học, trong việc thực nghiệm một số đề tài khoa học ở trẻ em. Người
giáo viên trực tiếp tham gia công tác nghiên cứu khoa học sẽ cảm thấy công việc
hàng ngày của mình bớt đơn điệu, có thêm sức hấp dẫn và thấy được niềm vui sáng
tạo trong nghề nghiệp.
6.2 Năng lực lãnh đạo, quản lý của hiệu trưởng trường phổ thông trong
giai đoạn hiện nay
- Năng lực tự hoàn thiện: Trong quá trình xã hội hóa cá thể - quá trình phát
triển và hoàn thiện nhân cách diễn ra trong suốt cuộc đời, mọi cá nhân đều phải và
biết tự học, tự tu dưỡng bằng nhiều con đường để khẳng định giá trị nhân cách
bản chất con người của mình, nhất là trong bối cảnh học suốt đời và cùng nhau xây
dựng một xã hội học tập hiện nay. Chỉ có như vậy mới khẳng định được vai trò chủ
thể của mình làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân.
Với tư cách là nhà quản lý giáo dục trong các nhà trường phổ thông, muốn
hình thành được những năng lực này ở các em thì điều trước tiên người quản lý
phải rèn luyện, trau dồi để có được những năng lực này. Đó là tấm gương sáng, cần
được thể hiện sinh động trong mọi hoạt động của nhà quản lý.
- Năng lực giao tiếp ứng xử: Năng lực phản ánh nhận thức, thái độ cũng như
phương thức thể hiện của con người với các mối quan hệ trong gia đình, nhà
trường và ngoài xã hội. Trong xu thế hội nhập, giao lưu giao thoa giữa các nền văn
hóa hiện nay năng lực này ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết, nó biểu hiện
giá trị của mỗi cá nhân ra bên ngoài trong hoạt động sống của mình, nó phản ánh
nghệ thuật sống của con người, phản ánh giá trị văn hóa giao tiếp của cá nhân.
- Năng lực thích ứng: Xã hội ngày càng có những biến động rất nhanh và theo
nhiều chiều hướng khác nhau. Vấn đề đặt ra là: Xuất phát từ lý tưởng cách mạng
trong sáng, quan điểm giai cấp rõ ràng và với năng lực, bản lĩnh của mình mỗi cá
nhân cần có sự thích ứng để phù hợp với những thay đổi của cuộc sống, của điều
kiện học tập và lao động... luôn làm chủ bản thân mình để xuất tâm từ đó mà
nhập tâm một cách có hiệu quả cao nhất.
- Năng lực tổ chức và quản lý: Năng lực này phản ánh chức năng kế hoạch
hóa, khả năng tổ chức chỉ đạo thực hiện các hoạt động, khả năng dự báo, dự đoán
và kiểm tra các hoạt động sống của con người. Đây là một năng lực cần thiết và hết
sức quan trọng của con người trong thời kỳ Công nghiệp hóa Hiện địa hóa, thời
kỳ hội nhập, thời kỳ phát triển kinh tế tri thức của thế kỷ XXI.
Với tư cách là nhà quản lý giáo dục trong các nhà trường phổ thông, năng lực
tổ chức và quản lý là năng lực bản lề, có tính chất quyết định đến việc thực hiện
các chức năng quản lý của người hiệu trưởng, đến hiệu qủa hoạt động của toàn bộ
nhà trường.

15

- Năng lực hoạt động chính trị xã hội: Đây là năng lực đánh giá rõ nhất, cụ thể
nhất nhân cách người cách mạng, đánh giá những phẩm chất chính trị của mỗi cá
nhân. Trong bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều phức tạp như hiện nay, đòi hỏi
mỗi con người phải biết hợp tác và hợp tác trên cơ sở quan điểm giai cấp rõ ràng,
xác định rõ lý tưởng cách mạng đó là: Độc lập dân tộc và Chủ Nghĩa Xã Hội. Mỗi
người cần phải rèn luyện để có được những tri thức, kỹ năng và thái độ từ đó phát
triển năng lực hoạt động chính trị xã hội của mình. Đó là một yêu cầu bức xúc
nhằm giải quyết hàng loạt những mâu thuẫn giữa cá nhân với cộng đồng, với dân
tộc và với nhân loại.
- Năng lực hợp tác và cạnh tranh: Trong xu thế hội nhập, để phát triển mỗi
con người cần phải biết hợp tác với nhau và trên cơ sở hợp tác đó mà cạnh lành
mạnh với nhau đó chính là động lực của sự phát triển, là đòi hỏi mang tính khách
quan.
Người cán bộ quản lý giáo dục cần nhận thức sâu sắc vấn đề này, từ đó mới
có thể thực hiện hiệu quả các chức năng quản lý trong tập thể của mình. Cụ thể nhà
quản lý giáo dục, cần phải thực hiện tốt năng lực này trong việc tổ chức các hoạt
động của tập thể giáo viên, tập thể học sinh. Nhất là trong công cuộc đổi mới dạy
và học, đổi mới việc giáo dục con người hiện nay.
- Năng lực lao động nghề chuyên biệt: Đây chính là giá trị để đánh giá và
khẳng định nhân cách của mỗi cá nhân. Đây cũng là vấn đề không thể thiếu được
trong giai đoạn CNH-HĐH đang diễn ra với tốc độ cao, với nhịp độ khẩn trương.
Mỗi cá nhân cần căn cứ vào những phẩm chất và năng lực của bản thân, sở trường
sở đoản của mình, căn cứ sở thích ước muốn, căn cứ quan điểm sống để lựa chọn
cho mình một nghề phù hợp mà xã hội đang cần. Từ đó có thể cống hiến hết mình
và tìm thấy niềm vui niềm hạnh phúc với nghề đã chọn.
Là người quản lý nhà trường tức là làm nghề sư phạm, nghề quản lý công tác
giáo dục và cảm hóa những con người đang lớn lên, từng thành viên phải thấy rõ
vai trò thay mặt Đảng, Nhà nước và Nhân dân của mình. Như vậy việc tu dưỡng,
trau dồi để có được tấm lòng, tài năng và tầm nhìn xa trông rộng là vấn đề cốt yếu
của mỗi cán bộ quản lý giáo dục.
- Năng lực nghiên cứu khoa học: Con người của thời đại ngày nay là con
người phải có tính phê phán trí tuệ, không bằng lòng với cái hiện có, luôn tiến về
phía trước. Đó cũng là con người có khả năng tiếp cận và giải quyết vấn đề bằng
con đường riêng của mình. Như vậy có thể nói : Năng lực nghiên cứu khoa học là
một đòi hỏi đối với người lao động trong thời đại bùng nổ thông tin, thời đại khoa
học và công nghệ phát triển không ngừng, thời đại mà nhân loại đang từng bước
bước vào nền kinh tế tri thức.
Với tư cách là nhà quản lý giáo dục trong các nhà trường phổ thông, mỗi
người cần phải thấy được đây là một nhiệm vụ trọng tâm trong công tác của mình.
Nếu bản thân anh không là tấm gương của việc nghiên cứu thì làm sao có thể phát
động, tổ chức, chỉ đạo và đánh giá việc nghiên cứu được!

16

C. PHẦN KẾT LUẬN
Người lãnh đạo và quản lý phải biết làm cho người khác yêu mến mình. Đó
là lời giải đáp cho những suy nghĩ trăn trở mỗi lúc được đặt ra, khi ta hình dung ra
trách nhiệm hết sức nặng nề ấy.
Hãy làm cho mọi người yêu mến mình, tin tưởng mình, tất cả những khó
khăn của người Hiệu trưởng sẽ được những người cộng sự, thuộc cấp, nỗ lực vượt
qua cùng với chính bản thân của người lãnh đạo quản lý.
Cũng cần nhớ tạo ra một sự công bằng trong đơn vị. Không được xem nhje
những người cộng sự, những thuộc cấp quanh mình là những kẻ nô lệ. Hãy xem tất
cả họ là bản thân của người lãnh đạo quản lý. Hãy làm cho họ hiểu được các quan
niệm kế hoạch, nỗ lực, ý chí của bạn ước muốn, tầm nhìn, chiến lược đều nhằm
mục đích tạo một sự công bằng cần thiết và uy tín của đơn vị cũng chính là uy tín
của họ.
Lòng bác ái, hòa nhã và tinh thần gương mẫu của người lãnh đạo quản lý
cũng rất quan trọng. Muốn thế, Người lãnh đạo quản lý có một nhân cách, một tâm
hồn cao thượng, để có thể cảm thụ được tính chất của từng thuộc cấp, từng diễn
biến nội tâm đang diễn ra trong mỗi giáo viên và nhân viên, cũng như những nhu
cầu tâm hồn của nơi họ.
Như vậy có thể nói, điều kiện kiên quyết để người lãnh đạo và quản lý là:
Tình thương, Công bằng và Bác ái. Dĩ nhiên, chỉ đơn thuần có được ba đức tính
trên chưa thể kết luận người lãnh đạo quản lý sẽ trở thành một người lãnh đạo và
quản lý tài ba, vì đó chỉ mới là Điều Kiện Tiên Quyết.
Bài viết của nhóm em, mặc dù đã cố gắng nhưng không tránh khỏi những
thiếu xót, mong quý thầy cô và độc giả xem xét đánh giá để bài tiểu luận hoàn
thiện hơn. Xin chân thành cám ơn.

17

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tâm lý học trong quản lý Nhà Nước, GS Mai Hữu Khuê, năm 1994
2. Tâm lý học trong quản lý Nhà Nước, Học Viện Hành Chính Quốc Gia,
NXBGD, năm 1996
3. Lãnh đạo và quản lý một nghệ thuật, NXBLĐ-XH, năm 2002
4. Để trở thành nhà quản lý giỏi, NXB Văn Hoá- Thông Tin, năm 2004
5. Tập bài giảng tâm lý học quản lý, NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, năm 2008

18

Tải về bản full

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề