Trình bày hoàn cảnh, Điện Biên kết quả của chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 152 SGK Lịch sử 12

Đề bài

Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã được chuẩn bị và giành thắng lợi như thế nào? Nêu ý nghĩa của chiến thắng Điện Biên Phủ. 

Phương pháp giải - Xem chi tiết

Dựa vào sgk Lịch sử 12 trang 150 – 152 để trả lời. 

Lời giải chi tiết

1. Diễn biến:

- Tháng 12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ nhằm tiêu diệt lực lượng của địch ở đây, giải phóng Tây Bắc, tạo điều kiện giải phóng Bắc Lào.

- Tháng 3/1954, quân ta đã chuẩn bị đầy đủ cho cuộc Tổng tiến công tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ.

- Chiến dịch Điện Biên Phủ được chia làm 3 đợt:

+ Đợt 1 [từ ngày 13 đến 17/3/1954]: tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam và toàn bộ phân khu Việt Bắc.

+ Đợt 2 [từ ngày 30/3 đến 26/4/1954]: đồng loạt tiến công các phân khu Trung tâm, chiếm hầu hết các cứ điểm của Pháp, tạo điều kiện không chế, chia cắt lực lượng của Pháp.

+ Đợt 3 [từ ngày 1/5 đến 7/5/1954]: đồng loạt tiến công phân khu Trung tâm và phân khu Nam, tiêu diệt các cứ điểm còn lại của Pháp.

- Các chiến trường toàn quốc đã phối hợp chặt chẽ nhằm phân tán, tiêu hao, kìm chân địch, tạo điều kiện cho Điện Biên Phủ giành thắng lợi.

2. Ý nghĩa:

- Chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng một đòn quyết định, đập tan hoàn toàn kế hoạch Nava.

- Giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh Đông Dương.

- Trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ, tạo điều kiện giải phóng một nửa đất nước.

- Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ chứng tỏ sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

- Tăng niềm tự hào dân tộc, niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng.

- Khẳng định sự giúp đỡ to lớn về cả vật chất và tinh thần của bạn bè quốc tế.

- Chiến thắng Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ của nhân loại.

Loigiaihay.com

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Lịch sử lớp 12 - Xem ngay

1. Tóm tắt diễn biến

Ngày 06/12/1953, Bộ Chính trị họp bàn, quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua phương án tác chiến, thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch, Đảng ủy mặt trận do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch.

>> Xem thêm:

Ngày 25/01/1954, các đơn vị bộ đội ta đã ở vị trí tập kết sẵn sàng nổ súng theo phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Nhưng nhận thấy địch đã tăng cường lực lượng phòng ngự vững chắc, Bộ Chỉ huy và Đảng ủy chiến dịch đã đưa ra quyết định đúng đắn: giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thay đổi phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”.

Trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ đã diễn ra 3 đợt:

Đợt 1: Từ ngày 13 đến 17/3/1954, quân ta đã mưu trí dũng cảm tiêu diệt gọn cụm cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; diệt và bắt sống trên 2.000 tên địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ 01 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh; đại tá Pirốt, Tư lệnh pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ, bất lực trước pháo binh của ta đã dùng lựu đạn tự sát.

Đợt 2: Từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm thắt chặt vòng vây, chia cắt và liên tục tiến công, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho tập đoàn cứ điểm. Địch hết sức ngoan cố, muốn kéo dài thời gian. Na-va hy vọng đến mùa mưa ta phải cởi vòng vây. Đây là đợt tấn công dai dẳng, dài ngày nhất, quyết liệt nhất, gay go nhất, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt, tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2, khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ.

Đợt 3: Từ ngày 01/5 đến ngày 07/5/1954, quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đêm ngày 06/5/1954, tại đồi A1 trận chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt, quân ta ào ạt xông lên tiêu diệt các lô cốt và dùng thuốc nổ phá các hầm ngầm. Tên chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống sót đã phải xin đầu hàng. 17 giờ 30 phút ngày 07/5/1954, ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Ngay trong đêm đó, quân ta tiếp tục tiến công phân khu Nam, đánh địch tháo chạy về Thượng Lào, đến 24 giờ toàn bộ quân địch đã bị bắt làm tù binh.

2. Tóm tắt kết quả

Sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch.

3. Ý nghĩa

Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược, là trận đánh lừng lẫy năm châu “chấn động địa cầu”, trực tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương; tạo cơ sở và điều kiện để nhân dân ta tiếp tục giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến bảo vệ và xây dựng Tổ quốc sau này.

Nguồn: Tổng hợp.

I. Hoàn Cảnh Lịch Sử Của Chiến Dịch Điện Biên Phủ

1. Về phía địch:

 Vì kế hoạch Na-va không thực hiện được theo dự kiến, Pháp quyết định xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, với lực lượng lúc cao nhất lên đến 16.200 quân, được bố trí thành một hệ thống phòng thủ chặt chẽ gồm 49 căn cứ điểm.

 Pháp và Mỹ đều đưa Điện Biên Phủ là “ pháo đài bất khả xâm phạm”. Điện Biên Phủ trở thành địa điểm trung tâm của kế hoạch Nava.

2. Về phía ta:

 Từ tháng 11-1953 đến tháng 2- 1954, bộ đội ta liên tục mở các cuộc tiến công ở Tây Bắc, Trung Lào, Bắc Tây Nguyên, Thượng Lào và các chiến trường phối hợp khác. Chiến thắng đó đã làm cho kế hoạch Na-va của địch đứng trước nguy cơ bị phá sản.

 Đã giành được thế chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ, vùng giải phóng đã mở rộng, hậu phương đã lớn mạnh, quân đội ta đã trưởng thành, có đủ tinh thần và lực lượng đảm bảo cho việc giành thắng lợi ở Điện Biên Phủ.

 Đầu tháng 12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng mở chiến dịch Điện Biên Phủ, nhằm tiêu diệt lực lượng địch ở đây, giải phóng Tây Bắc tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao để kết thúc chiến tranh.

 Ta đã huy động đại bộ phận lực lượng chủ lực tham gia chiến dịch gồm 4 đại đoàn bộ binh [ 308, 312, 316, 304], một đại đoàn pháo binh, nhiều tiểu đoàn công binh, thông tin, vận tải, quân y,…thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ương và các cấp để đảm bảo chi viện cho tiền tuyến, trong một thời gian ngắn có khoảng 55 nghìn quân, hàng chục tấn vũ khí, đạn dược, 27 nghìn tấn gạo… được đưa ra mặt trận. Như vậy, Điện Biên Phủ trở thành điểm quyết chiến chiến lược của quân dân Việt Nam.

II. Diễn biến Của Chiến Dịch Điện Biên Phủ

– Diễn biến chiến dịch chia làm 3 đợt:

  Đợt 1: [ từ 13-3 đến 17-3-1954]: tiến công địch ở phân khu Bắc, tiêu diệt cứ điểm Him Lam, Độc Lập, buộc địch ở Bản Kéo phải ra hàng.

– Ngày 13-3-1954: Lúc 17 giờ 5 phút , Đại tướng Võ Nguyên Giáp hạ lệnh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của trận đầu tiên là Him Lam. Vào 20 giờ 30 phút, Đại đoàn 312 báo cáo hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

– Ngày 15-3-1954:3 giờ 30 phút, trận tiến công đồi Độc Lập bắt đầu [trễ khoảng 10 tiếng đồng hồ, do trời mưa lớn cản trở việc chuyển pháo]. Vào 6 giờ 30 phút, cờ Quyết Chiến Quyết Thắng bay trên đỉnh đồi.

– Ngày 17-3-1954: vào buổi sáng, quân địch bỏ chạy khỏi đồi Bản Kéo. Quân địch mất Him Lam, đồi Độc Lập, đồi Bản Kéo, phân khu bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ không còn tồn tại. Đợt 1 chiến dịch kết thúc. Ta bố trí lực lượng cắt lìa Hồng Cúm  ra khỏi phân khu trung tâm và bắt đầu xây trận địa chiến hào tiến công khu trung tâm.

 Đợt 2: [ từ 30-3 đến 26-4-1954]: liên tiếp mở nhiều cuộc tiến công đánh vào các vị trí phòng thủ phía Đông phân khu trung tâm cứ điểm , gồm hệ thống phòng thủ trên các dãy đồi A1, D1, C1,E1, Mỹ phải tăng cường viện trợ khẩn cấp cho Pháp ở Đông Dương.

– Ngày 30-3-1954: đúng 18 giờ, đợt tiến công thứ hai vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bắt đầu.

– Ngày 31-3-1954: Địch phản kích hòng chiếm lại C1, D1, E1, nhưng hoàn toàn thất bại. Ở đồi A1, trung đoàn 102 của Đại đoàn 308 tới thay 174 của binh đoàn 316, khoảng 18 giờ tiến đánh đỉnh đồi, đánh suốt đêm, không thành công.

– Ngày 1-4-1954: 5 giờ sáng ngày 1-4, quân tăng viện địch tới đồi A1, cùng lực lượng đồn trú còn lại trên đỉnh đồi bắt đầu phản kích. Quân ta giữ vững. Đến đêm ta lại đánh lên đỉnh đồi, vẫn không thành công.

– Ngày 2-4-1954: Địch tiếp tục phản kích ở đồi A1. Ta vẫn giữ được phần đồi đã chiếm, nhưng tạm ngưng tiến công lên đỉnh để bảo toàn lực lượng. Cũng ngày này, ở cứ điểm 311 phần lớn quân địch đầu hàng, một số bỏ chạy, ta chiếm mà không phải đánh.

– Ngày 6-4-1954:Hội nghị sơ kết đợt 2 quyết định ta sẽ tiếp tục đánh tiêu diệt các điểm cao phía đông, siết chặt vòng vây, tiến hành đánh chiếm sân bay trung tâm để vừa tiêu hao sinh lực địch vừa khủng bố tinh thần chúng.

– Ngày 10-4-1954: Vào khoảng 6 giờ sáng, địch mở một cuộc tiến công với chi viện hỏa lực rất lớn nhằm chiếm lại đồi C1.

– Ngày 11-4-1954: Vào khoảng 2 giờ sáng, sau gần một ngày một đêm giao tranh cực kỳ ác liệt, quân ta tiến xuống sườn phía đông của đồi C1, tổ chức phòng ngự.

– Ngày 12-4-1954: 11 giờ 40 phút,  pháo bắn rơi chiếc máy bay thứ 50. Đó là chiếc B24 chở đầy bom chưa kịp thả. Lượng thuốc nổ chiến lợi phẩm lớn này dự định được đưa vào cuối đường hầm đang đào trên đồi A1.

– Ngày 15 đến ngày 18-4-1954: Căn cứ điểm 105 bảo vệ phía bắc sân bay Mường Thanh bị quân ta uy hiếp. Địch huy động ba tiểu đoàn để cố giải tỏa áp lực, nhưng thất bại. Đêm 18, trung đoàn 165 xóa sổ cứ điểm này.

– Ngày 19 đến ngày 22-4-1954: vào buổi sáng, trung đoàn 36 tiến công cứ điểm 206 bảo vệ phía tây sân bay Mường Thanh. Ngày 23-4, Đờ Cát cho bộ binh theo xe tăng tới phá chiến hào của ta, nhưng bị chống cự kịch liệt, phải rút lui.

– Ngày 23-4-1954: vào buổi trưa, địch dùng 12 máy bay chiến đấu ném bom và 4 máy bay B26 chuyên ném bom bắt đầu đánh phá khu vực cứ điểm 206.

– Ngày 27-4-1954: Pháp tiến hành Chim kền kền cổ khoang, đưa quân từ Lào sang giải vây cho Điện Biên Phủ. Quân viện địch mới tới gần Mường Khoa đã bị bộ đội phục kích đánh tan, hốt hoảng tháo chạy về Lào.

– Ngày 29-4-1954: với khoảng một tháng trời cân nhắc, cơ bản do không thuyết phục được đồng minh, Tổng thống Mỹ Ai-xen-hao-ơ quyết định ngừng kế hoạch Chim kền kền thả bom nguyên tử xuống quân ta ở Điện Biên Phủ.

– Cuối tháng 4-1954: Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với một nhà báo người Úc về quân Pháp ở chiến dịch Điện Biên Phủ: Họ không thể thoát.

 Đợt 3: [từ 1-5 đến 7-5-1954]: đồng loạt tiến công tiêu diệt các điểm dễ kháng của địch. Chiều 7-5-1954 , quân ta đánh vào sở chỉ huy của địch, 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954 tướng Đờcátxtơri cùng toàn bộ ban tham mưu của địch bị bắt.

– Ngày 1-5-1954:  17 giờ, đợt tiến công thứ ba vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bắt đầu.

– Ngày 2-5-1954: 2 giờ sáng, trung đoàn 209 [Đại đoàn 312] tiêu diệt hoàn toàn hai cứ điểm 505 và 505A ở phía đông sông Nậm Rốm. Cũng sáng ngày 2, ở Hồng Cúm, trung đoàn 57 [ Đại đoàn 304] ép địch phải rút chạy khỏi khu C.

– Ngày 4-5-1954: Đờ Cát họp các sĩ quan cao cấp dưới quyền mình, phổ biến kế hoạch “Hải âu lớn. Đêm ngày 4, ở phía tây trung đoàn 36 [Đại đoàn 308] tiêu diệt căn cứ điểm 311B.

– Ngày 6-5-1954: 20 giờ, pháo ta bắn vào A1, C2 ở phía đông, 506 phía bắc, 310 phía tây. Ở phía tây, trung đoàn 102 [Đại đoàn 308] tiêu diệt căn cứ điểm 310.

– Ngày 7-5-1954:Trước khi trời sáng, trung đoàn 174 [ 316 ] làm chủ hoàn toàn đồi A1.9 giờ 30 sáng, trung đoàn 98 [316] chiếm đồi C2. Bộ chỉ huy khu đông và rất nhiều sĩ quan bị bắt sống.Vào 14 giờ, trung đoàn 209 [312] lại bắt đầu tiến công cứ điểm 507. Lần này quân địch nhanh chóng tan rã và phân tán. Trung đoàn 209 thừa thắng đánh tiếp qua 508, rồi 509.Vào 15 giờ, Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh tổng công kích vào Mường Thanh.Vào 17 giờ 30, Đại đoàn 312 báo cáo toàn bộ quân địch tại khu trung tâm đã đầu hàng, các chiến sĩ đại đội 360 tiểu đoàn 130 đã bắt được tướng Đờ Cát, cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi.

III. Kết Quả Và Ý Nghĩa Của Chiến Dịch Điện Biên Phủ

 Trong Đông – Xuân năm 1953-1954, loại khỏi vòng chiến đấu 128.200 quân địch, thu 19.000 súng, bắn rơi và phá hủy 162 máy bay, giải phóng nhiều vùng rộng lớn trong cả nước. Riêng tại mặt trận Điện Biên Phủ, loại khỏi vòng chiến đấu 16.200 địch, bắn rơi và phá hủy 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí và đồ dùng quân sự.

 Thắng lợi của cuộc tiến công Đông – Xuân năm 1953-1954, và chiến dịch Điện Biên Phủ đã đập tan hoàn toàn kế hoạch Nava của Pháp,Pháp bị giáng đòn nặng nề không dám xâm lược Việt Nam lần nữa, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo cơ sở thực lực về quân sự, chính trị cho cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Giơnevơ, kết thúc cuộc kháng chiến.

 Là đỉnh cao của truyền thống bất khuất, ý chí quyết tâm “ thà hy sinh tất cả chứ không chịu khuất phục mất nước, không chiu làm nô lệ” của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

 Chiến thắng Điện Biên Phủ không phải là thắng lợi của nhân dân Việt Nam mà nó là thắng lợi của các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa Đế quốc, chủ nghĩa thực dân, cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và Mỹ la tinh chống chủ nghĩa thực dân Đế quốc.

Video liên quan

Chủ Đề