Tiền 3710 là gì

Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình. Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội cho người tham gia.

Đối tượng tham gia

Căn cứ theo Khoản 4, Điều 2 Luật BHXH số 58/2014/QH13 quy định công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên, không nằm trong nhóm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đều có thể tham gia BHXH tự nguyện.

Quyền lợi khi tham gia

+ Được hưởng lương hưu hàng tháng khi về già
+ Được cấp thẻ bảo hiểm y tế trong suốt thời gian hưởng lương hưu
+ Được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí khi tham gia
+ Lương hưu được điều chỉnh theo Chỉ số giá tiêu dùng
+ Được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp thu nhập của bản thân
+ Thân nhân được hưởng chế độ tử tuất khi người tham gia qua đời.

Phương thức và thời điểm đóng

Người tham gia BHXH tự nguyện được chọn một trong các phương thức đóng sau:


STTPhương thức đóngThời điểm đóng1Đóng hàng thángTrong tháng2Đóng 3 thángTrong quý3Đóng 6 tháng4 tháng đầu4Đóng 12 tháng7 tháng đầu5Đóng 1 lần cho nhiều năm, không quá 5 năm một lầnTại thời điểm đăng ký   6Đóng 1 lần cho các năm còn thiếu không quá 10 năm [120 tháng]   Tại thời điểm đăng ký


*Lưu ý:
- Nếu quá thời điểm đóng mà người tham gia không đóng BHXH thì coi là tạm dừng đóng BHXH tự nguyện.
- Người tạm dừng đóng BHXH tự nguyện nếu muốn tham gia tiếp thì phải đăng ký lại mức thu nhập làm căn cứ đóng và phương thức đóng;
- Người tham gia có nguyện vọng đóng bù cho số tháng chậm đóng trước đó thì số tiền đóng bù bằng tổng mức đóng các tháng chậm đóng áp dụng lãi gộp bằng lãi suất đầu tư quỹ BHXH bình quân tháng do BHXH Việt Nam công bố của năm trước kiền kề với năm đóng.
- Được thay đổi phương thức đóng sau khi đã thực hiện xong phương thức đóng đã chọn trước đó.

Mức đóng

- Mức đóng hàng tháng bằng 22% mức thu nhập tháng do người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện lựa chọn
- Mức thu nhập tháng của người tham gia BHXH tự nguyện lựa chọn: thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn theo quy định của Thủ tướng Chính phủ và cao nhất bằng 20 lần mức lương cơ sở tại thời điểm đóng.
- Mức đóng 03 tháng hoặc 06 tháng hoặc 12 tháng: được xác định bằng mức đóng hàng tháng nhân với 3 hoặc 6 hoặc 12.
- Đóng 1 lần cho những năm về sau: được tính bằng tổng mức đóng của các tháng đóng trước, chiết khấu theo lãi suất đầu tư quỹ BHXH bình quân tháng do BHXH Việt Nam công bố của năm trước liền kề với năm đóng; [lưu ý: đóng trước từ đủ 02 năm mới được chiết khấu]
- Đóng 1 lần cho những năm còn thiếu: được tính bằng tổng mức đóng của các tháng còn thiếu, áp dụng lãi gộp bằng lãi suất đầu tư quỹ BHXH bình quân tháng do BHXH Việt Nam công bố của năm trước liền kề với năm đóng;

* Lưu ý:
- Người tham gia BHXH tự nguyện không phải đóng mức chênh lệch nếu Chính phủ điều chỉnh mức chuẩn hộ nghèo khi đã đóng theo phương thức đã đăng ký [3, 6, 12 tháng/lần hoặc một lần cho những năm về sau].


 

Đối tượng hỗ trợ, mức hỗ trợ của Nhà nước

Từ 01/01/2022, người tham gia BHXH tự nguyện được Nhà nước hỗ trợ tiền đóng theo tỷ lệ phần trăm [%] trên mức đóng BHXH hàng tháng theo mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn. Thời gian hỗ trợ tùy thuộc vào thời gian tham gia BHXH tự nguyện thực tế của mỗi người nhưng không quá 10 năm [120 tháng], cụ thể:

Hơn 2 tháng qua, vợ chồng chị Hằng sống lay lắt ở nhà trọ, tiền bạc dần cạn kiệt nhưng chưa nhận được gói hỗ trợ nào, trong khi những lao động tự do ở cùng khu trọ thì đều được nhận. "Hỏi tổ trưởng tổ dân phố thì họ nói trường hợp vợ chồng tôi phải do công ty làm thủ tục đề nghị hỗ trợ. Tôi liên hệ với công ty thì họ nói đã làm thủ tục nhưng đến nay vẫn chưa thấy gì. Chúng tôi rất ấm ức nhưng không biết kêu ai" - chị Hằng bức xúc.

Cán bộ Công đoàn Công ty TNHH Việt Nam Samho hỗ trợ thực phẩm cho công nhân khó khăn.Ảnh: CAO HƯỜNG

Ông Liêu Ngọc Sơn, Trưởng Phòng Nhân sự Công ty TNHH Thêu Vĩnh Dương, cho hay đầu tháng 8-2021, công ty đã thực hiện thủ tục đề nghị hỗ trợ cho 284 CN tạm hoãn HĐLĐ, nghỉ việc không hưởng lương theo Nghị quyết 68/NQ-CP. Theo hướng dẫn của Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội [LĐ-TB-XH] quận Tân Phú, công ty thực hiện thỏa thuận tạm hoãn HĐLĐ với người lao động [NLĐ] qua điện thoại, email, Zalo với NLĐ và đã hoàn tất đầy đủ hồ sơ… Tuy nhiên, sau đó Phòng LĐ-TB-XH quận lại đòi hồ sơ bằng giấy, trong khi đang trong thời gian giãn cách, công ty không thể thực hiện được.

Do không đáp ứng đủ yêu cầu sản xuất "3 tại chỗ" nên từ ngày 15-7, Công ty TNHH May mặc Xuất khẩu Knitwear Green Maple [quận Tân Phú] đã tạm ngưng hoạt động và cho toàn bộ 382 CN nghỉ việc không hưởng lương. Để giải quyết khó khăn cho CN, công ty đã làm thủ tục đề nghị hỗ trợ cho NLĐ theo Nghị quyết 68/NQ-CP.

"Khi nộp hồ sơ, Phòng LĐ-TB-XH quận yêu cầu công ty bổ sung biên bản kiểm tra của đoàn liên ngành quận về thẩm định doanh nghiệp [DN] không đủ tiêu chí thực hiện "3 tại chỗ". Thế nhưng, sau đó họ lại yêu cầu DN phải có công văn tạm ngưng sản xuất của UBND quận. Dù gặp khó khăn nhưng công ty đã đáp ứng tất cả yêu cầu của cơ quan chức năng, song không rõ lý do gì mà đến nay NLĐ vẫn chưa được hỗ trợ" - bà Nguyễn Thị Xuyến, Trưởng Phòng Nhân sự Công ty Knitwear Green Maple, thắc mắc.

Tương tự, bà Ly Tracy Trang, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Cân Nhơn Hòa [TP Thủ Đức, TP HCM], cho biết do dịch bệnh, công ty phải tạm hoãn HĐLĐ với gần 1.700 lao động từ giữa tháng 7-2021. Để CN bớt khó khăn, đầu tháng 8, ban giám đốc công ty đã làm thủ tục để họ được hưởng khoản hỗ trợ 3.710.000 đồng theo Nghị quyết 68/NQ-CP của Chính phủ nhưng đến nay vẫn chưa người nào được nhận.

Không riêng tại TP Thủ Đức, quận Tân Phú, nhiều NLĐ tại huyện Củ Chi cũng đang ngóng chờ hỗ trợ. Điển hình là trường hợp gần 10.000 NLĐ Công ty TNHH Việt Nam Samho. Do dịch bệnh và không thực hiện "3 tại chỗ" nên từ ngày 15-7, công ty cho toàn bộ CN tạm nghỉ việc và hưởng lương tối thiểu vùng. Từ ngày 1-8, công ty tạm ngưng HĐLĐ đối với số CN nghỉ việc không hưởng lương và đã làm thủ tục hưởng hỗ trợ [đợt 1] theo Nghị quyết 68/NQ-CP cho hơn 7.000 CN vào cuối tháng 7-2021.

Dù đã hoàn tất các thủ tục theo quy định nhưng hồ sơ của công ty đã 2 lần bị UBND huyện trả về. Lần một với lý do UBND TP HCM chưa ủy quyền cho chủ tịch UBND quận, huyện thực hiện quyết định phê duyệt danh sách và chi kinh phí cho NLĐ thuộc diện hỗ trợ nêu trên. Sau khi có ủy quyền của UBND TP HCM đối với UBND quận, huyện, ngày 14-9, công ty nộp hồ sơ lần 2 nhưng tiếp tục bị trả về với lý do chờ hướng dẫn của Sở LĐ-TB-XH thành phố.

Cơ quan chức năng lúng túng

Theo Cục Thống kê, TP HCM có khoảng 4,7 triệu lao động đang làm việc. Số liệu tổng hợp từ các quận, huyện và TP Thủ Đức cho thấy trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội, hơn 381.420 NLĐ phải tạm ngừng việc để phòng chống dịch.

Trong Văn bản số 30614/SLĐTBXH-LĐ gửi Bộ LĐ-TB-XH mới đây, Sở LĐ-TB-XH TP HCM đã nêu ra một số vướng mắc trong quá trình triển khai Nghị quyết 68/NQ-CP tại một số quận, huyện ở thành phố. Chẳng hạn, các quận 5, 6 và 10 đang băn khoăn trường hợp DN phải tạm dừng hoạt động theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền để phòng chống dịch Covid-19 [theo quy định tại điều 13, chương IV, Nghị quyết 68/NQ-CP] thì có cần phải có văn bản của cơ quan nhà nước yêu cầu tạm dừng đối với từng DN cụ thể không? Văn bản của cơ quan nào thì mới phù hợp với quy định? Trường hợp DN chỉ dừng một hoặc một số bộ phận thì có được hỗ trợ theo chính sách tạm hoãn HĐLĐ, nghỉ việc không hưởng lương không?

Trong khi đó, quận 10 và TP Thủ Đức thì lúng túng với trường hợp một số bộ phận NLĐ tạm nghỉ việc khi DN vẫn duy trì hoạt động theo phương án "3 tại chỗ", "1 cung đường - 2 điểm đến" thì có thuộc diện được hỗ trợ không? Ngoài ra, các quận, huyện khác cũng đề nghị hướng dẫn về việc DN có bắt buộc phải gửi bản sao và làm từng văn bản thỏa thuận tạm hoãn HĐLĐ, nghỉ việc không hưởng lương với mỗi NLĐ? Trường hợp DN có trụ sở chính tại TP HCM nhưng có chi nhánh tại các tỉnh khác thì có cần gửi hồ sơ NLĐ tại các chi nhánh đến UBND cấp huyện nơi đặt trụ sở chính không? Nếu các chi nhánh tạm dừng hoạt động theo yêu cầu của cơ quan chức năng ở các tỉnh nhưng trụ sở chính tại TP HCM vẫn hoạt động thì NLĐ có được hỗ trợ không?...

Những vướng mắc nêu trên vẫn đang chờ Bộ LĐ-TB-XH hướng dẫn. 

Nên có hướng dẫn rõ ràng

Theo Quyết định 23/2021/QĐ-TTg, tổng thời gian thực hiện quy trình xét duyệt hồ sơ của cơ quan chức năng là 6 ngày làm việc kể từ khi nhận được đề nghị từ DN. Trường hợp không phê duyệt, UBND cấp tỉnh phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.

"Quy định là vậy nhưng đến nay, chúng tôi vẫn chưa nhận được câu trả lời chính thức từ cơ quan chức năng nên không biết phải trả lời NLĐ thế nào. Tôi nghĩ nơi thực hiện chính sách nên rõ ràng, trách nhiệm với DN và NLĐ về việc có được hỗ trợ hay không, nếu có thì khi nào NLĐ nhận được hỗ trợ. Không nên để DN và NLĐ chờ trong vô vọng như hiện nay" - bà Nguyễn Thị Xuyến kiến nghị.

Chủ Đề