Rủi ro đối với ngân hàng tài trợ D/P kỳ hạn
(KTSG) – Việc các doanh nghiệp kinh doanh hạt điều Việt Nam ký hợp đồng xuất khẩu 100 container hạt điều sang Ý, trị giá hàng ngàn tỉ đồng, sau đó nghi bị lừa đảo gây rúng động cộng đồng doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong những ngày vừa qua… Thông tin trên báo chí(1) cho biết phương thức thanh toán mà các doanh nghiệp này lựa chọn là phương thức thanh toán nhờ thu (collection of payment). Đây là phương thức thanh toán mang đến nhiều rủi ro cho người bán, tuy nhiên, rất đáng tiếc nhiều doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam hiện nay vẫn lựa chọn phương thức thanh toán này. Biết rủi ro nhưng vẫn nhắm mắt làm liều? Phương thức thanh toán nhờ thu là một trong những phương thức thanh toán quốc tế theo đó người bán (doanh nghiệp xuất khẩu) xuất hàng và gửi bộ chứng từ thương mại, chứng từ tài chính nhờ ngân hàng thu tiền hộ. Có hai hình thức nhờ thu là: Thanh toán để nhận chứng từ (DP) (Documents against Payment) hoặc Chấp nhận thanh toán để nhận chứng từ (DA) (Documents against Acceptance). Đối với phương thức thanh toán DP, người mua (doanh nghiệp nhập khẩu) phải thanh toán tiền hàng cho ngân hàng nhờ thu trước khi nhận bộ chứng từ. Người mua có thể trả ngay hoặc thanh toán sau một thời gian cụ thể tùy theo thỏa thuận giữa người bán và người mua. Ngược lại, với phương thức thanh toán DA, người mua chỉ cần ký chấp nhận hối phiếu và sẽ thanh toán sau một thời gian cụ thể được quy định trong hợp đồng. Nhìn chung cả hai hình thức này đều tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Bỏ qua yếu tố lừa đảo, rủi ro lớn nhất mà các doanh nghiệp xuất khẩu phải gánh chịu là người mua từ chối nhận hàng. Sau khi hàng đến cảng nếu người mua bị phá sản hoặc giá cả mặt hàng đó trên thị trường giảm, người mua có thể sẽ từ chối nhận hàng. Khi đó, người bán buộc phải thuê phương tiện vận tải chở hàng về lại nước xuất khẩu hoặc tìm đối tác khác bán rẻ, bán đấu giá để thu hồi vốn. Việc thuê phương tiện vận tải chở hàng về nước không dễ dàng vì chi phí vận tải thường rất lớn. Tương tự, việc tìm đối tác để bán lại hàng hóa hoặc tổ chức bán đấu giá phải qua nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian và đương nhiên thiệt hại cũng không hề nhỏ.
Một rủi ro khác là nếu trong hợp đồng cho phép thanh toán chậm, người mua sẵn sàng ký chấp nhận thanh toán, chấp nhận hối phiếu để có bộ chứng từ đem đi nhận hàng nhưng chây ì hoặc từ chối nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn. Với bộ chứng từ trong tay, người mua có thể nhận hàng từ doanh nghiệp vận tải và toàn quyền định đoạt, sử dụng hàng hóa. Có thể trong hợp đồng thương mại các doanh nghiệp xuất khẩu đã có ràng buộc sẽ đưa các trường hợp tranh chấp như thế này ra trung tâm trọng tài quốc tế hoặc tòa án để phân xử. Tuy nhiên, với tiềm lực tài chính yếu, kinh nghiệm tranh chấp quốc tế không có thì những ràng buộc này cũng chỉ mang tính hình thức mà thôi. Câu chuyện ở đây là nhiều doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam được cảnh báo hoặc biết rõ những rủi ro khi chấp nhận phương thức thanh toán nhờ thu mà vẫn nhắm mắt làm liều? Có thể thấy vấn đề nằm ở chỗ họ được người mua mồi chài, chấp nhận trả giá cao hơn thị trường, điều kiện hợp đồng quy định về chất lượng sản phẩm dễ dãi. Cũng có thể doanh nghiệp xuất khẩu đang gặp khó khăn về đầu ra sản phẩm nên khi có người mua hàng thì họ nhanh chóng ký hợp đồng mà bỏ qua những rủi ro được cảnh báo về phương thức thanh toán này. Cũng không loại trừ người bán quá tin tưởng vào người mua hoặc không hiểu rõ, không lường trước được những rủi ro mà họ có thể gặp phải. Hãy tự bảo vệ mình trước khi trời cứu Một trong những phương thức thanh toán mà phần lớn các chuyên gia khuyên các doanh nghiệp xuất khẩu nên dùng khi giao dịch với các khách hàng lần đầu hoặc thiếu thông tin về doanh nghiệp nhập khẩu đó là… phương thức thanh toán bằng thư tín dụng (L/C). Đây là phương thức thanh toán an toàn, được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Sử dụng phương thức thanh toán này người bán được ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán khi xuất trình bộ chứng từ sạch, hợp lệ. Thông thường khi mở L/C người mua bắt buộc phải ký quỹ bằng 100% vốn tự có hoặc vốn vay nên nguồn vốn thanh toán sẽ được ngân hàng đảm bảo khi đến hạn. Nếu xét thấy ngân hàng người mua hoặc người mua chưa đủ uy tín, người bán có thể yêu cầu mở L/C ở một ngân hàng hạng nhất hoặc yêu cầu thư tín dụng không được hủy ngang (Irrevocable), được xác nhận (Confirmed). Nếu người mua không chấp nhận thanh toán theo phương thức L/C thì doanh nghiệp cũng nên dứt khoát không ký hợp đồng để loại trừ các rủi ro về sau. Bên cạnh đó, hiện nay các cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài đều có hệ thống tham tán thương mại. Ngoài việc hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước quảng bá sản phẩm, xúc tiến thương mại thì các cơ quan tham tán thương mại này sẽ là cánh tay nối dài giúp các doanh nghiệp trong nước kiểm tra thông tin các đối tác ở nước sở tại trước khi doanh nghiệp quyết định ký hợp đồng. Các doanh nghiệp xuất khẩu có thể đề nghị các cơ quan tham tán thương mại tìm kiến thông tin về giấy phép kinh doanh, năng lực tài chính, các vấn đề pháp lý của người mua… Đây là kênh thông tin hữu hiệu vì các cơ quan tham tán thương mại có đủ điều kiện để liên hệ các cơ quan chức năng của nước sở tại nắm bắt các thông tin cần thiết về doanh nghiệp nhập khẩu. Rất tiếc là hiện rất ít doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng kênh thông tin này. Nếu doanh nghiệp xuất khẩu đã tìm hiểu đầy đủ thông tin về người mua và vẫn quyết định chấp nhận phương thức thanh toán nhờ thu đổi chứng từ thì nên ràng buộc trong hợp đồng và yêu cầu người mua phải tạm ứng (down payment) tối thiểu 20-30% giá trị hợp đồng trước khi xuất hàng để đảm bảo người mua không từ chối nhận hàng hoặc nếu tình huống xấu nhất người mua từ chối nhận hàng hoặc chây ì, từ chối nghĩa vụ thanh toán thì doanh nghiệp cũng sẽ hạn chế được phần nào thiệt hại xảy ra. Một lưu ý nữa là các doanh nghiệp khi ký hợp đồng thương mại thường bỏ qua hoặc xem nhẹ điều khoản pháp lý khi xảy ra tranh chấp. Thông thường các doanh nghiệp nhập khẩu thường chọn tòa án hoặc trọng tài tại quốc gia của mình đóng trụ sở để đưa tranh chấp ra phân xử. Điều này sẽ khiến cho họ ít nhiều có lợi thế trong quá trình phân xử, trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam lại không có đủ tiềm lực tài chính và kiến thức pháp lý để theo đuổi vụ kiện. Tốt nhất là nên đàm phán các tranh chấp hợp đồng phải được phân xử ở Việt Nam, tuy rằng điều này khó thực hiện. Nếu không, hai bên có thể chọn một quốc gia/vùng lãnh thổ trung gian, thông thường là Singapore hoặc Hồng Kông là các quốc gia/vùng lãnh thổ lân cận Việt Nam để đưa các tranh chấp ra phân xử. Như vậy thì các doanh nghiệp Việt Nam mới có điều kiện theo đuổi các tranh chấp pháp lý. ————- (*) Viện Quản trị Kinh doanh – Đại học FPT
Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, một trong các phương thức thanh toán thông dụng được người mua-người bán thường xuyên sử dụng là phương thức nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Collection). Với phương thức này, ngân hàng chỉ có vai trò là trung gian thu hộ và có trách nhiệm xác định các chứng từ mình nhận được là đúng với chỉ thị nhờ thu và thông báo cho bên nhận không chậm chễ. Phương thức nhờ thu kèm chứng từ là gì? Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp cho khách hàng cả hai sản phẩm là nhờ thu nhập khẩu (vai trò Collecting Bank) và nhờ thu xuất khẩu (vai trò Remitting Bank). Đối với nhờ thu xuất khẩu, ngân hàng chuyển chứng từ tiếp nhận từ người xuất khẩu bộ chứng từ theo phương thức nhờ thu trả ngay (D/P - Documents against Payment), nhờ thu trả chậm (D/A - Documents against Acceptance), nhờ thu theo các điều kiện khác (D/OT - Documents against Other Terms); xử lý chứng từ và gửi đi đòi tiền theo chỉ thị của người xuất khẩu; thực hiện ghi có vào tài khoản của người xuất khẩu khi được ngân hàng nước ngoài thanh toán. Phương thức nhờ thu mà khách hàng ưu tiên sử dụng là phương thức nhờ thu trả ngay (D/P): Trong chỉ thị nhờ thu, ngân hàng chuyển chứng từ chỉ định ngân hàng thu hộ chỉ được phép giao bộ chứng từ giao hàng khi nhận được tiền thanh toán từ người nhập khẩu. [Vụ lừa 100 container hạt điều xuất khẩu: Khuyến nghị của luật sư Italy] Phương thức nhờ thu mà khách hàng ít ưu tiên hơn là phương thức nhờ thu trả chậm (D/A): Trong chỉ thị nhờ thu, ngân hàng chuyển chứng từ chỉ định ngân hàng thu hộ được phép giao bộ chứng từ giao hàng khi nhận được chấp nhận thanh toán vào ngày đến hạn từ người nhập khẩu. Phương thức nhờ thu theo các điều kiện khác (D/OT) rất ít được sử dụng: Trong chỉ thị nhờ thu, ngân hàng chuyển chứng từ chỉ định ngân hàng thu hộ được phép giao bộ chứng từ giao hàng khi người nhập khẩu đáp ứng một số điều kiện khác không liên quan đến thanh toán/chấp nhận thanh toán. Trong quá trình cung cấp dịch vụ cho khách hàng, các ngân hàng thường tham gia tư vấn từ giai đoạn ký kết hợp đồng, tư vấn lập bộ chứng từ nhằm giảm thiểu rủi ro, đồng hành với khách hàng cho đến khi khách hàng nhận được tiền thanh toán từ ngân hàng nước ngoài. Lợi ích và rủi ro đối với các bên khi sử dụng phương thức thanh toán nhờ thu? Người xuất khẩu: Người xuất khẩu chắc chắn rằng bộ chứng từ chỉ được giao cho người nhập khẩu sau khi Người nhập khẩu đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Ngoài ra, chi phí cho phương thức thanh toán nhờ thu sẽ thấp hơn phương thức thanh toán thư tín dụng. Tuy nhiên rủi ro có thể xảy ra là người nhập khẩu có thể không nhận hàng và không thanh toán bằng việc từ chối nhận chứng từ, khi đó người xuất khẩu sẽ phải tìm khách hàng khác để bán lại lô hàng, kể cả với giá thấp. Hoặc người nhập khẩu đã chấp nhận thanh toán nhưng lại không thanh toán vào ngày đến hạn. Người nhập khẩu: Người nhập khẩu chắc chắn sở hữu bộ chứng từ để đi nhận hàng ngay khi họ thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Ngoài ra, người nhập khẩu có quyền chủ động trong việc quyết định tại thời điểm đó họ có muốn nhận lô hàng hay không. Tuy nhiên, cho dù phương thức này có lợi hơn cho người nhập khẩu thì rủi ro vẫn có thể xảy ra là Người nhập khẩu không được kiểm tra hàng hóa trước khi thanh toán/chấp nhận thanh toán (rủi ro tương tự như đối với phương thức thư tín dụng). Ngoài ra phương thức thanh toán này cũng không loại trừ được trường hợp các bên tham gia cố tình gian lận, lừa đảo… Vai trò của ngân hàng Vai trò của ngân hàng trong phương thức nhờ thu là vai trò thứ yếu - chỉ là trung gian thu hộ, đây cũng chính là điểm mà người nhập khẩu-người xuất khẩu dè dặt trong việc lựa chọn phương thức thanh toán này. Theo Quy tắc thống nhất về nhờ thu của ICC URC 522: Ngân hàng chỉ có vai trò là trung gian thu hộ và có trách nhiệm xác định các chứng từ mình nhận được là đúng với chỉ thị nhờ thu và thông báo cho bên nhận không chậm chễ. Ngoài ra, ngân hàng không có trách nhiệm khác, bao gồm: Ngân hàng không có trách nhiệm đối với hàng hóa có liên quan đến giao dịch; việc lựa chọn dịch vụ của ngân hàng thu hộ (rủi ro thuộc về người xuất khẩu); tính chính xác, chân thực của bộ chứng từ giao hàng cũng như không chịu trách nhiệm về việc thất lạc, cắt xén, mất mát chứng từ đang vận chuyển trên đường. Như vậy, đối với phương thức thanh toán nhờ thu, ngân hàng không có trách nhiệm trong việc đảm bảo giao dịch được thanh toán hay hàng hóa là phù hợp với thỏa thuận giữa người mua-người bán. Trong trường hợp phát sinh rủi ro này, các bên cần khởi kiện lên tòa án hoặc trọng tài kinh tế… tùy vào thỏa thuận trong hợp đồng hoặc quy định của pháp luật. Những lưu ý khi sử dụng phương thức phương thức thanh toán nhờ thu? Nên áp dụng phương thức này trong trường hợp người nhập khẩu-người xuất khẩu là khách hàng tin tưởng, không nên áp dụng trong những giao dịch mua bán lần đầu. Trước khi ký kết hợp đồng mua bán, doanh nghiệp xuất khẩu cần chủ động tìm hiểu kỹ đối tác nhập khẩu qua nhiều kênh thông tin (Hiệp hội ngành hàng, Bộ Công thương, Đại sứ quán Việt Nam tại nước nhập khẩu, kinh nghiệm giao thương của các doanh nghiệp xuất khẩu khác…), không nên tin tưởng hoàn toàn vào người môi giới. Bên cạnh đó, tìm hiểu các quy định và tập quán giao nhận hàng hóa tại nước nhập khẩu để đảm bảo nắm được quyền kiểm soát hàng hóa. Cân nhắc sử dụng loại vận đơn phù hợp, nên sử dụng vận đơn lập theo lệnh, không nên sử dụng vận đơn đích danh hoặc vận đơn để trống vì trong trường hợp bộ chứng từ bị đánh tráo/thất lạc trên đường gửi đi và vận đơn là đích danh hoặc vận đơn để trống thì ai lấy được vận đơn cũng có thể đi nhận được hàng mà không ràng buộc trách nhiệm thanh toán/chấp nhận thanh toán./. Hạnh Dung (Vietnam+) |