Quê hương của nhà thơ là vùng biển nào của nước ta

a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề. b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận. c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng HS có thể có nhiều cách trình bày khác nhau nhưng cần đảm bảo yêu cầu sau: - Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận. - Chứng minh ý kiến: Ý 1: Quê hương là bức tranh về quê hương vùng biển, cảnh và người vùng biển. - Giới thiệu về quê hương làng chài. - Cảnh sinh hoạt và lao động của người dân làng chài. + Cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá: con thuyền, cánh buồm…->Bức tranh lao động đầy hứng khởi, khỏe khoắn, tràn đầy sức sống. + Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về: tấp nập, nhộn nhịp, niềm vui lời cảm tạ chân thành của người đi biển.. + Vẻ đẹp con người vùng biển: vừa chân thực vừa lãng mạn với tầm vóc phi thường… Ý 2: Tình yêu quê hương của nhà thơ đầy dư vị, ngân nga. - Tự hào về một làng quê miền biển… - Nỗi nhớ da diết, đằm sâu về cảnh và người vùng biển... - Nỗi nhớ bộc lộ trực tiếp: nhớ hương vị riêng của quê hương... Ý 3: Đánh giá: Với những hình ảnh thơ đẹp, lãng mạn, giọng điệu tươi vui, tha thiết nhẹ nhàng, cảm xúc trong trẻo, khỏe khoắn, bút pháp lãng mạn kết hợp với các BPTT đặc sắc: so sánh, nhân hóa… Bài thơ Quê hương được xem là một giọng điệu lạ trong phong trào thơ mới lãng mạn [so sánh cảm xúc trong thơ lãng mạn thường buồn bã, cô đơn, bế tắc..] => Thơ Tế Hanh không có màu sắc bi lụy buồn thương mà hồn hậu, trong trẻo thể hiện một tình yêu tha thiết nồng thắm về quê hương đất nước. d. Sáng tạo: Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ mới mẻ, sâu sắc về vấn đề nghị luận. e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

Quê hương luôn là đề tài không bao giờ cạn kiệt đối với các thi sĩ. Mỗi người có một cách nhìn, cách cảm nhận riêng, đặc trưng về quê hương của mình. Chúng ta bắt gặp những bài thơ viết về quê hương của Đỗ Trung Quân, Giang Nam, Tế Hanh. Trong đó sự nhẹ nhàng, mộc mạc của bài “Quê hương” tác giả Tế Hanh khiến người đọc xốn xang khi nhớ về nơi đã chôn rau cắt rốn, nơi nuôi dưỡng tâm hồn của mình.

“Quê hương” là hai tiếng thân thương, được tác giả dùng làm nhan đề của bài thơ. Mở đầu bài thơ bằng sự mộc mạc, chân thành mà sâu sắc:

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới

Nước bao vây cách biển nửa ngày sông

Hai câu thơ như một lời kể tâm tình rất đỗi bình dị nhưng đã khiến người đọc hình dung được mảnh đất mà tác giả đáng sống là một vùng một biển, làm nghề chài lưới. Một ngôi làng giản dị, chân chất. Hình ảnh “nước”, “biển” rất đặc trưng cho một vùng quê làng biển. Có lẽ những điều bình dị đó khiến cho tác giả vẫn luôn mong ngóng, nhớ nhung khi xa quê hương.

Những câu thơ tiếp theo gợi tả lên một khung cảnh tuyệt đẹp mỗi khi sáng mai thức dậy. Sự tinh tế của ngôn từ và cảm xúc khiến cho vần thơ trở nên trữ tình, tuyệt đẹp:

Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Một loạt từ ngữ mang tính chất liệt kê khung cảnh, không gian thanh bình, tươi đẹp của cảnh biển vào buổi sáng. “Gió nhẹ”, “sớm mai hồng” là những gì còn neo giữ trong lòng của tác giả khi nhớ về quê hương. Và một hoạt động vẫn diễn ra đầu ngày là “bơi thuyền đi đánh cá” được tác giả vẽ nên rất nhẹ nhàng nhưng khỏe khoắn.

Chiếc thuyền hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang

Nếu những câu thơ trên nhẹ nhàng, tinh tế bao nhiêu thì hai câu thơ này càng mạnh mẽ , quyết liệt và khỏe khoắn bao nhiêu. Với hai động từ “hăng”, “phăng” kết hợp với phép so sánh độc đáo khiến cho bức tranh đi đánh cá trở nên giàu chất tạo hình, giàu đường nét và giáu cá tính mạnh. Với động từ “phăng” đã phần nào gợi tả lên sự khéo léo kết hợp sự tinh tế và khỏe mạnh của những người dân vùng chài lưới.

Hai câu sau lại trở về với vẻ lãng mạn đến bất ngờ:

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

Một hình ảnh bình dị, thân quen như cánh buồm nhưng trong thơ của Tế Hanh lại có hồn, đậm chất thơ. Phép so sánh cánh buồn “như mảnh hồn làng” có sức gợi rất sâu sắc, bởi rằng đối với những người làm nghề chài lưới thì cánh buồm chính là biểu tượng cho cuộc sống của họ. Một sự so sánh hữu hình và vô hình đã làm nên sự sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời. Con thuyền đã mang theo cả tin yêu, hạnh phúc và hi vọng của những người dân nơi đây.

Câu thơ khỏe khoắn và tự nhiên đã phần nào làm toát lên được khí thế hào hùng trong công cuộc chinh phục biển khơi.

Tế Hanh đã miêu tả nên một bức tranh thiên nhiên và bức tranh lao động sáng tạo tuyệt vời nhất. Đó là niềm tự hào, sự ca ngợi quê hương, đất nước.

Đặc biệt, khung cảnh dân chài lưới chào đón thành quả sau một ngày căng thẳng vất vả được miêu tả chân thực và đầy niềm vui:

Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về

Nhờ ơn giời biển lặng cá đầy ghe

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng

Hình ảnh dân làng “ồn áo”, “tấp nập” đã phần nào tái hiện được không khí vui tươi và phấn khởi của người dân chài sau một ngày hoạt động hết công suất. Những con cá “tươi ngon” nằm im lìm là những thành quả mà họ đạt được.

Và có lẽ hình ảnh con người mạnh mẽ, khỏe khoắn là hình ảnh trung tâm không thể thiếu trong bức tranh ấy

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm

Hình ảnh thơ mặn mòi, đậm chất biển, vừa khỏe khoắn, vừa chân chất vừa mộc mạc toát lên được vẻ đẹp của những con người vùng biển quanh năm vất vả. Tế Hanh đã phát hiện ra vẻ đẹp tiềm ẩn đó như một điều bình dị trong cuộc sống này.

Và có lẽ những hình ảnh thân quen nơi làng quê ấy đã khiến cho Tế Hanh dù đi xa nhưng vẫn không thể nào quên, vẫn nhớ về đau đáu:

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước xanh cá bạc chiếc buồm vôi

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá.

Một khổ thơ dạt dào tình cảm, nghèn nghẹn ở trong trái tim tác giả khi nhớ về mảnh đất thân yêu một thời. Nỗi nhớ quê dạt dào không nguôi khi những hình ảnh thân quen ấy cứ ùa về.

Thật vậy bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh không chỉ là riêng tình cảm của tác giả giành cho quê hương; mà bài thơ này còn nói hộ rất nhiều tấm lòng khác đang ở xa quê hương. Chúng ta càng trân trọng hơn nữa mảnh đất chân rau cắt rốn, yêu hơn nữa những điều bình dị nhưng thiêng liêng.

Có lẽ mỗi người chúng ta ai sinh ra và lớn lên cũng đều có quê hương của riêng mình, đó là chốn thiêng liêng, là mái nhà ôm ấp, vỗ về ta trước bao sóng gió, phong ba cuộc đời. Chính vì vậy mà quê hương trở thành nguồn cảm hứng sáng tác của nhiều nghệ sĩ, là hình ảnh quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Viết về đề tài này, nhà thơ Tế Hanh đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc với tác phẩm cùng tên. Phân tích bài thơ Quê hương để thấy được vẻ đẹp của nơi “chôn nhau cắt rốn” và tình cảm của tác giả.

Trích bài thơ Quê hương của Tế Hanh

Tế Hanh bắt đầu sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ghi tên mình vào chặng cuối trong phong trào Thơ mới với những dòng thơ mang nhiều nỗi buồn cùng tình yêu quê hương đất nước tha thiết. Giai đoạn sau năm 1945, ông tiếp tục sáng tác phục vụ cho cách mạng và kháng chiến, bày tỏ bao niềm thương nỗi nhớ và khao khát đất nước sớm được thống nhất, Nam Bắc đoàn tụ một nhà. Được in trong tập Hoa niên [1945], Quê hương là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của người con núi Ấn sông Trà, thể hiện nỗi nhớ thương của tác giả đối với nơi mình được sinh ra.

Khi từ “quê hương” được cất lên, trong tâm trí của chúng ta có lẽ đâu đó là hình ảnh cây đa giếng nước, lũy tre đầu làng, những cánh đồng lúa bát ngát, mênh mông còn quê hương của Tế Hanh hiện lên là một làng chài ven biển nằm trên cù lao giữa bốn bề sông nước: 

“Làng tôi vốn làm nghề chài lưới:

Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.”

Mở đầu, nhà thơ đã nói đến quê hương mình “làng tôi” vô cùng tự nhiên và giản dị, cho biết người dân quê ông sống bằng nghề đánh cá truyền thống, cuộc đời gắn liền với tiếng sóng rì rào, với vị mặn của biển cả, xung quanh là một màu đại dương xanh ngát. Từ lời giới thiệu mộc mạc, không chút rườm rà, hoa mỹ này bức tranh làng quê miền biển và cảnh lao động của người dân chài từ từ mở ra trước mắt người đọc:

“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Không gian và thời gian được tác giả nhắc đến với “trời trong”, “gió nhẹ”, “sớm mai hồng”, một buổi sáng đẹp trời để “dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá”. Hình ảnh con người hiện lên đầy khỏe khoắn và năng động, họ bắt đầu công việc của mình với khí thế rộn ràng, sôi nổi.

Vẻ đẹp của chiếc thuyền đánh cá trên biển cả bao la

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.

Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…”

Qua các động từ mạnh “hăng”, “phăng”, “mạnh mẽ vượt” và hình ảnh so sánh “như con tuấn mã” ta thấy được tâm thế mạnh mẽ, khí thế căng tràn của chiếc thuyền ra khơi. Ở đây Tế hanh đã để phương tiện di chuyển này hiện lên với vẻ đẹp chủ động, 

như một con ngựa tốt, tiến về phía trước như không chịu bất kỳ sự cản trở nào, sẵn sàng kinh qua một trận chiến khốc liệt, vững vàng can trường trước sóng biển. Chiếc thuyền đánh cá đời thường qua mắt nhìn, lời thơ của tác giả đã trở nên thật hiên ngang, sục sôi nhiệt huyết. Từ trạng thái hào hùng này rất nhanh Tế Hanh đã đưa người đọc đến với vẻ đẹp thật hào hoa lãng mạn của hình ảnh cánh buồm:

“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…”

Qua hai câu thơ, tác giả đã làm rõ được tầm quan trọng của cánh buồm, có cánh buồm “chải gió” thì con thuyền mới có thể ra khơi làm việc, mang nguồn hải sản quý giá về nuôi sống dân làng. Cánh buồm còn đảm bảo được cho con thuyền hai chữ “bình an” trước bao sóng to gió lớn nơi biển cả mênh mông. Vốn là thứ hữu hình vô tri vô giác giờ đây qua sự liên tưởng của tác giả cánh buồm trở thành “mảnh hồn làng” – một sinh thể trừu tượng đầy lãng mạn. Nó là biểu tượng cho làng chài, những con người mưu sinh vùng biển, thấy cánh buồm như thấy niềm hy vọng, sự sống lớn lao, là nơi thâu góp và lưu giữ vẻ đẹp của miền xanh thẳm cùng tâm hồn, tình cảm của con người nơi đây. Cánh buồm chở bao tin yêu, niềm mong ngóng đợi chờ của những người mẹ, đứa con thơ ở nơi đất liền dành cho người chồng, người cha đang ngoài khơi xa vì vậy đằng sau nó còn là hình ảnh gia đình đoàn tụ, là động lực cho sự cố gắng làm việc và bình an trở về. Động từ “rướn” được sử dụng nhằm tô đậm tư thế kiêu hãnh, đầy tự tin và chủ động của con thuyền đồng thời vẽ ra hình ảnh làm chủ thiên nhiên, vững vàng trước biển cả của người đánh cá. Với bốn câu thơ, Tế Hanh đã mở ra trước mắt độc giả một khung cảnh tuyệt đẹp, tràn đầy sức sống, hứa hẹn một ngày ra khơi thắng lợi. Và như một trình tự bất biến, sau khoảng thời gian làm việc hăng say, chăm chỉ, con thuyền trở về:

“Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.

“Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe”,

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.”

Phân tích bài thơ Quê hương để thấy vẻ mặt rạng rỡ của người dân làng chài với thành quả có được

Đọc những câu thơ trên, ta dường như có chung niềm vui với người dân làng chài bởi thành quả họ có được sau một ngày dấn thân chinh phục biển cả. Trong lời cảm tạ trời đất đầy giản dị mộc mạc, ta thấy ở họ cái tinh thần quý báu của người Việt, luôn biết ơn và tin tưởng đấng siêu hình đã phù hộ cho họ được bữa no, áo ấm. Vẻ đẹp của họ được tác giả “thầm thương” và miêu tả kỹ trong khổ thơ tiếp theo:

“Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng,

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.”

Có thể nói rằng những vần thơ này của Tế Hanh vừa thực tế, vừa lãng mạn. Thực tế bởi “làn da ngăm rám nắng” của dân chài lưới, đó là cái nắng của biển khơi, nắng của những ngày sóng chưa bao giờ ngừng vỗ. Lãng mạn vì cái “vị xa xăm” họ để ngấm vào trong da thịt mình, đó là vị của biển cả, của muối, của gió, của tình cảm quê hương, gia đình đậm sâu. Hình ảnh người dân chài qua đây hiện lên thật khỏe khoắn, đặc trưng cho miền biển và đâu đó có cả chút thi vị. Gắn liền, đồng hành cùng con người trong cuộc đi xa, khi trở về nhà thơ không để quên con thuyền ở một nơi nào xa lạ. Theo tác giả, con thuyền cũng có linh hồn, cảm giác qua “mỏi”, “nằm”, “nghe”. Nó như một người dân lao động, biết tự cảm nhận cơ thể mình sau một ngày làm việc hăng say, cực nhọc. Tất cả những điều này đều được tái hiện qua ký ức êm đềm, đẹp đẽ của Tế Hanh để sau cùng người con xa quê này bộc lộ niềm thương nỗi nhớ da diết với quê hương mình:

“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”

Con người ta vốn dĩ được hình thành từ những điều ban sơ, chân thật nhất vì vậy mà nhớ thì nói nhớ, thương thì nói thương, ở đây nhà thơ của chúng ta cũng như vậy, không ngần ngại bộc bạch nỗi lòng của mình rằng ông luôn tưởng tượng, thương nhớ về quê hương. Qua một loạt các hình ảnh “màu nước xanh”, “cá bạc”, “chiếc buồm vôi” đủ để thấy được nỗi nhớ quê hương của tác giả chân thành và da diết đến chừng nào, để rồi cuối cùng phải thốt lên rằng “tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”. Mùi nồng mặn ở đây chính là mùi của cá tôm, của biển cả, mùi của cơn gió ngày đêm rì rào thổi, mùi của con người quê hương tác giả. Cái mùi đầy yêu thương ấy đã khắc sâu trong tâm trí nhà thơ và không thôi nồng nàn, vương vấn để ông mãi nhớ, mãi hướng về. 

Nhà thơ Tế Hanh khi còn trẻ

Không cầu kỳ, phô trương, Tế Hanh đã viết nên một tác phẩm hay với bao cảm xúc chân thành nhất. Phân tích bài thơ Quê hương, ta có cơ hội nhìn thấy hình ảnh tươi đẹp vùng biển, thấy được cái hồn thi vị của quê hương đất nước Việt Nam. 

Video liên quan

Chủ Đề