Nhân lễ nghĩa trí, tín có nghĩa là gì

       Khổng Tử giảng: “Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã”, ý nói rằng, người mà không giữ chữ tín thì không biết có thể thành người được không? Cũng có người nói, chữ tín là sinh mệnh thứ hai của con người. Câu nói này kỳ thực cũng rất có đạo lý.

         Sự ảnh hưởng của “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” với cơ thể con người

   Cổ nhân thường giảng về: “Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa”, ý nói thuận cơ trời không bằng được địa lợi, được địa lợi lại không bằng được lòng người. Sức khỏe của con người cũng là như vậy, nhân luân ngũ thường, bản tính và thói quen của con người ảnh hưởng rất lớn đến sự khỏe mạnh của thân thể. Trong tư tưởng “Trung dung” của mình, Khổng Tử có đưa ra “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” đều có liên hệ mật thiết với thân thể con người.

Nhân [nhân từ, nhân ái]: thuộc Mộc, đối ứng với lá gan.

Nghĩa [chính nghĩa]: thuộc Kim, đối ứng với phổi.

Lễ [lễ phép, lễ độ]: thuộc Hỏa, đối ứng với tim và máu.

Trí [trí tuệ, kiến thức]: thuộc Thủy, đối ứng với thận.

Tín [tin tưởng, chữ tín]: thuộc Thổ, đối ứng tỳ [lá lách] và vị [dạ dày].

     Trung y cổ đại cho rằng: Con người có thể sống trên đời chính là dựa vào: Thận [Tiên thiên chi bản, hay cũng nói thận là cái gốc của sự sống] và Tì vị là “hậu thiên chi bản”. Nói thận là “tiên thiên chi bản” tức là không cách nào có thể dùng thuốc để bồi bổ và chữa trị mà chỉ có thể dùng tiết chế sắc dục, thủ đức tu thân để bảo dưỡng. Cho nên, thận là phải dưỡng chứ chữa trị thì chỉ vô ích.

    Con người hiện đại tham dục vọng, sống buông thả phóng đãng, dùng thuốc để tu bổ thận là “bỏ gốc lấy ngọn,” “càng tu bổ càng trầm trọng.” Tỳ vị là “hậu thiên chi bản”, tất cả dinh dưỡng cần thiết của toàn thân thể đều là do tỳ vị chuyển hóa lương thực để nuôi dưỡng.

    Vì vậy, nếu ở phương diện dục vọng mà con người không tiết chế, háo sắc thì sẽ làm tổn thương đến “tiên thiên chi bản” – Thận. Khi thận [thuộc Thủy] đã thiếu thốn nước thì gan [thuộc Mộc] sẽ chết khô và tất cả tạng phủ trong cơ thể người sẽ bị suy kiệt.

     Nếu như con người không giữ được chữ tín thì “hậu thiên chi bản” là tỳ vị tất sẽ bị tổn thương trầm trọng. Nếu như thận và dạ dày đều bị tổn thương thì tính mạng của người này cũng không thể tồn tại lâu được. Con người nếu không “tín” thì sẽ không có “nghĩa”, nói chi đến lòng biết ơn? Khi ấy, họ sẽ đề phòng lẫn nhau, dẫn đến việc coi nhau như kẻ địch, quan hệ giữa người với người sẽ trở nên căng thẳng.

     Từ đó có thể suy rộng ra, nếu một quốc gia mà ở đó dâm loạn khắp nơi, loạn luân, không tin tưởng lẫn nhau, vô ơn vô nghĩa, đạo đức suy đồi thì thiên tai ắt sẽ không ngừng xảy đến, trăm dân lầm than, cơ cực. Do đó quốc gia cũng khó có thể giữ vững. Vì vậy, đề cao các giá trị “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” là một cách trực tiếp bảo vệ cho sinh mạng của mỗi người và mỗi một quốc gia.

         Người xưa coi trọng tín nghĩa như thế nào?

     Có một câu chuyện “Ba nghìn dặm không mất tín”, kể về hai người bạn gặp nhau vào khoảng đầu mùa xuân. Trước khi chia tay, chủ nhà hỏi người bạn của mình rằng, khi nào thì lại đến chơi. Người bạn kia hẹn vào tết Trung thu sẽ tới để hai người cùng uống rượu ngắm trăng.

    Đến tết Trung thu, chủ nhà mang rượu và thức ăn ra hoa viên sau nhà, không ăn không uống mà kiên trì ngồi chờ bạn mình đến.

    Đến lúc gần tới canh 3, chủ nhà nhìn thấy người bạn kia quả nhiên đi đến, nhưng chỉ đứng ngoài cửa hoa viên hỏi: “Hiện tại chưa qua canh 3 nên vẫn tính đang là ngày rằm chứ?”.

     Chủ nhà trả lời bạn: “Chưa qua, chưa qua, đương nhiên vẫn là rằm tháng tám rồi. Tôi biết rõ ngài nhất định sẽ đến, bởi vì trong trí nhớ của tôi thì ngài chưa thất tín với tôi bao giờ. Xin mời, mau vào cùng tôi uống rượu ngắm trăng”. Chủ nhà nói xong liền chạy lại cổng của hoa viên để mời bạn vào.

    Người bạn vội nói: “Xin ngài đừng qua đây! Vì gặp chuyện đặc biệt nên ta không thể gặp ngài đúng hẹn. Ta từng nghe có người nói, con người mà trút bỏ đi thân thể rồi thì chỉ trong tích tắc, nguyên thần có thể đi ngàn dặm đường. Cho nên, vào canh hai ta đã trút bỏ đi thân thể của mình để có thể đi ba nghìn dặm đến đây trước canh ba. Giờ ta đã ở đây rồi, xem ra lời ấy cũng không phải hư truyền. Ta với ngài giờ đã là Âm Dương cách biệt, nhưng dù sao thì ta cũng đã giữ được lời hứa với ngài”.

     Người bạn trong câu chuyện xưa này đã đặt chữ tín ở vị trí trọng yếu nhất, thậm chí còn cao hơn cả tính mạng của mình.

     Trong “Sử ký, Loan Bố liệt truyện” có ghi chép rằng: “Đắc thiên lượng hoàng kim, bất như đắc quý bố nhất nặc”, tức là được trăm lạng vàng cũng không bằng được một lời hứa của Quý Bố.

    Câu nói này liên quan đến câu chuyện: Thời Hán Sở phân tranh, Quý Bố là tùy tướng của Hạng Võ, là một người rất coi trọng chữ tín. Mỗi khi ông đã hứa hẹn với ai điều gì thì  không bao giờ ông để thất hứa. Cho nên người đời xem lời hứa của Quý Bố rất có giá trị, ví là quý hơn cả trăm nén vàng vậy. Người đời sau nói: “Lời hứa đáng giá ngàn vàng“, đều có ý chỉ lời hứa có giá trị vô cùng to lớn.

    Ngày nay lời hứa không đáng giá một đồng. Ngay cả hợp đồng lập ra cũng có hợp đồng giả, những thứ như công văn giả, văn bằng giả, giấy chứng nhận giả … ở khắp nơi đều có.

    Người xưa khi nói thường hay dùng từ “tín nghĩa”, lời một khi đã nói ra thì cả đời sẽ phải thực hiện. Ngày nay, chữ “tín nghĩa” thường được ghi thành “tín dự” [tín tâm và danh dự], chỉ khác nhau một chữ, nhưng ý nghĩa thì đã sai khác ngàn dặm. Đa số từ ấy ngày nay chỉ để thỏa mãn ham muốn cá nhân của mình chứ không hề nói tới đạo nghĩa.

    Nhân vật chính trong câu chuyện xưa, vì giữ lời hứa mà sẵn sàng trả giá bằng mạng sống của mình. Lời một khi nói ra thì có trời đất chứng giám, cho nên, đừng vì tùy hứng hứa rồi lỡ thất tín với người khác. Chúng ta cần phải noi gương người xưa, coi trọng chữ tín, như thế mới có thể khiến cho xã hội này trở nên tốt đẹp hơn.

An Hòa [dịch theo sự cho phép của tác giả]

Trong cuộc sống, Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín được xem là thước đo đạo đức cho mỗi con người. Đây là năm đức tính căn bản giúp phân định người lương tri và kẻ bại hoại. Vậy Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín được luận như thế nào trong Tử vi Ngũ hành? Và nó biểu thị những giá trị gì về nhân cách con người? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau. 

=>Xem thêm: Kim cương nhân tạo.

Vài điều về Ngũ thường Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín

Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín là năm đức tính của con người xét trên bình diện nhân phẩm, đạo đức. Chúng được gọi là Ngũ thường trong Tam cương Ngũ thường của luận thuyết Nho giáo.

Ngũ thường là năm điều thường có, hằng có ở bản thân mỗi con người. Nó được xem là những quy chuẩn về thước đo đạo đức, nhân cách mỗi cá nhân. 

Ngũ thường là bản quy chiếu để con người hướng thiện, rèn luyện bản thân, toàn tài và thiên lương. Nếu mất đi bất kỳ đặc tính nào, con người rất dễ lầm đường lạc lối. Thậm chí có thể trở thành kẻ bại hoại cho xã hội. 

Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín là Ngũ thường quy về quy chuẩn đạo đức con người

Ngũ thường Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín có sự tương ứng với Ngũ hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Việc đối chiếu này được tiến hành dựa trên ý nghĩa siêu hình của Ngũ hành. Bởi bản thân nó luôn mang tính chất gán ghép, biện luận cho vạn vật của vũ trụ. Đồng thời, giá trị Ngũ thường có sự tương đồng thú vị với Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa ,Thổ. 

=>Xem thêm: Nhẫn nam kim cương giá rẻ.

Ngũ thường Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín luận theo Ngũ hành

Thường Nhân ứng với hành Mộc

Trong Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín, thường Nhân là chủ của sự thanh tĩnh, thư thái, ung dung tự tại. Nhân đại diện cho đức tính bao dung, rộng lượng, nhân ái của con người. 

Hành Mộc được biểu trưng bởi những loài thảo mộc, cây cối xanh tốt. Mộc với cố định, không có sự di động hay cạnh tranh. Như loài tùng bách tươi tốt quanh năm, bất chấp sự khó khăn của thời tiết. 

Vì vậy, hành Mộc tương tự như thường Nhân của con người. Là biểu tượng cho nhân đức của những người lương thiện. Nó vừa bao dung, lại vừa vị tha. 

Thường Lễ ứng với hành Hỏa

Thường Lễ bao gồm tất cả những điều soi sáng, mang tính chất khuôn phép và lễ nghi. Nhằm tạo nên sự duy trì đẹp đẽ về việc tôn trọng, lưu hành, phát huy chân lý tốt đẹp. Lễ chú trọng đến ánh sáng và hình thức đặc trưng là Tế tự.

Hành Hỏa được biểu trưng bởi lửa, ánh sáng và những nguồn năng lượng mạnh mẽ. Tính ứng dụng lớn nhất của Hỏa đó là việc mang lại năng lượng và soi sáng mọi nơi. Theo phương diện Triết học, Hỏa cũng biểu thị cho sự tôn kính quỷ thần của con người. 

Thế nên, hành Hỏa được xem là tương đồng và đại diện cho thường Lễ của con người. 

Thường Lễ tương ứng hành Hỏa đề cao lễ nghi, khuôn phép

Thường Nghĩa ứng với hành Kim

Thường Nghĩa trong Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín là đại diện cho những thích ứng về nguyên tắc, lễ nghĩa. Đồng thời, Nghĩa cũng là công lý, những điều hằng cửu, cứng cỏi, không bất biến và phai sờn. 

Trong khi đó, hành Kim là đại diện cho vàng bạc, bạch kim và những thứ kim loại khác. Hành Kim luôn luôn giữ mãi vẻ rắn chắc, sáng bóng của mình. 

Do đó, các cổ nhân luôn xem hành Kim là đại diện cho thường Nghĩa. 

Thường Trí ứng với hành Thủy

Người xưa thường nói “Trí giả nhạo Thủy” [Bậc trí giả thích nước]. Điều này cho thấy người trí, sĩ không gì là không thấu triệt. Cũng như nước không đâu là không thông qua.

Bản chất của Thủy [nước] tương đồng với những đức tính của thường Trí. Thế nên, hành Thủy luôn đi đôi với đức Trí của con người. 

Thường Trí tương ứng hành Thủy, biểu thị cho sự thông suốt, thấu triệt

Thường Tín ứng với hành Thổ

Trong Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín, thường Tín là chữ uy, giữ trọng trách giá trị nhân phẩm con người. Điều này đúng với bản chất của Thổ là luôn bất biến, không sai chạy đi đâu. 

Thảo mộc dựa vào đất để sống và đất luôn thúc đẩy sinh diệt của cây cối. Như một chu trình tuần hoàn, trật tự và không sai lệch. Vì vậy nó lại càng tương đồng với thường Tín của con người.

Video liên quan

Chủ Đề