Hình tượng nhà thơ nhà nho trong thơ văn trung đại

Tìm trong kho báu - Chương liên quan

  • Thời Lý – Trần ở nước ta được xem là giai đoạn hưng thịnh của Phật giáo. Đó cũng là thời kỳ ra đời dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử với những tên tuổi lớn của văn học trung đại. Cùng tìm về cội nguồn những trung tâm Phật giáo, nơi phát tích dòng thiền và những nhóm phái văn học đặc sắc thời Trần…

  • Từ trước đến nay, nhiều nghiên cứu về văn học thời trung đại vẫn cho rằng Tao đàn nhị thập bát tú thời vua Lê Thánh Tông là hội thơ đầu tiên của nước ta. Trên thực tế, trước đó rất lâu, từ thời nhà Trần, đã có sự xuất hiện của một thi xã mang tên Bích Động do danh tướng Trần Quang Triều sáng lập nên. Chương trình hôm nay có những giải mã về thi xã với các thành viên đều là những danh nho, danh tướng thời vãn Trần…

  • Những góc nhìn cận cảnh vào di sản thơ văn của các hoàng đế triều Nguyễn – Đồng thời nối dài ra phong trào sáng tác ở làng xã cùng sự ra đời, phát triển của các văn hội trong xã hội phong kiến...

  • Văn học cung đình là bộ phận sáng tác văn học của vua, chúa, quý tộc, hoàng thân quốc thích, cung nữ, xuất hiện trong không gian cung đình mang đậm nhân sinh quan, thế giới quan của triều đình đương thời. Đây cũng là dòng trung tâm chủ lưu của văn học Việt Nam thời trung đại. Trong quãng thời gian mười thế kỷ, văn học trung đại đã ghi dấu ấn một nền khoa bảng bề thế. Nhiều tác giả danh tiếng đồng thời là những danh nho đỗ đạt cao ra giúp nước, giúp đời. Qua từng triều đại, cùng với các vị hoàng đế, các vị danh nho này góp phần gây dựng phong trào sáng tác và xướng họa thơ văn trong cung đình. Chương trình hôm nay nhận diện một số đặc điểm của dòng văn học chủ lưu này của giai đoạn trung đại…

  • Danh sĩ Đỗ Nhuận sinh năm 1446, người xã Kim Hoa, huyện Kim Hoa, thừa tuyên Kinh Bắc, nay thuộc thôn Bạch Đa, xã Kim Hoa [Mê Linh - Hà Nội]. Theo các tư liệu lịch sử, ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình như: Đông các Hiệu thư, Hàn lâm viện Thị độc, Thượng thư, Đông các đại học sĩ. Năm 1495, vua Lê Thánh Tông sáng lập Hội Tao đàn Nhị thập bát tú, Đỗ Nhuận và Thân Nhân Trung được phong làm Phó nguyên soái, mời dự các buổi bình thơ của vua. Đánh giá về Danh sĩ Đỗ Nhuận, nhà sử học Phan Huy Chú xếp ông là một trong mười tám người phò tá có công lao, tài đức thời Lê sơ. Nhóm sử quan biên soạn “Đại Nam nhất thống chí” ghi nhận Đỗ Nhuận là một trong những nhân vật tiêu biểu dưới thời Lê của tỉnh Bắc Ninh xưa…

  • Tao đàn nhị thập bát tú vốn xưa nay vẫn được dùng để chỉ hội thơ của Lê Thánh Tông mà ông là Nguyên súy hay Hội chủ. Trong chương trình, cùng đi vào chính sử để giải mã hoạt động và sức ảnh hưởng của hội nhóm thi ca mang tính chất cung đình dưới một triều đại thịnh trị bậc nhất trong lịch sử phong kiến nước ta …

  • Giai đoạn Trung đại đã cống hiến cho nền văn học dân tộc nhiều tác gia lớn, nhiều tác phẩm có giá trị, bên cạnh đó là sự xuất hiện phát triển của các nhóm tác giả, các tao đàn mà dấu ấn còn lưu lại sâu đậm tới hôm nay. Cùng đi vào tìm hiểu Tao đàn Nhị thấp bát tú thời Hồng Đức với vị Nguyên soái lừng lẫy Lê Thánh Tông…

  • Thời kỳ làm Tổng binh xứ Hưng Hóa, một vùng đất kéo dài từ Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Sơn La đến Hòa Bình ngày nay, Nguyễn Gia Thiều thường tranh thủ từ vùng núi rừng hiểm trở về nhà riêng ở gần hồ Tây để sáng tác và đàm đạo cùng anh em, bạn hữu. Tương truyền, ông có đến mười một em trai, hai mươi em gái, trong đó có bốn người em trai cùng chung niềm say mê với thơ ca. Ông cùng các em lập nên Tao đàn Tứ Trai. Thi đàn gia đình gồm Nguyễn Gia Thiều tên hiệu là Tâm Thi Viện Tử được tôn là Thi Nguyên. Bốn người em trai là Kỳ Trai Nguyễn Gia Cơ, Hòa Trai Nguyễn Gia Diễm, Mục Trai Nguyễn Gia Xuyến, Thanh Trai Nguyễn Gia Tuyên lấy tên hiệu lần lượt là Thi Đề, Thi Xích, Thi Cầm, Thi Thược.

  • Khi nhà Tây Sơn lên cầm quyền, vua Quang Trung – Nguyễn Huệ nhờ quyết sách trọng dụng hiền tài, kể cả những quan lại dưới triều vua Lê – Chúa Trịnh nên đã chinh phục được nhân sĩ, thức giả Bắc Hà, vốn trước đó có cái nhìn ít nhiều thiếu thiện cảm. Cũng từ đây, dưới ánh sáng của một triều đại mới, các tác phẩm văn học phong phú về thể loại như thơ phú chữ Hán, chữ Nôm, Văn tế, Hịch, Tiểu thuyết lịch sử, Chiếu, Biểu... đã ra đời và ghi dấu ấn trong dòng văn học của dân tộc.

  • Cuối thế kỷ 18, thời kỳ gắn với những biến động lịch sử, sự tồn tại song song của nhiều chính thể, văn học vẫn không ngừng phát triển. Nhiều tác giả lỗi lạc xuất hiện trong giai đoạn này với những di sản thơ văn giá trị. Trong đó, có thể khẳng định dưới triều Tây Sơn, tồn tại từ năm 1771 đến năm 1801, văn học nghệ thuật có sự phát triển nở rộ. Dù sau này triều Nguyễn đã mạnh tay xóa bỏ ảnh hưởng của nhà Tây Sơn trong xã hội nhưng qua những sưu tầm, khám phá, tìm lại khẳng định thời kỳ Tây Sơn có những cống hiến quan trọng cho nền văn học dân tộc …

  • Từ trước đến nay, tác phẩm Phan Trần vẫn được xem như là một truyện thơ khuyết danh được dự đoán ra đời đầu thế kỷ 19. Cho đến gần đây, nhiều nhà nghiên cứu vào cuộc và cho rằng truyện thơ lấy bối cảnh đời nhà Tống ở Trung Quốc thực chất là sáng tác chính danh và tác giả chính lànNhà thơ, danh sĩ Nguyễn Huy Lượng. Những diễn giả của tác giả Đoàn Xuân Kiên làm rõ điều đó…

  • Vốn đỗ đạt rồi ra làm quan tại thời Vua Lê, Chúa Trịnh; dưới triều Tây Sơn, Nguyễn Huy Lượng vẫn được tin dùng giữ chức quan Hữu thị lang Bộ Hộ, lo việc lao động sản xuất, thuế khóa. Từ bé đã nổi tiếng thần đồng, khi trưởng thành thông hiểu ngân sách, Nguyễn Huy Lượng để lại cho đời sau những tác phẩm giá trị. Bên cạnh 100 bài thơ cung oán, Nhà thơ, Danh sỹ Nguyễn Huy Lượng còn nổi tiếng với bài phú ca tụng hồ Tây gồm 86 liên, độc vận. Dụng ý của tác giả là mượn cảnh Tây Hồ để tán tụng sự nghiệp và công đức của nhà Tây Sơn. Cũng từ bài phú này đã khơi mào cuộc bút chiến nổi tiếng giữa hai danh sỹ, nhà thơ Nguyễn Huy Lượng với Phạm Thái. Khi đọc được “Tụng Tây Hồ phú” của Nguyễn Huy Lượng, Danh sĩ Phạm Hồng Thái đã viết một bài phú hoạ lại [cùng số câu, cùng vần], gọi là “Chiến tụng Tây Hồ”. Tác phẩm vừa hoạ lại, vừa đả kích những nội dung trong bài phú của Nguyễn Huy Lượng. Hai bên đối lập, một bên là phù Tây Sơn, một bên thuộc phái phù Lê chống Tây Sơn. Tuy vậy, qua thời gian không thể phủ nhận được giá trị nghệ thuật thể hiện trong bài phú ca tụng Hồ Tây của Nguyễn Huy Lượng…

  • Buổi giao thời, cũng như nhiều nhà nho, nhà thơ thất cơ lỡ vận, thơ Xuân của Tú Xương không còn đơn thuần vịnh cảnh, bày tỏ cảm xúc của người tài tử văn nhân trước sự chuyển giao của đất trời. Tết, Xuân, năm mới trong thơ Nôm Tú Xương như một bức phông nền mà cảnh tượng cá nhân, con người và xã hội được vẽ ra bằng một ngòi bút đại tài. Cùng ngẫm lại những bài thơ và câu đối ngày xuân của bậc thần thơ thánh chữ đất Thành Nam…

  • Ngay từ khi mới ra đời, những tác phẩm thơ văn yêu nước của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã có tác động sâu sắc tới quảng đại quần chúng. Trải qua bao biến cố, thời gian, giá trị thơ văn của cụ Đồ Chiểu luôn được đón nhận và phát triển trong nhân gian. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng là lá cờ đầu của văn học chống chủ nghĩa thực dân, không chỉ của Việt Nam mà của thế giới. Hơn thế, tác giả của truyện thơ “Lục Vân Tiên”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” còn thể hiện tầm vóc, tư duy của một tác giả tiên phong, đi trước thời đại…

  • Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu vốn là một nhà nho giàu lòng yêu nước, nhưng vì hoàn cảnh mù lòa mà không thể phất cờ khởi nghĩa như các bậc anh hào: Trương Định, Phan Công Tòng, Thủ khoa Huân. Dẫu vậy, cũng như Nhà yêu nước Phan Văn Trị, bằng tài năng sáng tác thơ văn, cụ Đồ Chiểu đã thành công trong việc biến ngòi bút thành vũ khí chiến đấu sắc bén để phụng sự lý tưởng giải phóng dân tộc…

  • Nói về thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ Xuân Diệu ngợi ca: “Ngôn ngữ trong thơ ông “là thứ ngôn ngữ bình dân, chân thực, thông dụng, thực tế, có cái vị thơm, cái hương lành của cây trái Nam Bộ – cái hương vị văn miền Nam”. Giáo sư Lê Trí Viễn nhận định Nguyễn Đình Chiểu vừa là “thầy học giữa làng” vừa là “thầy lang cuối xóm”. Trong ông, có “ba con người trí thức”. Đó là “thầy thuốc, thầy giáo, và nhà thơ”. Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng nhiều câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu không cần gọt giũa mà vẫn nói được nhiều điều đơn giản, thẳng thắn, có khi “còn nguyên thuỷ của người Nam Bộ”. Theo Nhà Phê bình Lê Xuân – Người dành nhiều thời gian, công sức để nghiên cứu và khám phá vẻ đẹp của văn hóa - văn nghệ dân gian Nam bộ thì sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với vận mệnh đất nước và nhân dân Nam Bộ trong một giai đoạn lịch sử đầy bi tráng.

  • Sinh thời, Nhà Cách mạng, Giáo sư Trần Văn Giàu từng nhận định: “Sở dĩ người Việt Nam ở miền Nam thích truyện “Lục Vân Tiên” trước hết là vì họ thấy mình trong các nhân vật tích cực được ca tụng trong truyện, y như Nguyễn Đình Chiểu nói về họ. Có gì thích thú hơn là đọc truyện mà thấy chính mình trong truyện?”. Truyện thơ tiêu biểu của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu có một vị trí đặc biệt trong tâm thức tiếp nhận của công chúng, độc giả Nam bộ. Tác giả Đăng Huỳnh, khi nghiên cứu về tầm ảnh hưởng, sức lan tỏa của “Lục Vân Tiên” ở phương Nam đã đi vào cụ thể các câu đố, ca dao, tục ngữ, dân nhạc lấy cảm hứng từ tác phẩm này…

  • Cùng là những tác phẩm phổ biến và có tầm ảnh hưởng trong tâm thức dân gian, nếu “Truyện Kiều” của Đại thi hào Nguyễn Du được ca tụng là kiệt tác hàng đầu của văn học dân tộc ở mọi thời đại thì truyện thơ “Lục Vân Tiên” của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu từ đầu thế kỷ 20 đã được dân vùng lục tỉnh miền Nam hết sức tâm đắc và ưa chuộng. Sức sống, tinh thần của Lục Vân Tiên đến nay đã trở thành biểu tượng cho quan niệm sống “Giữa đàng thấy chuyện bất bình chẳng tha” của người Nam bộ. Và theo nhà thơ Lê Minh Quốc, tính cách nghĩa hiệp ấy trở thành lẽ sống, tinh thần phụng sự bất vụ lợi: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn” và đã trở thành triết lý sống, di sản văn hóa của người Việt Nam.

  • Sinh thời, nhà thơ, nhà yêu nước Nguyễn Đình Chiểu và bạn đời – Bà Lê Thị Điền có tất cả 6 người con: 3 người con trai và 3 người con gái. Trong đó, nữ sĩ Sương Nguyệt Anh [người con thứ tư] và Nguyễn Đình Chiêm [người con thứ năm] đều là người có tiếng trong giới văn nghệ. Nếu như Nguyễn Đình Chiêm, còn gọi là thầy Bảy Chiêm ngoài sáng tác và dịch thơ còn là tác giả các vở tuồng hát hội: “Phong ba đình”, “Phấn trang lâu” có giá trị văn chương thì người chị Sương Nguyệt Anh là một trang nữ lưu được người đương thời trọng vọng. Sách “Nam Kỳ cố sự” của tác giả Nguyễn Hữu Hiếu có phần viết về người con gái tài sắc của cụ Đồ Chiểu…

  • Cảm kích tài năng và đức độ của người thầy mù lòa, học trò Lê Tăng Quýnh đã se duyên Nguyễn Đình Chiểu [còn gọi là Đồ Chiểu] cho người em gái là Lê Thị Điền. Bà Lê Thị Điền là người rất mực yêu chồng, vừa đảm đang việc nhà, nuôi sáu con thơ, vừa giúp chồng đắc lực. Bà không chỉ mài mực, xếp giấy cho chồng mà còn tự tay ghi chép những áng văn bất tử do chồng sáng tác…

  • Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu xuất thân trong một nhà nho gốc Huế, thi đỗ Tú Tài năm 1843. Sáu năm sau, đang ở Huế chờ khoa thi hội được tin mẹ mất ông về chịu tang. Vì khóc thương mẹ nên hai mắt bị mù. Mãn tang mẹ, Nguyễn Đình Chiểu mở trường dạy học làm thuốc và sáng tác thơ văn. Năm 1859 khi giặc Pháp chiếm thành Gia Định, ông về quê vợ ở Cần Giuộc. Sau khi Cần Giuộc bị Pháp chiếm, ông về sống tại Ba Chi. Tại đây, trước mọi thủ đoạn mua chuộc, ông vẫn cương quyết không hợp tác với giặc tiếp tục dùng thơ văn làm vũ khí góp phần động viên, cổ vũ nhân dân chống giặc. Những tác phẩm chính của Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu bằng chữ Nôm như: truyện thơ Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư tiều y thuật vấn đáp; các bài thơ: Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn miếu Trương Định, … Cùng điểm lại những đóng góp cho văn học dân tộc thông qua các thành tựu trong sáng tác của một tác giả yêu nước, người được xưng tụng là bậc tôn sư của đất phương Nam.

  • Thời Lê trung hưng ghi đậm dấu ấn của nhiều danh nhân đỗ đạt cao, được phong nhiều chức tước quan trọng trong triều đình và để lại nhiều trước tác thơ ca có giá trị. Trong đó phải kể đến Phùng Khắc Khoan-người đã trải qua nhiều chức vụ như Tả thị lang bộ công, Thượng thư bộ công, Thượng thư bộ hộ để lại bốn tập thơ chữ Hán có giá trị. Về sáng tác thơ Nôm thời kỳ này nổi lên tài năng của Nguyễn Văn Giai. Ông thi đỗ Tam nguyên Hoàng giáp, từng giữ chức Tể tướng, tước Thái bảo, Quận công đời vua Lê Kính Tông. Nếu làm quan nổi tiếng thanh liêm thì khi sáng tác thơ Nôm, Nguyễn Văn Giai có cái cười trào tiếu và triết lý thâm thuý về mọi sự ở đời. Tuy số lượng trước tác để lại không nhiều nhưng ông cũng cho thấy một phong cách nhà nho tài tử độc đáo.

  • “Sãi vãi” là truyện thơ Nôm với độ dài 340 liên [tức 640 câu] được Nguyễn Cư Trinh viết vào năm Canh Ngọ [1750], khi ông bắt đầu nhậm chức Tuần vũ Quảng Ngãi. Thông qua cuộc đối thoại giữa hai nhân vật ông Sãi và bà Vãi nơi cửa Chùa, tác phẩm khuyên răn quan quân, động viên binh sĩ, phủ dụ dân miền Thượng, một cách văn trị của vị Tuần vũ mới. Cũng qua “Sãi vãi”, danh tướng Nguyễn Cư Trinh cho thấy cái nhìn đối với Phật giáo, đồng thời đề cao Nho giáo, châm biếm tà đạo, răn giới tầng lớp Nho sĩ về đạo lý “tu, tề, trị, bình” trong hoàn cảnh chế độ phong kiến ở Đàng trong đã suy vi, mục nát…

  • Dòng thơ Nôm của dân tộc ta đã ghi nhận nhiều tác giả tên tuổi vốn xuất thân khoa cử ra làm quan, có những công trạng lớn lao trong kế sách củng cố vị thế của các triều đại phong kiến. Danh tướng Nguyễn Cư Trinh là một trong số đó. Chương trình “Tìm trong kho báu” hôm nay tìm về với dấu ấn cuộc đời và sáng tác của vị tướng trấn giữ biên cương từng góp phần to lớn trong công cuộc Nam tiến của các Chúa Nguyễn…

  • Sách Thiền sư Việt Nam chép rằng, Thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt, hiệu Liên Hoa là nhà sư đầu tiên ở miền Nam được phong Quốc sư. Vào những năm cuối đời vì muốn trốn tránh tấm tình của công chúa Ngọc Anh, ông đã từ kinh đô Huế về sống và tu tập ở ngôi chùa này. Nhưng rồi cuối cùng, Thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt vẫn phải chịu một kết cục bi thương từ nghiệp duyên này…

  • Bên cạnh câu chuyện hàng phục yêu ma của Hương Hải thiền sư, chương trình này tìm lại di sản sáng tác Quốc âm của Chân Nguyên thiền sư và dấu ấn thơ Nôm Phật giáo triều Nguyễn...

  • Sau thời thuộc Minh, Phật giáo nước ta dần dần chuyển hoá và từng bước phát triển theo chiều rộng, tông phái đứt đoạn nhưng cội rễ thêm sâu trong lòng văn hoá dân tộc. Tuy dưới triều Lê sơ, Nho giáo thịnh trị nhưng Phật giáo vẫn chiếm vị trí cao trong văn đàn. Các tác giả vẫn ưa sáng tác thơ ca mang hơi hướng nhà Phật và được công chúng đón nhận. Chương trình này phác họa về thơ Quốc âm triều Lê, và đi sâu vào tìm hiểu về những sáng tác thơ Nôm của tác giả Hương Hải thiền sư…

  • Mười thế kỷ của văn học trung đại đã trải dấu ấn của nhiều đề tài, phong cách sáng tác làm nên kho báu di sản đồ sộ, đáng tự hào của dân tộc ta. Riêng với dòng thơ Nôm đã manh nha từ thời Lý rồi phát triển ở thời Trần đã ghi nhận các tác giả lớn như Phật hoàng Trần Nhân Tông, Thiền sư Huyền Quang – Lý Đạo Tái. Từ đó, hình thành nên dòng thơ Nôm của các Thiền sư, của người tu hành thông qua các bài phú, bài kệ, những bài thơ Đường luật Quốc âm. Chương trình “Tìm trong kho báu” hôm nay lật giở lại ngọn nguồn của dòng thơ Nôm thiền sư với những giá trị độc đáo…

  • Ngay từ buổi sơ khai, một trong những nội dung quan trọng của thơ ca Quốc âm là răn dạy về đạo lý làm người. Phương thức dạy con qua thơ ca Quốc âm tiếp nối qua nhiều thế hệ nhà nho thời trung đại. Các tác gia văn học như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và sau này là nhà thơ Nguyễn Khuyến đứng trên vai trò người cha, người trụ cột trong gia đình đều có những áng thơ Nôm truyền dạy về kinh nghiệm làm người, quan niệm về lối sống, lối ứng xử trong cuộc sống. Cùng tìm hiểu nội dung răn dạy về đạo làm người cho thế hệ con cháu qua các sáng tác thơ Nôm tiêu biểu của các nhà nho: Mạc Đĩnh Chi [tác phẩm Giáo tử phủ], Ngô Phúc Lâm [tác phẩm Huấn tử thi]…

  • Diện mạo thơ Nôm thời Lê Trung Hưng là sự kết hợp của các tác giả, tác phẩm ở cả đàng trong và đàng ngoài. Thơ Nôm thời Lê Trung Hưng ghi đậm dấu ấn của các tên tuổi lớn như Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Huy Tự với việc diễn Nôm và sáng tác quốc âm đặc sắc; truyền thống sáng tác qua các đời Chúa Trịnh và các danh thần như Nguyễn Quý Đức, Phùng Khắc Khoan, Mạc Thiên Tích… Cùng điểm lại những phong cách, dấu ấn làm nên diện mạo của một giai đoạn lịch sử nhiều biến cố…

  • Nhà thơ Lê Quý Đôn [1726–1784], tên thuở nhỏ là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường là vị quan thời Lê Trung Hưng. Ông còn được mệnh danh là “nhà bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến”. Ngoài sự nghiệp chính trị, Lê Quý Đôn còn để lại cho đời sau một di sản tinh thần vô cùng quý giá, bao gồm gần 40 bộ sách mà nội dung đề cập đến hầu hết mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, triết học, lịch sử, địa lý, ngôn ngữ, văn học… Về sáng tác thơ ca, ông để lại tập thơ chữ Hán “Quế Đường thi tập” và một số sáng tác bằng chữ Nôm. Những sáng tác thơ Nôm của ông tuy còn lại không nhiều nhưng đã thể hiện được tài sử dụng ngôn ngữ cũng như thổi hồn vào câu chữ: Rắn đầu rắn cổ, Lấy chồng cho đáng tấm chồng, Mẹ ơi con muốn lấy chồng, Mẹ khuyên con lúc về nhà chồng…

  • Trương Quỳnh Như là con gái của Kiến Xuyên Hầu Trương Đăng Quỹ. Sinh trưởng trong gia đình nhà nho, coi trọng giáo dục và thơ phú, bản thân Trương Quỳnh Như cũng sớm biểu lộ tài năng và khí chất hơn người. Qua những sáng tác thơ Nôm của Danh sĩ - Nhà thơ Phạm Thái, đặc biệt ở tác phẩm truyện thơ “Sơ kính tân trang”của ông, thân thế và tài năng của Trương Quỳnh Như trong dòng thơ Nôm cũng đã phần nào hé lộ. Điều này thể hiện rõ nét hơn trong những sáng tác thơ Nôm giàu cảm xúc nhưng lời lẽ ý tứ vẫn rất mực đoan trang của Trương Quỳnh Như...

  • Trong 10 thế kỷ văn học trung đại, dòng sáng tác bằng Quốc âm có những chỗ đứng và giá trị riêng. Cùng với các thể văn vần sơ khai, phú Nôm, thơ Nôm “Hàn luật”, diễn ca lịch sử, ngâm khúc, truyện Nôm, thơ Nôm Đường luật thì Văn tế Nôm cũng có những sự phát triển về nội dung, hình thức nghệ thuật. Chương trình hôm nay đi sâu vào những dấu ấn của thể loại Văn tế Nôm qua phân tích và dẫn chứng các sáng tác tiêu biểu…

  • Sáng tác biểu hiện phần nào xuất xứ, bản lĩnh, hành trình cuộc đời của tác giả - những điều này hoàn toàn trùng khớp với nhà thơ – danh sĩ Phạm Thái. Những dấu ấn trong sáng tạo của ông đều bắt nguồn từ thân thế, tính cách và cảm xúc của chính bản thân tác giả. Chương trình hôm nay, chúng tôi phác thảo chân dung nhà thơ Phạm Thái qua một số tác phẩm tiêu biểu của ông như: Sơ kính tân trang, Chiến tụng Tây Hồ phú.

  • - Tiếp tục lần giở các sáng tạo trong nội dung nghệ thuật của tác phẩm viết bằng quốc âm của nhà thơ - Danh sĩ Phạm Thái. Bên cạnh việc phân tích những bài thơ nôm viết tặng Trương Quỳnh Như. Chương trình hôm nay sẽ đi vào nghệ thuật kết hợp các thể loại trong truyện thơ "Sơ kính tân trang". Xuất thân trong gia đình võ tướng Thời Lê Trung Hưng cùng với sự xoay vần của lịch sử, cuộc đời nhà thơ - danh sĩ Phạm Thái trải qua nhiều thăng trầm, biến cố trên hành trình phù Lê chống lại Tây Sơn. Mối tình với Trương Quỳnh Như một thục nữ tâm hồn đa cảm có tài thơ phú là ngọn nguồn để Phạm Thái sáng tác nhiều áng thơ Nôm, còn lại đến ngày nay phải kể đến những bài thơ lẻ viết để tỏ tình cùng với truyện thơ "Sơ kính tân trang". Đi vào cụ thể những sáng tác quốc âm Phạm Thái viết cho Trương Quỳnh Như đã làm sáng tỏ phần nào tâm sự, cốt cách, con người tác giả vốn được đánh giá là tài hoa, ngang tàng. - Trích đoạn tiểu thuyết dã sử “Tiêu sơn tráng sĩ” của nhà văn Khái Hưng-Thành viên nhóm Tự Lực Văn Đoàn hòa lại đường nét chân dung của nhà thơ - danh sĩ Phạm Thái.

  • Phạm Thái là một danh sĩ nổi tiếng có tài thơ văn và có chí lớn. Ông còn có hai tên khác là Phạm Đan Phượng, Phạm Phượng Sinh. Ông sinh ngày 19 tháng Giêng năm Đinh Dậu, tức ngày 26 tháng Hai năm 1777 tại làng Yên Thị, xã Yên Thường, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Những năm vừa mới đôi mươi, Phạm Thái đã có những câu thơ tự trào đậm phong thái nhà nho tài tử. Thực tế vốn là hậu duệ công thần nhà Lê Trung Hưng, cuộc đời Phạm Thái trải qua nhiều thăng trầm biến cố và trên những bước đường thiên lý nhân duyên và tiền định, những áng thơ Nôm, truyện thơ Nôm Phạm Thái ra đời - những áng thơ Nôm khác biệt và độc đáo mà truyện thơ Nôm “Sơ kính tân trang” là thành quả, là biểu hiện đậm nét nhất…

  • Điểm nổi bật, thế mạnh và cũng là chức năng chính của thơ trào phúng nói chung là bật lên tiếng cười từ câu chữ và câu chuyện. Ở thơ trào phúng Tú Xương, ông lấy cả bi kịch mình ra để cười nên ta thấy mảng thơ viết về cá nhân nhà thơ là đa dạng nhất về giọng, ngoài giọng chung của bi kịch như ngậm ngùi, xót xa, đau đớn, cay đắng, còn là các cung bậc của hài kịch, tiếng cười đùa bỡn, chế giễu, châm biếm, mỉa mai… Tiếng cười hiển hiện trên câu chữ cũng đi sâu vào một trong những nguyên do, bản chất tạo nên phong cách trào phúng Tú Xương – đồng thời giải mã một số giai thoại về ông Tú thành Nam…

  • Mang tâm trạng của kẻ sĩ “Tài cao, phận thấp, chí khí uất”, nhà thơ Tú Xương đã sáng tác những áng thơ Nôm giàu màu sắc hiện thực, phản ánh cái tôi cá nhân với những nỗi bức bối trước xã hội, thời đại. Cùng tìm hiểu thái độ thẳng thắn của nhà thơ – công dân Tú Xương trước thực trạng, con người, xã hội giao thời được phản ánh qua những áng thơ Nôm của ông. Cũng từ đó, nhìn ra những đặc sắc và cả mặt trái của lối tư duy, lối sáng tác đi đến cực điểm trào phúng của ông Tú Thành Nam...

  • Ở tự trào Tú Xương, thi nhân không chỉ đóng vai trò người chứng kiến, người kể chuyện, người kết nối các sự kiện mà chủ yếu là người gắn số phận riêng cá nhân của mình vào số phận của tầng lớp sĩ, số phận của nền văn hóa truyền thống. Bởi thế ông cảm thấy một cách sâu sắc mình là người bơ vơ giữa hai bờ vực Đông - Tây. Nhà thơ nhìn thấy ở mình cả cái này, lẫn cái kia, cả những giá trị cũ đã tan rã lẫn những giá trị mới đang hình thành, bởi thế ông lấy mình là trường hợp tiêu biểu châm biếm mình để châm biếm người khác, châm biếm người khác cũng là để châm biếm mình …

  • Càng đi vào các sáng tác cụ thể của nhà thơ Tú Xương, chúng ta càng nhận ra đằng sau giọng điệu bỡn cợt, giễu nhại, ngạo đời là những nỗi niềm khôn tả. Có những bài thơ Nôm tưởng trái khoáy, lạ đời nhất ngẫm ra vẫn là xuất phát từ một tấm tình đậm sâu...

  • Nhà thơ Tú Xương thuộc mẫu nhà nho tài tử, ưa hưởng lạc. Ông đắm chìm vào những thú chơi một phần để vơi quên những cay đắng trong thất bại khoa cử. Trong những phân tích về hình ảnh thú hát cô đầu cũng như những lời thơ viết theo thể hát nói của nhà thơ Tú Xương, tác giả Hoàng Yên Lưu chỉ ra tâm trạng thất trí của ông Tú Thành Nam…

  • Nói tới sáng tác Quốc âm của nhà thơ Tú Xương, độc giả, công chúng không chỉ biết đến những bài thơ đậm chất trào phúng mà còn bắt gặp những ý thơ Nôm rất mực trữ tình của cụ Tú Thành Nam. Nhà văn Nguyễn Tuân đã khẳng định khuynh hướng hiện thực và trữ tình song hành trong thơ Nôm của Tú Xương…

  • Nhà thơ Tú Xương, bằng những tác phẩm trào phúng để đời của mình như: Năm mới chúc nhau, Đất Vị Hoàng, Lễ xướng danh, Thói đời…, đã góp phần khai sinh một dòng thơ mới. Việc tìm ra tình huống hài hước và tìm ra ngôn ngữ miêu tả đắc địa những tình huống ấy đều có trong những trang thơ Quốc âm viết về bản thân mình của nhà thơ. Cụ Tú Thành Nam dùng những hình ảnh rất đắt để vẽ nên bức chân dung tự họa bằng thơ hết sức ấn tượng…

  • Buổi giao thời, thực dân Pháp đã căn bản đàn áp phong trào Văn thân khởi nghĩa và bước đầu bóc lột kinh tế. Nhiều giá trị tinh thần trải qua một cuộc bể dâu đạo đức trong đó phải kể đến sự thất thế của chữ Hán, của đạo nho đó là một thực tế đáng buồn đối với những nhà nho tài năng như Tú Xương. Bởi thế, trong nhiều sáng tác, ông chế giễu các trí thức Tây học và mỉa mai cả chữ quốc ngữ đang thịnh hành...

  • Trong 20 năm [từ 1886 đến 1906], Trần Tế Xương với tám lần đi thi hương, nhưng học vị cao nhất cũng chỉ là tú tài. Phải chăng vì thế đã làm nên một nhà thơ lớn mang tên Tú Xương và mảng tối bức tranh về thực tế thi cử thời phong kiến thực dân cuối thế kỷ 19 của nước ta được tái hiện qua những vần thơ Quốc âm đầy tâm trạng của ông Tú Thành Nam...

  • Với những cống hiến cho dòng thơ Nôm của dân tộc, thơ Tú Xương đi sâu vào đời sống, không những được dân gian ưa chuộng mà còn được giới trí thức tinh hoa tìm đọc và biểu dương. Nhờ vận dụng cách nói khẩu ngữ dân gian mà mỗi câu thơ Nôm Tú Xương lại tủm tỉm một nét cười: hài hước, hóm hỉnh, chua cay. Đó là những sắc thái giọng cười trong tiếng thơ Tú Xương. Theo nhà văn Nguyễn Tuân, trong quá trình lao động nghệ thuật, nhà thơ Tú Xương đã kế thừa được truyền thống cười của dân tộc, điệu cười của ông Tú thành Nam có giá trị bổ sung thêm cho tiếng cười đã thành giai thoại, thành một phần đời sống dân ta...

  • Nhà thơ Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương, tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Tên bố mẹ đặt cho lúc đầu là Trần Duy Uyên. Ông sinh ngày 5 tháng 9 năm 1870 [tức ngày 10 tháng 8 năm Canh Ngọ], ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định [sau đổi thành phố Hàng Nâu, hiện nay là phố Minh Khai, phường Vị Xuyên, thành phố Nam Định]. Ông sớm ra đi khi mới 37 tuổi. Ngoài các bản dịch thơ chữ Hán, nhà thơ Tú Xương còn để lại một di sản thơ Nôm phong phú. Cuộc đời lận đận khoa cử là nguồn cảm hứng lớn trong sáng tác của ông. Cùng với nhà thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương là tên tuổi sáng giá nhất trong dòng thơ Nôm trào phúng. Trong khi Nguyễn Khuyến với chủ trương lối thơ châm biếm nhẹ nhàng, thâm thúy đầy ngụ ý thì thơ Nôm cụ Tú thành Nam bật lên tiếng cười chua cay, dữ dội...

  • Vốn là một nhà Nho giàu lòng yêu nước, thương dân, có lúc bị buộc vào hoàn cảnh không còn con đường nào khác phải làm gia sư cho Kinh lược Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải hay bắt buộc nhận lời phải làm Chánh chủ khảo cuộc thi vịnh Kiều do giới chức thời ấy tổ chức. Tuy nhiên, nhà thơ Nguyễn Khuyến luôn tìm cách thể hiện quan điểm, cách nhìn cũng như thái độ nhằm lên án những thói tật của những kẻ hại dân… Đây cũng là nguyên cớ để nhà thơ thể hiện khí chất và tài năng về những sáng tác thơ Nôm tiêu biểu làm đậm thêm một phong cách trào phúng bậc thầy trong nền thơ ca dân tộc….

  • Dòng thơ Nôm trung đại nước ta ghi nhận nhiều tên tuổi với di sản thơ ca giá trị. Điểm chung của các nhà Nho, các công thần đồng thời là những tác giả lớn chính là tấm lòng với vương triều, với dân tộc. Nhưng cũng không thể không nhắc tới phẩm chất thi nhân, cá tính sáng tạo độc đáo. Vì thế, bên cạnh những áng thơ thể hiện đạo lý, đạo nghĩa, chúng ta còn thấy một hình ảnh khác, phong cách tài tử, sự tự tin vào tài năng và bản lĩnh ...của các thi nhân.

  • Với tình yêu sâu sắc dành cho quê hương làng cảnh, nhà thơ Nguyễn Khuyến đã đưa vào thơ của mình không ít những nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa của nhân dân vùng đồng bằng Bắc Bộ và người dân làng Yên Đổ quê hương ông. Trong các áng thơ Quốc âm của Nguyễn Khuyến đều thấp thoáng đường nét, bối cảnh là các phong tục, tập quán nơi ông cư ngụ và gắn bó…

  • Nói về sự tài hoa, phong phú, linh hoạt, biến báo trong sử dụng Đại từ nhân xưng, có lẽ hiếm nhà thơ trung đại và cả hiện đại nào vượt qua được nhà thơ Nguyễn Khuyến. Thạc sĩ Phan Đình Phùng đã chỉ rõ, các đại từ nhân xưng đó chính là một phương tiện của “cái tôi trữ tình” trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến… - Ngẫm nghĩ về tài chơi chữ của cụ Tam Nguyên Yên Đổ qua những giai thoại lưu lại tới hôm nay.

  • Nhà thơ Nguyễn Khuyến sinh ra ở quê ngoại, vùng đồng chiêm trũng Bắc bộ. Dễ hiểu khi quê hương làng cảnh, những câu chuyện, lý lối, khẩu ngữ dân gian của quê ngoại ăn sâu vào trong tiềm thức, phát lộ trong sáng tác của cụ. Đó cũng là điều mà tác giả Trần Minh Thương dễ nhận ra khi khảo sát về chất dân gian trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến…

  • So với các tiền bối thơ Nôm, Nguyễn Khuyến là nhà thơ đầu tiên thực sự mang lại “địa vị bình đẳng” cho khẩu ngữ Việt trong thế giới thơ ca bác học. Những “à, ư, nhỉ, nhé”…vừa nôm na mách qué, vừa đưa đẩy tinh quái, hiển lộ văn hóa giao tiếp thông tục của người Việt lần đầu tiên xuất hiện đậm đặc trong các bài Luật thi Nôm. Đó chính là một yếu tố ngôn từ không thể thiếu làm nên giọng phản vấn/ tự vấn…

  • Nhà thơ Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất về thơ Nôm trong làng văn học Việt. Điển hình là ba bài thơ viết về mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. Chúng đã được truyền tụng hàng trăm năm nay, được nhớ, được thuộc và là ba bài thơ hay nức tiếng tả về mùa thu ở miền Bắc Việt Nam. Nhà thơ Xuân Diệu cũng đã đưa ra luận đề “Nguyễn Khuyến - nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam”.... và cho đến ngày hôm nay chúng ta vẫn thấy thật xác đáng.

  • Với “Chiều hôm nhớ nhà”, “Buổi chiều lữ thứ”, “Thăng Long thành hoài cổ”, “Chùa Trấn Bắc”, “Qua đèo Ngang”, thơ Bà huyện Thanh Quan đã phát huy tinh hoa giá trị cổ điển của ngôn từ, lại biết kết hợp với ngôn ngữ thuần Việt của dân tộc khiến cho mỗi bài thơ của bà đều đẹp đẽ một cách lạ thường, một vẻ đẹp đài các, trang nghiêm hiếm có trong lịch sử thơ Nôm Đường luật Việt Nam…

  • Tới thế kỷ 18, cùng với phong trào xướng họa trong cung đình, thơ Nôm trở thành một văn tự quen thuộc để các nhà nho, danh sĩ ký thác nỗi niềm. Họ sáng tác thơ quốc âm để vịnh cảnh, vịnh vật, kể chí, bày tỏ nỗi lòng. Tuy nhiên không phải ai cũng có thể đưa sáng tác văn vần bằng chữ Nôm lên một tầm cao, một dấu ấn sâu đậm như bà Huyện Thanh Quan…

  • Dù số lượng thơ Nôm của Bà Huyện Thanh Quan còn lại tới hôm nay không nhiều, thế nhưng cũng đã đủ để định hình một phong cách sáng tác độc đáo trong dòng thơ Quốc âm. Tất cả những sáng tác Quốc âm của bà quả thực dẫu là tức cảnh ở nơi đâu cuối cùng vẫn cứ mang một nỗi thương thân, nỗi nhớ tiếc dĩ vãng…

  • Sáng tác thơ Đường luật bằng chữ Hán lâu nay vẫn mang đặc tính nặng nề, cổ kính, xa lạ với người bình dân. Khi viết bằng chữ Nôm, thơ Đường luật với cách gieo vần, gieo chữ nghiêm cẩn cũng khó tìm được sự đồng điệu với ngôn từ, đề cao sự thuần phác, nguyên sơ, gần với lời ăn, tiếng nói hàng ngày. Thế nhưng, thơ Nôm Đường luật của bà Huyện Thanh Quan lại dung hòa được hai yếu tố khó đội trời chung là niêm luật thơ Đường và ngôn ngữ Quốc âm. Chỉ có thể giải thích rằng, chính giọng thơ nữ tính, nhuần nhị, mang niềm hoài cổ của nữ sĩ đã thổi hồn cho những áng thơ Nôm Đường luật đầy cốt cách còn ngân vang cho tới hôm nay...

  • Ngoài bài phú viết về "Người tài tử đa cùng" với khẩu khí ngang tàng, phóng khoáng. Gia tài thơ Nôm của thánh thơ Cao Bá Quát còn phải kể đến những bài viết về vịnh cảnh, vịnh người, viết về nhân tình thế thái hay bày tỏ thái độ với những điều mắt thấy tai nghe. Đi vào một số nguồn cảm hứng nổi bật, chúng ta cùng tìm hiểu những đặc sắc về ngôn ngữ và giọng điệu trong thơ Nôm Cao Bá Quát…

  • Trong 3254 câu thơ lục bát “Truyện Kiều”, chữ “xuân” xuất hiện rất nhiều lần. Theo các nhà nghiên cứu, có 55 dòng thơ chứa 58 chữ “xuân”. Dưới ngòi bút điêu luyện của Đại thi hào Nguyễn Du, chữ “xuân” biến ảo trong nhiều ý nghĩa, hay nói cách khác, trường nghĩa của “xuân” rất rộng…

  • Từ nhỏ đã nổi tiếng là thần đồng, đến tuổi trưởng thành, Cao Bá Quát dành nhiều tâm huyết để sáng tác thơ nhưng phần nhiều là thơ chữ Hán với số lượng hơn 1000 bài. Tuy số lượng thơ Nôm không nhiều nhưng suốt cuộc đời, nhà thơ Cao Bá Quát luôn coi trọng vai trò, vị trí của dòng thơ Quốc âm trong nền văn học dân tộc. Những quan niệm về văn chương, học thuật đã được thể hiện rõ nét trong những bài Tự, Bạt và thơ của ông...

  • Với tư tưởng sáng tạo và rộng mở, các nhà nghiên cứu, phê bình trên báo chí Nam Bộ đã tìm về những giá trị Truyện Kiều thông qua nhiều khía cạnh văn bản như nguồn gốc tác phẩm, nghệ thuật ngôn từ lẫn khía cạnh ngoài văn bản như những yếu tố chi phối đến Đại thi hào Nguyễn Du khi sáng tác Truyện Kiều, ý nghĩa đạo đức, tôn giáo, lịch sử, xã hội của tác phẩm. Cùng tìm hiểu vị trí của Truyện Kiều và đại thi hào Nguyễn Du trên báo chí quốc ngữ Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX qua bài tổng hợp của tác giả Nguyễn Thị Phương Thúy …

  • Cùng với thơ Nôm Đường luật, truyện thơ Nôm đóng vai trò quan trọng, đồng hành với đời sống tinh thần của người Việt nhiều đời nay. Với giá trị nhân văn về nội dung và sức hấp dẫn về tính nhạc, giai điệu, truyện thơ Nôm như một ngọn gió mát lành góp phần xua tan nỗi vất vả trong cuộc sống lao động của người bình dân xưa. Cùng lắng nghe các nhà nghiên cứu đánh giá về giá trị, sức lan tỏa của mỗi tác phẩm truyện thơ Nôm trong đời sống và trong văn học.

  • Từ sự kết hợp giữa nghệ thuật ca trù và ngôn ngữ thơ Nôm, hát nói ra đời và trở thành một thể tài độc đáo trong dòng văn học Quốc âm của dân tộc. Với khả năng diễn tả nhiều cảm xúc, hát nói trước tiên đã đáp ứng được việc tỏ bày nỗi niềm tâm sự, sau nữa là nhu cầu giải trí của nhiều tầng lớp trong xã hội. Qua việc đi sâu vào một số đặc điểm của thơ Nôm sáng tác theo thể hát nói, cùng tìm hiểu nghệ thuật hát nói qua những âm điệu đẹp và đáng nhớ trong kho tàng văn học của dân tộc… Qua việc đi sâu vào một số đặc điểm của thơ Nôm sáng tác theo thể hát nói, những âm điệu đẹp và đáng nhớ này trong kho tàng văn học của dân tộc sẽ được gợi lại trong chương trình …

  • Văn hóa đề vịnh thiên nhiên, phong cảnh của các nhà nho xưa được thể hiện qua những dấu tích còn lưu lại trên các địa danh bia đá, bia ma nhai. Các đặc trưng của bốn mùa trong năm cũng là đề tài thường trực trong nhiều áng thơ Nôm. So với ba mùa: Xuân, Hạ, và Thu, mùa Đông ít được nhắc đến trong thơ Nôm hơn. Tuy vậy, không vì thế mà thơ quốc âm vịnh cảnh tả tình trong tiết giá lạnh kém phần đặc sắc. Tiêu biểu cho đề tài mùa đông trong thơ Nôm, chúng ta không thể không nhắc đến các sáng tác của nhà thơ Nguyễn Công Trứ.

  • Thể lục bát vốn được sử dụng trong dân gian, là điệu hát hoặc dùng để kể sử nhưng đã được Đại thi hào Nguyễn Du sử dụng như một phương tiện để sáng tác truyện thơ bằng điệu nói. Tác phẩm “Truyện Kiều” với hơn 3200 câu thơ lục bát của ông được coi là kiệt tác của nền văn học dân tộc, là kết tinh của tài năng trí tuệ, thể hiện nghệ thuật ngôn từ, sức sáng tạo dồi dào, độc đáo sâu sắc. Trong chương trình, chúng ta cùng tìm hiểu về nghệ thuật lục bát của kiệt tác này qua những diễn giải của tác giả Đỗ Đình Tuân.

  • Những năm quân và dân ta chiến đấu đánh đuổi đế quốc Mỹ, bảo vệ đất nước, thì tại Đức, “Truyện Kiều” đã được vợ chồng nhà khảo cứu kiêm dịch giả Irene và nhà thơ Franz Faber chuyển ngữ. Năm 1964, một năm trước dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, ấn phẩm “Das Mädchen Kiều” đã ra mắt công chúng, bạn đọc nước Đức. Theo Tiến sĩ ngôn ngữ Trương Hồng Quang, sau lần xuất bản đầu tiên và lần tái bản duy nhất năm 1980, “Truyện Kiều” tiếng Đức đã tuyệt bản. Nhằm làm sống dậy bản tiếng Đức, kỳ công chuyển ngữ kiệt tác của Đại thi hào Nguyễn Du, dự án “Truyện Kiều” song ngữ Đức – Việt đã được thực hiện và ra mắt năm 2016.

  • Bản dịch "Truyện Kiều" ra tiếng Nhật đầu tiên có tên là "Kim Vân Kiều" do nhà văn Komatsu Kiyoshi dịch, xuất bản năm 1942. Trong khoảng thời gian từ năm 1942 - 2005, người Nhật đã cho ra đời 5 bản dịch khác nhau của “Truyện Kiều” và đều được đông đảo bạn đọc, từ giới tri thức đến người bình dân yêu thích . Những trao đổi giữa BTV chương trình với PSG.TS Đoàn Lê Giang khẳng định vị thế của kiệt tác văn học nước ta không chỉ gói gọn trong vùng lãnh thổ...

  • Cuốn “Truyện Kiều” bằng tiếng Rumani xuất bản năm 1967 bởi nhà xuất bản Văn học Bucuresti [Rumani], được dịch giả Radu Moureanu dịch từ bản dịch tiếng Pháp của Nguyễn Văn Vĩnh được xem như một biểu tượng về tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Nam – Rumani. Trao đổi giữa Biên tập viên Võ Hà và PGS.TS Nguyễn Văn Dân về bối cảnh lịch sử và hình thức thể hiện của bản dịch “Truyện Kiều” sang tiếng Rumani.

  • Theo thống kê, đến nay đã có trên 30 bản dịch “Truyện Kiều” ra gần 20 thứ tiếng nước ngoài, trong đó có 13 bản tiếng Pháp, 10 bản Hán văn và Trung văn, các bản dịch tiếng Nga, Anh, Nhật, Đức, Tiệp, Hungari, Rumani, Hàn Quốc, v.v… Các học giả quốc tế đều ca ngợi “Truyện Kiều” là tác phẩm xứng đáng nhất của nền thơ cổ điển Việt Nam và Nguyễn Du là nhà thơ lớn có một không hai của dân tộc. Bản “Kim Vân Kiều tân truyện” gồm cả phần lời và phần tranh vẽ minh họa được cho là của đại thi hào hiện vẫn còn lưu giữ tại Thư viện Anh quốc...

  • Sinh thời, Nguyễn Công Trứ từng kinh qua nhiều chức quan như: Tham tụng bộ Lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Không chỉ là một võ tướng tài ba, ông còn có công khai khẩn đất đai, là một nhà Doanh điền kiệt xuất. Tuy vậy, khi nhìn lại cuộc đời mình, ông chỉ tự hào có hai điều, đó là: Nết đa tình và sự ngất ngưởng ngông thấu trời xanh. Cùng tìm hiểu những biểu hiện đậm nét của hai cá tính ấy trong con người một thi sĩ, một nho tướng...

  • Nhà thơ Nguyễn Công Trứ được coi là người có công đầu trong việc đưa hát nói vào văn học và biến nó trở thành một trong những thể tài độc đáo mang đậm đà bản sắc dân tộc. Ở thể thơ này với sự phóng khoáng về niêm luật, chính là nơi để ông thể hiện được đầy đủ nhất chí khí, hoài bão, khí chất ngang tàng trong con người ông. Từ sáng tác theo điệu hát nói của nhà thơ Nguyễn Công Trứ, PGS – TS Vũ Nho đã làm sáng hơn nữa vẻ đẹp nguyên gốc của một sinh hoạt văn hóa cũng như tài năng của ca nương, văn nhân, tài tử.

  • Nhà nho tài tử, đa nhân cách - là những luận bình về nhà thơ Nguyễn Công Trứ. Một trong những biểu hiện của tính đa nhân cách ở Nguyễn Công Trứ, đó là sự song hành của hai xu thế sáng tác hướng tâm và ly tâm. Cùng tìm hiểu về đặc điểm tài hoa, ngọn nguồn của những câu thơ có một vẻ đẹp trác tuyệt, kỳ thú, khởi sinh từ xu thế sáng tác ly tâm của nhà thơ Nguyễn Công Trứ.

  • Khi bàn về chất nhà nho tài tử không thể bỏ qua nhà thơ Nguyễn Công Trứ. Nguyễn Công Trứ làm quan dưới bốn triều vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, lập nhiều chiến công như khai hoang, mộ dân, đánh dẹp các cuộc nổi dậy chống triều đình. Địa vị hiển hách nhưng cũng có những lúc ông bị giáng chức, đỉnh điểm là bị lột mũ áo, giáng làm lính thú ở nơi biên thùy. Bởi cuộc đời ông như một thiên tiểu thuyết ly kỳ thăng giáng liên miên nên dễ hiểu vì sao có nhiều sắc thái trong thơ Nguyễn Công Trứ. Sống trong xã hội phong kiến với những quy chuẩn đạo đức và ứng xử nghiêm ngặt những bài thơ của ông thực là những của hiếm càng đọc, càng ngâm ngợi càng thấy một niềm thú vị riêng. Cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của ông phản chiếu đậm nét qua nhiều sáng tác thơ Nôm như: Bài ca ngất ngưởng, Chí làm trai, Kẻ sỹ, Nợ tang bồng. Gần 200 bài thơ còn lưu lại của Nguyễn Công Trứ nhất là những bài làm theo thể hát nói ghi dấu một cá tính, một tài năng, một nhân cách.

  • Trước khi nổi tiếng với hàng loạt tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh đã cho ra mắt hai tác phẩm truyện thơ "U Tình Lục” và “Vậy mới phải". Nhà văn ký thác nỗi đời qua thể thơ lục bát truyền thống. Dù sau này ông chọn gắn bó lâu dài và bền chặt với văn xuôi nhưng những truyện thơ sáng tác vào giai đoạn đầu vẫn là một phần không thể quên trong văn nghiệp Hồ Biểu Chánh...

  • Vốn sinh trưởng và gắn bó với vùng đất Nam bộ, thật dễ hiểu khi văn chương của nhà văn Hồ Biểu Chánh thấm đẫm những đường nét, đặc trưng đời sống và văn hóa “miệt vườn”…

  • Trong hồi ký của mình, nhà văn Hồ Biểu Chánh từng “tự thú” về những tác phẩm ra đời từ sự cảm tác khi đọc văn học Pháp và Nga. Nhưng điều lạ lùng là không có một sự “kết án” nào sau những lời “tự thú” chân thật ấy, bởi từ cảm tác, ông đã phôi thai một đời sống mới cho sáng tạo của mình, trên bối cảnh vùng Nam Kỳ lục tỉnh quê nhà.

  • Khoảng năm 1910, về cơ bản, văn xuôi hư cấu bằng chữ quốc ngữ đã gây dựng được cảm tình với độc giả. Phong trào sáng tác lên cao, các tác giả đã sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong hành văn một cách thuần thục, nắm bắt được thị hiếu thưởng thức của công chúng thời bấy giờ. Trong bối cảnh ấy, Hồ Biểu Chánh cho ra mắt hàng loạt các tác phẩm với một lối viết hấp dẫn. Ông nhanh chóng trở thành một hiện tượng của làng văn nghệ Nam Bộ nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.

  • Năm 1964, Giáo sư Trần Thanh Mại đã phát hiện và công bố tập “Lưu hương ký” gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ chữ Nôm của nữ sĩ Hồ Xuân Hương do bạn thơ Tốn Phong Thị viết tựa. Trong tập thơ này, ngôn từ, tâm sự các bài thơ Nôm đậm chất trữ tình, khác với hình dung về một tài nữ đáo để, sắc sảo trong hầu hết thơ Nôm truyền tụng...

  • Trong cuốn “Hồ Xuân Hương - Hoài niệm phồn thực” xuất bản cách đây hơn 20 năm, nhà Phê bình Văn học Đỗ Lai Thúy bình về bài “Đánh đu”: “Thiên tài Hồ Xuân Hương miêu tả cảnh đánh đu rất đẹp, đầy hình ảnh, màu sắc, động tác gợi được không khí xuân. Vẻ đẹp của thân thể con người cũng được miêu tả gợi cảm. Đồng thời, bằng tài nghệ của mình, nhà thơ đã dựng lên nghĩa lấp lửng, phục nguyên được ý nghĩa phồn thực của trò chơi đánh đu”. Nhiều năm sau, nhà phê bình có xu hướng tiếp cận Văn học từ hệ thống Văn hóa vẫn nhất quán với quan điểm: thơ Hồ Xuân Hương dày đặc các biểu tượng phồn thực, vốn là một giá trị Văn hóa…

  • Với những cảm xúc phong phú mang lại, thơ Nôm Hồ Xuân Hương từng được soi chiếu dưới nhiều lý thuyết như văn chương bác học, văn hóa dân gian, chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng, góc nhìn phân tâm học hay phê bình nữ quyền. Chương trình hôm nay góp nhặt một số quan điểm khoa học về hiện tượng phong cách tác giả Hồ Xuân Hương từ cái nhìn hậu hiện đại…

  • Thế Lữ là một trong những đỉnh cao của phong trào Thơ Mới, nổi tiếng với bài thơ “Nhớ rừng”. Ông còn là một cây bút văn xuôi xông xáo, thậm chí còn nổi danh với văn xuôi trước cả thơ. Tổng cộng đời văn Thế Lữ có khoảng 40 truyện, cả truyện dài và truyện ngắn. Ông viết bốn thể tài chính bao gồm truyện kinh dị, truyện trinh thám, truyện thường ngày và truyện lãng mạn đường rừng. Trong đó nổi bật nhất phải kể đến truyện trinh thám, hay khởi nguồn từ tiếng Pháp có nghĩa là văn học cảnh sát…

  • Trong làng văn xuôi tự sự viết đầu thế kỷ 20, nhà văn Nguyễn Bá Học được xếp cùng “chiếu” với những tên tuổi thời bấy giờ là các nhà văn Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc Phách và Hồ Biểu Chánh. Dưới ngòi bút của Nguyễn Bá Học, một phần bức tranh xã hội đương thời hiện lên sinh động. Ở đó, ta thấy được thói cờ bạc chơi bời ở người đàn ông, tính xa hoa, lười biếng, đến nỗi rơi vào cảnh trụy lạc, bần cùng ở những người phụ nữ “con nhà”…

  • Hai phần ba cuộc đời sống với công việc viết tiểu thuyết, Phú Đức là cái tên bảo chứng cho lượng độc giả văn chương trong khoảng chục năm [từ năm 1925 đến năm 1935]. Đây cũng là giai đoạn huy hoàng trong sự nghiệp của cây bút trinh thám hàng đầu Nam bộ. Những tác phẩm của ông sau này được tái bản lại vẫn rất “ăn khách”. Điều đó càng khẳng định thêm tiểu thuyết trinh thám Phú Đức có vị trí lớn trong dòng chảy văn chương trinh thám Việt Nam đầu thế kỷ 20.

  • Trong số những cây bút sáng tác văn xuôi quốc ngữ đầu thế kỷ 20, Lê Hoằng Mưu là một trường hợp đặc biệt. Điều đặc biệt đầu tiên, vì là tác giả có tiểu thuyết bán chạy nhất Sài Gòn thời bấy giờ, ông được chọn làm chủ bút và là chủ bút được trả lương cao nhất của những tờ báo nổi tiếng như Lục Tỉnh Tân văn, Nông Cổ Mín Đàm. Điều đặc biệt thứ hai, cuốn “Hà Hương phong nguyệt” của Lê Hoằng Mưu là tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên bị nhà cầm quyền thời bấy giờ thu hồi và tiêu hủy vì dính nghi án Sex…

  • Trên "Nam phong tạp chí" số 18, tháng 12/1918, khi kỳ đầu tiên tác phẩm "Sống chết mặc bay" của nhà văn Phạm Duy Tốn được đăng, học giả Phạm Quỳnh có viết: "Phạm Duy Tốn là một người rất nhiệt thành với văn quốc ngữ, và đã biệt lập ra một lối văn riêng, lấy sự tả chân làm cốt. Mỗi bài văn của ông như một tấm ảnh phản chiếu cái chân tướng như hệt". Qua lời giới thiệu của ông chủ bút Nam Phong, ta thấy được tấm lòng của nhà văn Phạm Duy Tốn với văn chương quốc ngữ, cũng là người có công khai phá lối văn tả thực.

  • Trang viết và sân cỏ - Hai lĩnh vực tưởng chừng xa lạ này liệu có điểm gặp gỡ nào thú vị? Bóng đá và văn chương liệu có thể chung nhịp đập đam mê trong một năm mới đầy hi vọng và tin yêu? Chúng ta cùng khám phá mối liên kết thú vị này trong chương trình “Trái bóng văn chương – Cùng đam mê, chung khát vọng” với nhà thơ Đỗ Trung Lai.

  • Truyện ngắn của nhà văn Thế Lữ thường viết về những số phận hẩm hiu giữa đời thường với những cảnh đời bị phụ bạc mà thành nghiện ngập, thất tình mà tìm đến cái chết, người phụ nữ thiệt thòi phận bạc hay người mẹ mất con đến điên loạn...

  • Cùng với phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn là một hiện tượng văn học mà số phận không thoát khỏi sự thăng trầm trước những biến thiên của đời sống xã hội. Trong khoảng 10 năm tồn tại, Tự Lực văn đoàn với những sáng tác văn học, hoạt động báo chí, trao giải thưởng, tạo nhiều ảnh hưởng đến văn học Việt Nam thời kỳ đó. Văn xuôi Tự Lực văn đoàn đã khẳng định được nét đẹp văn chương và những giá trị mỹ học nổi bật...

  • 23 tuổi khi đang là chiến sỹ lái xe Trường Sơn ông được phong tặng Anh hùng LLVT nhân dân. 45 tuổi ông chính thức bước vào thương trường sau khi đã nghỉ hưu với quân hàm trung tá. 57 tuổi ông tự ứng cử và trúng cử đại biểu Quốc hội. Tập đoàn Thái Bình Dương do ông làm Chủ tịch đã và đang đồng hành cùng nhiều tập đoàn nổi tiếng thế giới với những dự án tỷ đô. Cùng tìm hiểu về Anh hùng LLVT nhân dân Phan Văn Quý qua bút ký “Người chiến sỹ ấy” của tác giả Xuân Bách.

  • Sinh năm 1963, tốt nghiệp khoa Anh, Trường đại học tư lập Yonsei [Hàn Quốc], năm 1988 Gong Ji Young chính thức bước chân vào làng văn xứ kim chi bằng tuyển tập truyện ngắn mang tên "Ngày tan vỡ". Các tác phẩm của Gong Ji Young hầu hết đều trở thành sách best-seller, và được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Việt như: “Cá thu”, “Dù con sống thế nào mẹ cũng luôn ủng hộ”, “Yêu người tử tù”… Tác phẩm mới nhất của nữ nhà văn được giới thiệu ở nước ta là tiểu thuyết “Chiếc thang cao màu xanh”, do dịch giả Nghiêm Thị Thu Hương chuyển ngữ, NXB Phụ nữ ấn hành.

  • Để tạo nên hồn vía của làng quê trong tác phẩm của mình, bên cạnh việc miêu tả cảnh quê, nhà văn Trần Tiêu còn khắc họa hình ảnh, tâm tư, tình cảm của người dân quê. Trong đó, ông đặc biệt dành nhiều cảm tình cho người phụ nữ, những người vợ, người mẹ tảo tần khuya sớm vì chồng, vì con…

  • Những người đọc văn Thanh Tịnh có lẽ đều ấn tượng với lời văn đẹp, trong sáng, giọng kể chuyện tâm tình, nhẹ nhàng, nhiều cảm xúc. Cốt truyện không phải là chính yếu mà để nhớ chính là cái không khí, cái dư vị quyến luyến, ngọt ngào pha chút ngậm ngùi, buồn thương…

  • Thơ Nôm Hồ Xuân Hương trước tiên chính là tấm gương phản ánh con người và trí tuệ của tác giả. Chính vì hiểu thấu căn nguyên khởi sinh nên các hình tượng văn hóa dân tộc, thấm nhuần những tập tục dân gian, nữ sĩ đã sáng tạo thơ ca dựa trên những mẫu gốc bắt nguồn từ tín ngưỡng phồn thực của dân nước ta. Có thể nói, chất phong tình, tâm thức phản kháng, khát vọng hạnh phúc, tự do chính là những biểu hiện rõ nét của sự phát triển và biến hóa của các mẫu gốc trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương...

  • Nhiều người yêu văn chương đều biết, ngoài việc đóng vai trò tiên phong trong phong trào Thơ Mới và có những thi phẩm để đời như “Nhớ rừng” hay “Tiếng sáo thiên thai”, nhà thơ Thế Lữ còn viết văn xuôi. Ở địa hạt này, ông thể hiện năng lượng viết dồi dào khi khẳng định bút lực trên nhiều thể tài như truyện trinh thám, truyện lãng mạn đường rừng, truyện đời thường và truyện kinh dị...

  • Là một người sáng tác vốn ưa thích tự do, làm việc theo cảm hứng, thế nhưng khi đảm nhận công việc biên tập văn thơ, nhà thơ Thế Lữ đã cho thấy năng lực đánh giá, thẩm định cũng như tinh thần trách nhiệm cao đối với tác phẩm của các bạn văn, bạn thơ, những đàn em trong làng văn nghệ…

  • Tuy không nổi đình đám trong làng văn xuôi những năm 30 – 40 của thế kỷ trước như các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam nhưng nhà thơ Xuân Diệu cũng là một thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn. Ngoài đắm đuối với thơ, còn dành thời gian sáng tác văn xuôi, cụ thể là viết truyện ngắn, bút ký và phê bình tiểu luận. Trong đó, ở thể loại truyện ngắn, ông có tập “Phấn thông vàng”, gồm 17 truyện, in ở NXB Đời Nay, xuất bản năm 1939.

  • Đặc điểm phê bình của Xuân Diệu là kết hợp bình và giảng, cách hành văn sôi nổi. Đó là lối phê bình giàu tính trực cảm, dễ đi vào lòng người. Nhà thơ dày công đọc, tìm hiểu, so sánh, ngẫm ngợi, công phu, tỉ mẩn chọn lựa từ hàng trăm, hàng nghìn bài thơ để vừa chỉ ra những hạn chế, vừa biểu dương kịp thời phong trào sáng tác và thành tựu của các nhà thơ thuộc nhiều thế hệ. Phê bình văn học của Xuân Diệu sở dĩ không khô cứng vì ông biến hóa đa thanh trong giọng điệu…

  • Sinh thời, nhà văn Nguyễn Tuân từng nhận xét: “Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình dị và sâu sắc…Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời”. Có thể nói, đọc văn Thạch Lam, công chúng được hưởng nhã thú thưởng thức những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học. Cao hơn thế, từ nỗi đời, văn chương Thạch Lam lại vỗ về chúng ta trong bầu không khí tĩnh lặng, bình yên hiếm hoi và quý giá…

  • Nhà văn Thạch Lam vẫn có tiếng trong giới viết văn về phong tục, bản sắc Hà Nội, dù ông chỉ có một tập tùy bút mỏng manh có nhan đề “Hà Nội băm sáu phố phường”. Dưới ngòi bút Thạch Lam, mỗi món ngon Hà Thành đều tỏa ra một không gian văn hóa, quây quanh người bán, người ăn, người làm món ăn, thức ăn, khung cảnh và cả thời gian đã trôi qua trên bước đi của món ăn ấy từ xưa đến nay…

  • So với các cây bút văn xuôi khác trong nhóm Tự Lực văn đoàn, văn phong Thạch Lam chảy riêng biệt một dòng. Đề tài quen thuộc của nhóm Tự Lực văn đoàn là những cảnh sống được thi vị hóa, những mơ ước thoát ly mang màu sắc cải lương, là những phản kháng yếu ớt trước sự trói buộc của đạo đức phong kiến diễn ra trong các gia đình quyền quý. Thạch Lam, trái lại, đã hướng ngòi bút về phía lớp người lao động bần cùng trong xã hội đương thời.

  • Công chúng nhớ tới Hoàng Đạo trước tiên trong vai trò nhà cải cách xã hội. Sau đó mới là nhà văn. Thực tế cho thấy sáng tác văn xuôi hư cấu của Hoàng Đạo không nhiều. Ông đã xác lập cho ngòi bút của mình đi theo một con đường riêng với những luận thuyết về xã hội dù có lẽ nhận rõ lối đi ấy không mấy mời gọi như con đường mà Nhất Linh, Khái Hưng hay Thạch Lam lựa chọn…

  • Những người đọc Khái Hưng có lẽ đều ấn tượng với lối văn giản dị, thanh tao, trong sáng, nhịp nhàng nhưng không mất vẻ tự nhiên. Nhà văn Khái Hưng vốn am hiểu phụ nữ và tuổi trẻ, nhờ thế thanh niên và phái đẹp là những độc giả trung thành của ông. Bằng sự cuốn hút rất cập thời, văn chương Khái Hưng đã tìm ra lối đi vào tâm hồn độc giả…

  • Bước vào thế giới văn chương của Tự Lực văn đoàn, có lẽ gương mặt đầu tiên mà độc giả nhớ tới là nhà văn Nhất Linh. Chủ soái đồng thời cũng là linh hồn của Tự Lực văn đoàn không chỉ là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng mà còn là một nhà thơ, một họa sĩ tài năng…

  • Viết cho nhiều đối tượng độc giả, nhưng nổi bật vẫn là đối tượng thanh thiếu niên, nhà văn Kim Ryeo-ryeong luôn bắt đầu với câu hỏi “tại sao?” khi đối diện với những mặt đối lập như cái ác và cái thiện, nạn nhân và thủ phạm. Dù là viết cho trẻ em hay người lớn, trả lời những câu hỏi như thế luôn là một sự thách thức...

  • Myanmar với hơn 50 triệu dân và diện tích lãnh thổ rộng gấp đôi nước ta. Đất nước với hơn 90 phần trăm dân số theo đạo Phật, với hàng ngàn di sản chùa tháp tầng tầng thời gian lịch sử. Myanmar mới bước vào công cuộc mở cửa, bên cạnh những văn minh vật chất phương Tây vẫn giữ gìn trầm tích, thói quen của một miền văn hóa riêng biệt, sâu thẳm, tĩnh tại. Một trong những địa danh nổi tiếng, biểu tượng về văn hóa, niềm tự hào của quốc gia này là chùa Shwedagon, còn gọi là chùa Vàng. Bút ký “Dưới chân tháp chùa Vàng” của phóng viên viên Anh Thư là những cảm nhận của người khách phương xa khi đến xứ sở bình yên này…

  • Sở dĩ giải thưởng văn chương Tự Lực văn đoàn có sức thuyết phục và giá trị cao là bởi ban giám khảo chấm giải đều là những “ngôi sao” trên vòm trời văn chương Việt Nam lúc bấy giờ như Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ, Tú Mỡ, kì giải chót có thêm Xuân Diệu. Công chúng, độc giả tin tưởng vào “con mắt xanh” của những người tâm huyết với văn chương, lập ra giải thưởng và trao giải bằng nguồn kinh phí tự lực...

  • Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết tiểu thuyết viết trước Cách mạng tháng Tám của Nguyễn Công Hoan đều được sân khấu hóa. Các thói tục nông thôn, chuyện quan lại chốn đình trung, những chuyện tình yêu bị chia cắt do lễ giáo phong kiến đã được nhà văn phục dựng một cách sinh động. Tiểu thuyết viết trước Cách mạng tháng Tám của nhà văn Nguyễn Công Hoan thực sự trải trước mắt người hôm nay một bức tranh xã hội cũ thu nhỏ...

  • Nhiều độc giả chỉ biết tới Phan Văn Dật ở tư cách một nhà thơ. Thực tế, bước đầu sáng tác, ông bộc lộ năng khiếu ngôn từ ở thể loại tiểu thuyết. Không phải ngẫu nhiên mà “Diễm Dương Trang”, tác phẩm đầu tay của Phan Văn Dật nhận được sự tán thưởng và tôn vinh của Tự Lực văn đoàn...

  • Không những có công khai phá, mở đường cho văn chương hiện thực phê phán ở nước ta mà nhà văn Nguyễn Công Hoan còn là người góp phần đặt nền móng cho văn xuôi hiện thực hiện thực Xã hội chủ nghĩa. Nhiều tác phẩm Nguyễn Công Hoan viết sau Cách mạng tháng Tám ngược về quá khứ, nhìn vào hiện thực với một cảm quan mới, sâu sắc và khách quan hơn...

  • Sinh trưởng trong một gia đình nghèo, sớm mồ côi cha, ngay từ nhỏ, Nguyên Hồng đã phải cùng mẹ tới Hải Phòng, lần hồi kiếm sống trong các xóm thợ nghèo, dạy học tư và viết văn. Vì thế, hiện thực cuộc sống của thành phố Cảng nhập vào những trang văn của nhà văn Nguyên Hồng một cách ấn tượng...

  • Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, từ Hà Nội tản cư lên vùng núi Lương Sơn [Hòa Bình], văn sĩ Tùng Giang – Vũ Đình Trung được biết chuyện tình bi thương của đôi trai tài gái sắc xứ Mường – Đinh Lăng và Quách Mỵ Dung. Câu chuyện hai nấm mồ của một người vì nước mà chết, một người đành đoạn quyên sinh vì bị ép duyên đã được một người bạn của người đã khuất là cụ Chế Quang Tuyển ghi lại dưới dạng vần điệu của thi ca dân tộc Mường. Từ đây văn sĩ Tùng Giang – Vũ Đình Trung đã cảm tác nên hơn một nghìn câu thơ song thất lục bát viết về thiên tình sử bi hùng của Đinh Lăng – Quách Mỵ Dung. Truyện thơ “Đồi thông hai mộ” đã ra đời và nhanh chóng có một chỗ đứng trong lòng bạn đọc, công chúng...

  • Vốn tài hoa, Đinh Hùng có khả năng hội họa, biết chơi vĩ cầm, thích thú với môn thư pháp bằng chữ quốc ngữ. Ông viết kịch, viết văn xuôi cũng rất tài tình. Thoát khỏi những vần thơ lấp lánh các biểu tượng, đầy sức ám gợi, đong đầy nhạc điệu, ngòi bút Đinh Hùng rẽ sang văn xuôi vẫn là ngôn từ tinh tế, sắc sảo nhưng được thể hiện một cách đời thường, dung dị và gần gũi hơn

  • Sống và sáng tác cùng giai đoạn với Đại thi hào Nguyễn Du, nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng là một phong cách thơ Nôm độc đáo. Nếu “Truyện Kiều” của Nguyễn Du được truyền khẩu rộng rãi trong dân gian thì thơ Quốc âm của Hồ Xuân Hương, những bài như Mời trầu, Tự tình, Quả mít, Bánh trôi, Con ốc nhồi, Đèo Ba Dội, Sư bị ong châm, Thiếu nữ ngủ ngày cũng được thích thú ngâm nga, truyền tụng bao đời nay. Tuy mỗi tác giả, tác phẩm có nội dung, tính chất, nghệ thuật thơ riêng biệt nhưng xét về quá trình thâm nhập vào quảng đại quần chúng, tới hôm nay có thể thấy ảnh hưởng của thơ ca Hồ Xuân Hương so với Đại thi hào Nguyễn Du cũng vững vàng ở thế một chín một mười.

  • Cũng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, những nhà nho – công thần đồng thời là nhà thơ, sự nghiệp sáng tác của Đại thi hào Nguyễn Du cũng có hai dòng văn học chức năng và văn học nghệ thuật. Nếu văn học chức năng nhằm bày tỏ tấm lòng trung hiếu, nhân nghĩa, trách nhiệm công dân với xã hội thì văn học nghệ thuật là địa hạt riêng tư và cũng vô cùng tinh túy để tác giả bộc lộ chiết xuất tài năng độc đáo. Tác giả của những tác phẩm lớn như “Truyện Kiều”, “Văn chiêu hồn” đã dung hòa được văn học chức năng và văn học nghệ thuật trong các sáng tác Quốc âm đạt tới “cảnh giới” thời đại...

  • “Những trang đời hậu chiến”, chương trình phát thanh Văn nghệ đặc biệt do Ban Văn học Nghệ thuật VOV6 – Đài Tiếng nói Việt Nam thực hiện, xoay quanh những nhân vật trong các tác phẩm ký về đề tài hậu chiến của nhà văn Minh Chuyên. Những nhân vật ấy từ đời thực bước vào trang sách, rồi từ trang sách lại bước ra cuộc đời, với bao éo le, trắc trở, oan khuất, song đã cùng nhau xây dựng nên câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp giữa đời thường...

  • Trong ba lần Tự Lực văn đoàn trao giải thưởng, nhà văn Nguyễn Khắc Mẫn được vinh danh tới hai lần. Hai giải khuyến khích năm 1935 và năm 1937 đều thuộc về tác giả quê Kinh Bắc. Tâm niệm “Văn dĩ tải đạo”, văn chương Nguyễn Khắc Mẫn tìm tòi và nêu cao phẩm chất tốt đẹp của con người trong những hoàn cảnh khó khăn, ngặt nghèo...

  • Có tài dẫn dắt cốt truyện đến một kết cục không ai ngờ đến, nhiều truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan có dáng dấp như một màn kịch ngắn đầy cảm xúc và cuốn hút. Truyện ngắn “Kép Tư Bền” in trong tập truyện ngắn cùng tên năm 1935 tiêu biểu cho đặc điểm ấy của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan..

  • Giữa muôn ngả rẽ của tư tưởng văn chương buổi giao thời, ngay từ đầu nhà văn Nguyễn Công Hoan đã dứt khoát hướng ngòi bút của mình đứng về phía người dân lao động bị áp bức. Ông là người đã đặt những viên gạch đầu tiên xây đắp nền móng cho nền văn xuôi hiện thực phê phán. Theo Giáo sư Phan Cự Đệ, tác phẩm Nguyễn Công Hoan là bức tranh sống động về những cảnh ngộ, con người trong chế độ cũ...

  • Viết cho nhiều đối tượng độc giả, nhưng nổi bật vẫn là đối tượng thanh thiếu niên, nhà văn Kim Ryeo-ryeong luôn bắt đầu với câu hỏi “tại sao?” khi đối diện với những mặt đối lập như cái ác và cái thiện, nạn nhân và thủ phạm. Dù là viết cho trẻ em hay người lớn, trả lời những câu hỏi như thế luôn là một sự thách thức...

  • Khi tiểu thuyết “Bỉ vỏ” được trao giải Tự Lực văn đoàn, những tên tuổi thời bấy giờ là nhà văn Thạch Lam và nhà văn Vũ Ngọc Phan đã gọi Nguyên Hồng là một tài năng trẻ nhiều triển vọng. Có lẽ họ đã nhìn ra ở Nguyên Hồng tố chất của một người viết hứa hẹn đi đường dài với văn chương. Có thể nói những tác phẩm đặc sắc nhất của nhà văn Nguyên Hồng đều viết về lớp người cùng khổ của xã hội...

  • Hầu hết các tác giả được Tự Lực văn đoàn vinh danh đều nhanh chóng trở thành “con cưng” của giới phê bình văn học thời bấy giờ. Mạnh Phú Tư cũng được hưởng “đặc ân” ấy sau khi tiểu thuyết "Làm lẽ" đoạt giải. Cả trước và sau Cách mạng tháng Tám, văn xuôi của ông đều được đánh giá cao ở nội dung thuần Việt. Tinh thần ấy được thể hiện bằng một văn phong thuần thục, giản dị và xúc động.

  • Bên cạnh hàng loạt sáng tác văn chương hư cấu nổi tiếng, nhà văn Nguyễn Công Hoan còn thể hiện khả năng lý luận phê bình văn học qua một số tác phẩm bàn về quan niệm văn chương, kinh nghiệm viết văn và chân dung nhà văn. Trên nền tảng sáng tác và tác phẩm, những lý luận về văn chương của ông quả thực hấp dẫn và giàu sức thuyết phục...

  • Nhìn vào sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng, người đọc dễ nhận thấy phụ nữ và trẻ em là hai đối tượng luôn được nhà văn dành nhiều ưu ái, cảm tình và sự bênh vực. Xuyên suốt nhiều tác phẩm đặc sắc, nhà văn Nguyên Hồng thể hiện tấm lòng với những số phận con người nhỏ nhoi và yếu thế trong xã hội đương thời...

  • Sở dĩ những trang văn của Nguyên Hồng khơi dậy nhiều cảm xúc vì độc giả thấy được, chạm được vào những câu chuyện, cảnh đời trần thế mà ở đó, tác giả hóa thân một cách trọn vẹn, thấm thía vào các nhân vật. Chất tự sự trong văn Nguyên Hồng không chỉ thể hiện ở các tác phẩm mang nhiều yếu tố hồi ký, tự truyện mà cả ở những trang văn hư cấu...

  • Những phát thanh viên của chương trình Văn nghệ là cầu nối đưa các tác phẩm văn học nghệ thuật đến gần hơn với công chúng qua làn sóng phát thanh quốc gia. Tiếng nói Việt Nam là tiếng hồn của dân tộc, chứa đựng những vẻ đẹp thẳm sâu của văn hóa qua bão giông lịch sử. Phát thanh Văn nghệ, một phần nào đó, chính là nơi neo giữ tâm hồn dân tộc…

  • Cách đây hơn 60 năm, nhà thơ Đinh Hùng trong một bài viết về Đại thi hào Nguyễn Du đã gọi “Văn tế thập loại chúng sinh” là “Tiếng Vọng Tố Như”: “Tiếng Vọng Tố Như không phải chỉ có “Đoạn trường tân thanh” mới đáng kể là tiêu biểu mà còn có “Văn tế thập loại chúng sinh”, tức Thơ Chiêu hồn. Nếu Truyện Kiều ví như một toà lâu đài uy nghi dựng lên giữa cuộc sống biến diễn từng lớp kịch nhân tình bi hoan, thì “Văn Chiêu hồn” là một ngọn hải đăng cô tịch chiếu ánh sáng ngoài cửa biển đêm dài, soi đường cho những con thuyền lạc lõng trên sóng nước mù sương...

  • Nếu Ức Trai – Nguyễn Trãi được xem là thi nhân đi đầu trong việc chuyển đổi từ sáng tác thơ Nôm Đường luật chuẩn mực sang biến thể thất ngôn xen lục ngôn thì đến thế kỷ 18, các khúc ngâm nổi tiếng làm vang danh thể thơ song thất lục bát. Tiếp nối thành tựu của thể lục bát gián thất đã đành, một tên tuổi sáng chói của văn học giai đoạn này – Nhà thơ Nguyễn Du được xem là bậc thầy trong việc định hình và nâng tầm thể thơ lục bát của dân tộc

  • Ngoài tư cách nhà văn, Ngô Tất Tố còn được biết đến là một nhà báo, nhà Nho học, dịch giả và nhà nghiên cứu có ảnh hưởng lớn đối với văn hóa nước nhà, giai đoạn trước năm 1954...

  • Tấm lòng và tài năng, hai yếu tố ấy hội tụ trong con người nhà văn Ngô Tất Tố đã hoài thai ra những tác phẩm rung động lòng người, ví như “Tắt đèn” và “Trong rừng nho”. Hình tượng phụ nữ trong tiểu thuyết của cây bút đi đầu trào lưu văn học hiện thực phê phán đã được ông dày công xây dựng...

  • Trong làng báo cuối những năm 30, đầu những năm 40 của thế kỷ trước, bên cạnh những tiểu thuyết, truyện dịch có tiếng vang lớn, nhà văn Ngô Tất Tố là một trong những tay “bỉnh bút” kỳ tài về mảng phỏng sự...

  • Cách viết đơn sơ, chân thực, mực thước cổ điển, mà vẫn rất tình cảm của nhà văn Ngô Tất Tố không chỉ thể hiện trong các tiểu thuyết, phóng sự mà còn đậm nét ở mảng truyện ký lịch sử. Thể hiện hiểu biết về lịch sử đã đành, với giọng kể hấp dẫn và năng lực gửi gắm cảm xúc vào câu chữ, những trang truyện ký về các nhân vật, sự kiện lịch sử của nhà văn Ngô Tất Tố có một dáng vóc riêng...

  • Trước khi nổi danh trong làng văn nước ta với những tiểu thuyết “Tắt đèn”, phóng sự “Lều chõng”, “Việc làng”, nhà văn Ngô Tất Tố đã có những tác phẩm dịch từ Hán văn. Sau đó, dù bận rộn với sáng tác và làm báo, ông vẫn dành nhiều thời gian để dịch và chú giải các tác phẩm triết học và văn học Trung Hoa. Đáng chú ý ở mảng dịch thuật của nhà văn Ngô Tất Tố là các tác phẩm như “Cẩm Hương đình”, “Kinh dịch”, các tác phẩm thơ Đường…

  • Việc tinh thông Hán học là một lợi thế của nhà văn Ngô Tất Tố khi tiếp cận những tác phẩm văn học trung đại của nước nhà. Không những dịch bản chữ Hán tiểu thuyết lịch sử “Hoàng Lê nhất thống chí” nằm trong bộ “Ngô gia văn phái tùng thư”, ông còn dịch thơ, biên soạn, chú thích về tiểu sử, cuộc đời của các tác giả tiêu biểu trong lịch sử văn học dân tộc...

  • Ngô Tất Tố đến với tản văn và tiểu phẩm báo chí một cách có chủ đích. Gần 20 năm, nhà văn bền bỉ, say mê viết tản văn, tiểu phẩm báo chí. Ông là người gây dựng và làm nên thương hiệu của các chuyên mục: “Nói chơi” trên báo “Đông phương”, “Gặp đâu nói đấy” trên báo “Phổ thông”, “Nói giữa giời” trên “Thực nghiệp Dân báo”. Không chỉ gây ấn tượng về số lượng, nhà văn Ngô Tất Tố đã tạo dựng được phong cách viết tản văn, tiểu phẩm báo chí độc đáo.

  • Với đặc tính nhẹ nhàng, tinh tế, dễ đi vào lòng người, sâu sắc, thực tế chứ không cao vời, mô phạm như thơ chữ Hán, thơ Nôm phát huy triệt để những ưu thế để các nhà nho khuyên nhủ con cháu điều hay lẽ thiệt. Từ thế kỷ 14, đời nhà Trần đến buổi giao thời mạt Nho, thơ phú sáng tác bằng Quốc âm vẫn được các Nhà Nho tin dùng để đúc kết những kinh nghiệm, trải nghiệm về đời sống truyền gửi đến các thế hệ sau...

  • Thời khắc đất trời chuyển mình, vạn vật sinh sôi, tâm hồn thi nhân đâu dễ dửng dưng. Nhắc xuân nhưng đâu chỉ để kể, tả cảnh xuân, ở nhiều áng thơ Nôm, người đọc xưa nay tìm thấy những phong vị, ẩn tình thâm sâu...

  • Manh nha từ các bài phú Nôm của tầng lớp trên, ra đời ở thế kỷ 13, đời nhà Trần, chậm rãi, chừng mực và rồi thăng hoa, thơ Nôm bước vào đời sống người bình dân. Kể từ thời nhà Lê, dòng thơ này có những thành tựu rực rỡ, chứng tỏ được sức ảnh hưởng dài lâu trong nền văn học dân tộc...

  • Bước đầu đến với nghề văn, nhà văn Vũ Trọng Phụng viết kịch và truyện ngắn nhưng chưa thực sự gây tiếng vang. Mãi đến khi dấn thân vào mảng phóng sự xã hội, tên tuổi của ông mới được biết tới rộng khắp. Hàng loạt phóng sự đề cập tới những hiện tượng sốt dẻo của thành thị thời bấy giờ đã góp phần tạo nên danh hiệu “ông vua phóng sự của đất Bắc” Vũ Trọng Phụng...

  • Với những trang viết mô tả rất chân thực, tinh tế và sống động những thuần phong mĩ tục của người làng quê sau lũy tre làng, nhà văn Kim Lân đã tạo nên sức hấp dẫn riêng cho những truyện ngắn của mình từ chính những khám phá các giá trị văn hóa cổ truyền của vùng đất Kinh Bắc...

  • Với giá trị nội dung và nghệ thuật sâu sắc, độc đáo, các tác phẩm của nhà văn Vũ Trọng Phụng trước tiên gây ấn tượng mạnh mẽ với các đồng nghiệp. Nhà thơ Lưu Trọng Lư gọi nỗ lực gây dựng tác phẩm của Vũ Trọng Phụng là “Một sức sáng tạo nhiệm màu”. Về sau, nhà văn Nguyễn Khải đánh giá những trang viết của tác giả “Số đỏ”: “làm vinh dự cho mọi nền văn học”. Còn nhà văn Nguyễn Quang Sáng cho rằng nhà văn đàn anh có một “bút lực ghê gớm và dữ dội”...

  • Trong Tự truyện “Một quãng đường”, nhà văn Tô Hoài bộc bạch: “Những sáng tác của tôi đều miêu tả tâm trạng tôi, gia đình tôi, làng tôi, mọi cái của mình quanh mình. Những nghèo đói, cùng túng, đau đớn. Phần nào nhẹ nhàng hay xót xa, hay nghịch ngợm và đá chút khinh bạc là phần nào con người và tư tưởng tiểu tư sản của tôi”. Ghi dấu ấn ở nhiều đề tài nhưng có thể nói sở trường về bối cảnh của Tô Hoài vẫn là vùng ven đô, ngoại thành Hà Nội. Trong những trang văn viết về nông thôn, cảm hứng phong tục được nhà văn thể hiện rất chân thực và sinh động...

  • Không có cái vẻ êm đềm, thơ mộng, trong lành, buồn lặng như nông thôn trong văn Thạch Lam, cũng không mang hơi hướng bản sắc nệ cổ như văn Ngô Tất Tố, nông thôn, trong mỗi sáng tác của Nam Cao nói như Giáo sư Phong Lê: “không chỉ là một lát cắt tươi rói của cuộc sống mà còn là những chạm khắc rất ấn tượng về những chân dung người làm nên gương mặt dân tộc một thời”

  • Cũng như nhiều đồng nghiệp cùng thời, nhà văn Kim Lân lấy chất liệu từ môi trường cuộc sống đời thường để làm chi tiết trong các sáng tác. Văn ông khác người nhờ biết gạn lọc những tinh túy từ hiểu biết sành sỏi về nếp sống hương thôn, nhờ đó có một sức hấp dẫn riêng biệt. Thưởng thức văn Kim Lân cơ hồ như ngồi trong bảng lảng cảnh quê, nếm một món đặc sản của đồng quê hãy còn tươi roi rói. Món đặc sản ấy quấn quyện hài hòa cả hương, vị, sắc màu, tình đất, tình người, y như những trang văn vừa sinh động, uyển chuyền lại thấm thía cốt cõi sâu xa giá trị cốt cách tâm hồn người dân quê...

  • Nhà văn Nam Cao bước vào làng văn từ năm 1936, khi mới 19 tuổi, với những truyện ngắn đầu tay nhuốm màu lãng mạn. Phải đến khi tuyệt tác “Chí Phèo” và tập “Đôi lứa xứng đôi” ra đời vào năm 1941, ý thức nghệ thuật hiện thực của Nam Cao mới được khơi dòng. Tuy “cập bến” hiện thực muộn hơn so với các tiền bối xuất sắc như , Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng nhưng ngòi bút của nhà văn Nam Cao nhanh chóng bắt được mạch đời và tuôn trào mạnh mẽ...

  • Trong khi Ngô Tất Tố còn bâng khuâng với lều chõng, mái đình, Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng mải mê với tấn bi hài kịch của thời đại, Nguyên Hồng rỏ nước mắt cho những kiếp đời đau khổ thì Nam Cao, bên cạnh những trang viết chí tình về người nông dân bần cùng là triền miên nỗi niềm của người trí thức nghèo trải dài suốt từ “Đời thừa”, “Giăng sáng”, “Nước mắt”, “Sống mòn”...

  • Cũng như nhiều văn nghệ sĩ cùng thời, Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công rồi tới thời kỳ 9 năm kháng chiến chống Pháp tác động mạnh mẽ vào ý thức sáng tạo của nhà văn Nam Cao. Giai đoạn sau Cách mạng đánh dấu chuyển biến lớn trong tư duy sáng tác của nhà văn, in đậm trong một số tác phẩm tiêu biểu như truyện ngắn “Đôi mắt”, nhật ký “Ở rừng”...

  • Tác giả của “Số đỏ”, của “Giông tố”, của “Vỡ đê”– Cách định danh qua tác phẩm như một cách khẳng định dấu ấn trong văn chương không mới. Với trường hợp nhà văn Vũ Trọng Phụng, ông không viết nhiều tiểu thuyết nhưng hầu hết đều nổi tiếng; Và bạn đọc, công chúng cảm thán tài văn Vũ Trọng Phụng ngay khi chỉ cần gọi tên tác phẩm...

  • Sinh thời, nhà văn Bùi Hiển luôn tâm niệm: “Những trang viết của tôi bao giờ cũng gắng giữ lại cái tình người ấm áp. Nó là cái gì còn lớn hơn cả tình bạn và tình yêu cộng lại. Nó đã nâng tôi sống và gắn bó những người dân vùng biển với nhau”. Thực tế, từ những truyện ngắn đầu tay, nhà văn xứ Nghệ đã bám vào hiện thực cuộc sống trên quê hương mình để sáng tác...

  • Trước khi trở nên nổi tiếng trong làng văn, làng báo với các phóng sự và tiểu thuyết được đánh giá là xuất sắc có một không hai, nhà văn Vũ Trọng Phụng đã viết một số truyện ngắn. Trong vòng 9 năm, từ năm 1930 đến trước khi qua đời vào năm 1939, ông vẫn dành thời gian sáng tác thể loại này. Theo thống kê, nhà văn Vũ Trọng Phụng có khoảng gần 40 truyện ngắn với lối viết hiện đại, giàu tính nhân sinh...

  • Trước Cách mạng tháng Tám, sáng tác của nhà văn Tô Hoài tập trung vào hai đề tài chính là viết về loài vật và nông thôn trong cảnh đói nghèo. Những tác phẩm viết về loài vật của ông đặc biệt có sức hấp dẫn, thể hiện ngòi bút tài hoa và báo hiệu sức sáng tạo sung mãn...

  • Qua nhiều áng thơ Nôm, Ức Trai đã thể hiện chân thực, sâu sắc cách nhìn đời, nhìn người. Quan trường, xã hội lắm bon chen, nhiều lẽ thiệt hơn là nơi ông muốn lánh xa nhưng cũng là nơi cả đời ông mong được “lặn lội” để thỏa chí nguyện cứu nước giúp đời. Nói “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi đến nay vẫn còn là bài học vẹn nguyên về lẽ ứng xử là vì thế...

  • Với những tư tưởng đậm nét trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, ở thế kỷ 19, hai nhà nghiên cứu là Vũ Khâm Lân và Phan Huy Chú đều đánh giá: “Văn chương tiên sinh rất tự nhiên không cần điêu luyện, giản dị mà điêu luyện, thanh đạm mà nhiều ý vị, câu nào cũng có quan hệ đến sự dạy đời”. Căn cứ trên những hiện tượng, câu chuyện xảy ra trong thời đại đang sống, thơ đạo lý của Trạng Trình vì thế tác động trực tiếp vào nhân tâm.

  • Vốn là một nhà Nho, Nguyễn Trãi đề cao việc giáo dục tinh thần nhân ái, tình yêu thương sâu nặng và bổn phận, trách nhiệm của mỗi con người đối với gia đình, xã hội, với đạo nghĩa quân – thần. Ông gửi vào những áng thơ Nôm quan niệm, lối sống đầy đạo nhân với con người, với cuộc đời...

  • Nửa cuối thế kỉ XV, dưới thời vua Lê Thánh Tông được xem là một trong những giai đoạn nêu cao tinh thần tự cường, tự tôn dân tộc. Chữ Nôm, một biểu hiện văn hóa tinh thần của người Việt nhờ đó được coi trọng. Sáng tác và xướng họa thơ Nôm được xem là một trong những hoạt động văn hóa sôi nổi trong cung đình thời Hồng Đức. Tất yếu là sự ra đời của Hội Tao đàn do đích thân vua Lê Thánh Tông là chủ soái, dưới trướng là 28 tên tuổi hay còn gọi là “nhị thập bát tú” gồm những quan lại, nho sĩ văn hay chữ tốt. Tuyển thơ Nôm “Hồng Đức quốc âm thi tập” được xem là những tinh hoa sáng tạo của Hội Tao đàn...

  • Trước khi là nhà thơ, Nguyễn Trãi là một nhà Nho giàu lòng yêu nước thương dân. Thật dễ hiểu khi ông gửi gắm một cách sâu sắc, hàm súc những triết lý của con người Nho giáo trong những vần thơ Nôm. Tâm trạng trăn trở, khắc khoải trở đi trở lại trong sáng tác của Ức Trai và những sắc thái nỗi niềm ấy càng cho thấy bản lĩnh, tài năng của người thơ...

  • Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại nhiều sáng tác Hán, Nôm, như “Bạch Vân am thi tập”, “Bạch Vân quốc ngữ thi” và các tập sấm ký “Trình quốc công sấm ký” và “Trình tiên sinh quốc ngữ”. Các luận điểm triết lý của ông như tương sinh, tương khắc, biến dịch tuần hoàn, âm thịnh dương suy … đều hòa lẫn trong thơ, đặc biệt là thơ Nôm, và sấm ký. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giàu chất liệu hiện thực, mang tính triết lý sâu xa. Thơ ông còn truyền đạt lại cho đời sau những đạo lý đối nhân xử thế tốt đẹp của dân tộc: đạo vua tôi, đạo cha con, chồng vợ và quan hệ láng giềng, bầu bạn…

  • Chúng ta đã đồng hành một chặng đường trên hành trình tìm về với các giá trị trong dòng thơ Nôm của dân tộc. Đồng thời với việc soi sáng lại phong cách nghệ thuật của các tác giả sáng tác thơ bằng Quốc âm, triết lý về thân phận con người, hình ảnh của quê hương đất nước cùng nhiều vấn đề của lịch sử, thời thế cũng được hiển lộ. Chương trình Tìm trong kho báu phát 11/06/2020 ôn lại các thành tựu đáng nhớ ấy

  • Ở thời đại mà cương thường đạo lý và tiền tài, vật chất dẫu không mong muốn vẫn phải “va chạm” với nhau, Nguyễn Bỉnh Khiêm, với khí tiết của một nhà nho quân tử, vẫn muốn gìn giữ đạo làm người. Trong nhiều áng thơ Nôm, ông trình bày suy tư về thế sự, cuộc đời...

  • Trước Nguyễn Trãi hàng trăm năm, thơ, phú viết bằng chữ Nôm đã xuất hiện. Qua các tác phẩm còn lưu lại tới nay, có thể thấy rõ những sáng tạo vượt bậc của Ức Trai trong sáng tác thơ ca bằng Quốc âm. Nguyên cớ chính yếu khiến thơ Nôm Nguyễn Trãi có sức nặng cũng như sự vang vọng là bởi chiều sâu của tâm sự thi nhân chất chứa trong cảm xúc và ngôn từ thơ. Nguyễn Trãi cũng nói được một cách gần gũi và đi vào lòng người những trăn trở muôn đời của nhân sinh...

  • Trong bối cảnh lý thuyết phê bình sinh thái đang được ứng dụng vào việc đọc, hiểu các tác phẩm văn học, lật lại thơ Nôm Nguyễn Trãi, ta dễ dàng nhận thấy thế giới nghệ thuật của ông tràn ngập những hình ảnh, ý tưởng về môi sinh...

  • Sau thời kỳ các bài phú Nôm ra đời rồi do loạn lạc, giặc giã mà mất mát ít nhiều, đến thế kỷ 15, Nguyễn Trãi là người chính thức đưa chữ Nôm lên một tầm cao, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của tiếng Việt. Ông được công nhận là tên tuổi sáng giá nhất của dòng thơ Nôm. Nếu “Bình Ngô đại cáo” được xem như một áng Thiên cổ hùng văn thể hiện khí phách dân tộc, tập thơ chữ Hán “Ức Trai thi tập” mỗi bài thơ trong đó là một mảnh hồn Ức Trai thì “Quốc âm thi tập” thấm đẫm chất dân gian...

  • Càng đi sâu vào kho tàng thơ ca viết bằng chữ Nôm, chúng ta càng thấy vẻ đẹp và nỗ lực tự khẳng định của Quốc âm trong nền văn hóa dân tộc. Từ xuất phát điểm bị xem nhẹ, chữ Nôm đã đi vào lời ăn tiếng nói hàng ngày, được sử dụng để sáng tác thơ văn. Với những lợi thế chủ đạo và sự tự hoàn thiện không ngưng nghỉ, đến thời Hồng Đức, về cơ bản, chữ Nôm đã trở thành một văn tự được ưa dùng nhờ tính gần gũi, sinh động, uyển chuyển...

  • Đến thời Hồng Đức, về cơ bản thơ phú Quốc âm đã có một vị thế khá vững chãi trong nền văn học dân tộc. Giữa dòng chảy tiếp biến và phát triển của thơ ca, phú Nôm – một thể văn biền ngẫu có vần vẫn có một chỗ đứng riêng, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của các thể loại sáng tác bằng Quốc âm...

  • Dù đề vịnh về hình ảnh, sự vật nào, nhà thơ Nguyễn Trãi luôn gắng chắt lọc lấy những tinh túy của bản chất chủ thể. Viết về các loài cây mang tính biểu tượng trong truyền thống văn hóa phương Đông đâu dễ gói gọn trong đôi ba câu đề vịnh. Bởi thế, Nguyễn Trãi đã sử dụng lối thơ thủ vỹ liên hoàn với một chùm bài nối tiếp nhau nhằm thể hiện những dụng ý riêng...

  • Cuối thế kỷ thứ 15, đồng hành với chữ Hán, được sử dụng như ngôn ngữ hành chính thì Tiếng Việt và chữ Nôm được coi là tiếng bản ngữ và văn tự bản sắc, dùng để giao tiếp thường nhật. Việc vua Lê Thánh Tông khi thiết triều cho phép quần thần được sử dụng tiếng Việt cho thấy nhà vua rất đề cao sự sống động, dễ hiểu của công cụ ngôn ngữ giao tiếp đang dần phổ cập trong cộng đồng. 328 bài thơ Đường luật của vua Lê và triều thần được đưa vào “Hồng Đức quốc âm thi tập” không chỉ là một kho tàng về ngôn ngữ tiếng Việt cổ mà cao hơn kết tinh tư tưởng nghệ thuật của thơ ca và khát vọng của một triều đại...

  • Bài thơ Nôm số 92 còn có tên là “Thú thanh nhàn” với câu mở đầu: “Giàu mặc phận thác đâu bì/ Đọ thanh nhàn, khá nhất nhì” đã nâng thú thanh nhàn lên bậc cao nhất, cao hơn cả sự giàu có và trường sinh. Ẩn dật chưa bao giờ là lựa chọn khó khăn của cụ Trạng. Bởi hơn ai hết cụ thấu suốt lẽ xuất – xử, biết lúc nào nên ẩn, nên tàng. Cho nên mới gọi cuộc ẩn cư của cụ là “Thú nhàn” thay vì “Sự nhàn” như cụ Ức Trai...

  • Sống trong thời buổi phân tranh nhiều biến động, thay vì chạy theo số đông nhà nho thời bấy giờ, nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm có những lựa chọn riêng, thể hiện rõ cốt cách và tâm thức trước thời đại. Lựa chọn cuộc ẩn cư, là cội nguồn dẫn tới chữ Nhàn trong thơ Nôm của chủ am Bạch Vân. Lấy chữ “Nhàn” ra để xem xét cũng là gợi mở về sự chuyển biến trong quan niệm đạo lý và thơ ca của bắt đầu từ dấu mốc hình mẫu nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm về sau...

  • Trong nhiều bài thơ, tứ thơ Nôm, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nhắc tới chữ “an phận”, chữ “nhàn” như một lý tưởng sống. Thực tế đây là một trong những khía cạnh trong quan niệm về nhân lý, kết quả của mối giao cảm giữa các hoạt động của con người. Trong khuôn khổ chương trình phát ngày 21/5/2020, chúng tôi đi sâu vào một số đặc điểm trong nguyên tắc nhân lý thể hiện trong thơ ca Quốc âm Nguyễn Bỉnh Khiêm, cụ thể là “Bạch Vân Quốc ngữ thi tập”...

  • Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện rõ ràng nhiều tư tưởng của Kinh Dịch, nên được gọi là Dịch lý, biểu đạt qua ba trạng thái bản chất là giao dịch, biến dịch và bất dịch. Trong đó, trạng thái bất dịch chỉ các qui luật với tính chất thường hằng vĩnh cửu của nó, là sự vận động không đầu không cuối, trong tính quy luật vĩnh viễn của tạo hóa. Trạng thái ấy còn có tên gọi là thiên lý – Tức chỉ nguyên lý của vũ trụ...

  • Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai từng đưa ra đánh giá: “Trong kỹ thuật viết thơ của Nguyễn Trãi rõ ràng có một sự cố gắng để xây dựng một lối thơ Việt Nam, trong đó câu 6 tiếng dùng xen với những câu 7 tiếng, khác hẳn với quy cách niêm luật thơ Đường”. Sáng tác thơ Nôm, Ức Trai không bó buộc bản thân rập khuôn nhất nhất tuân theo quy cách chính xác về số chữ. Những sáng tạo trong cách gieo vần, gieo chữ, dùng từ, nhờ thế đã tạo nên một lối thơ độc đáo, cá tính, đầy tinh thần dân tộc..

  • Có thể nói âm điệu trữ tình gây xúc động lòng người của bản “Chinh phụ ngâm” do nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn nôm là kết quả của một chuỗi tự sự giàu tính nghệ thuật. Ở đó, người vợ có chồng đi lính xa nhà giãi bày nhiều cảm xúc, tâm trạng như buồn thương, oán trách, tiếc nuối, lo lắng, xót xa, nhớ nhung, mong ngóng, khát khao… Trong “Chinh phụ ngâm” bản Nôm, ranh giới giữa tự sự và trữ tình, hai phương thức tái hiện đời sống tưởng không thể song hành, đã bị xóa nhòa. Chính việc “kể lể tình cảm” đã tạo khả năng cho áng thơ trữ tình này có thể kéo dài đến 408 câu thơ và diễn đạt một cách dễ dàng, thuận lợi những “cung bậc cảm xúc luôn ngưng đọng trên một khối sầu”.

  • Sự lan tỏa của bản diễn nôm “Chinh phụ ngâm” của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm là minh chứng thuyết phục cho nội lực và sức sống của tác phẩm này trong dân gian. Ngoài giá trị thẩm mĩ, “Chinh phụ ngâm” còn mang ý nghĩa như là sự cứu rỗi cho một thời đại đầy đau thương, tang tóc, chia ly. Những tác phẩm được ghi và lưu truyền bằng chữ Nôm, lối nói Nôm như một cánh cửa chia sẻ, giãi bày, xoa dịu nguôi ngoai phần nào những biến động giáng lên số phận con người và xã hội...

  • Trong 256 năm của thời Lê trung hưng, từ năm 1533 đến năm 1789, giai đoạn tiếp theo của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê [tiếp nối nhà Lê Sơ] trong lịch sử nước ta, thơ ca Quốc âm tiếp tục phát triển, bất chấp những xung đột trong xã hội. Đặc biệt, sau cuộc chiến với nhà Mạc, đến thời kỳ vua Lê chúa Trịnh, xuất hiện những tác giả có sự đổi mới trong phương thức sáng tác thơ Nôm, để lại những di sản còn giá trị tới hôm nay.

  • Cảm hứng về thiên nhiên, tạo vật trở đi trở lại trong nhiều sáng tác của Nguyễn Trãi nhưng hiếm thấy sự nhàm chán, lặp lại. Chính là vì tâm hồn dễ rung động của nhà thơ phát hiện từ tạo hóa những điều vi diệu. Người đời sau đọc lại thơ Nôm Ức Trai đều ấn tượng với nguồn thi cảm ấy trong thơ ông...

  • Cảm thức Thiền đã từng in đậm trong thơ Nôm thời Lý – Trần qua các áng thơ của Thiền sư Huyền Quang hay vua Trần Nhân Tông và hội Tao Đàn. Đến thế kỷ 16, cùng với sự tịnh tiến gần hơn với đời sống, cảm thức Thiền cũng có sự hài hòa, nhập thế. Chất Thiền trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm biểu hiện qua mối giao cảm với thiên nhiên, tạo vật, ngầm chứa những triết lý sâu sắc về cuộc đời

  • Ở thế kỷ 18, cùng với nền nữ học được quan tâm và chú trọng, đã xuất hiện các tác giả nữ chứng tỏ được tài năng trong sáng tác và xướng họa thơ phú. Đoàn Thị Điểm là một trong những tài nữ như thế. “Chinh phụ ngâm” đã khẳng định vai trò của Hồng Hà nữ sĩ trong việc đưa tác phẩm này trở thành một kiệt tác văn học còn có giá trị cho tới hôm nay...

  • Sử sách đã ghi nhận, ngoài vua Trần Nhân Tông, những người đứng đầu các triều đại phong kiến nước ta như vua Lê Thánh Tông hay các chúa Trịnh đều kế thừa được truyền thống sáng tác thơ ca bằng Quốc âm của các tiền nhân đi trước. Điều này cũng chứng tỏ được vị thế, khát vọng tự chủ về văn hóa, chữ viết cũng như tinh thần tự tôn dân tộc.

  • Trong thời Phong kiến, văn chương và khoa cử vốn được xem là nơi thi thố, so thứ bậc thông hiểu chữ nghĩa thánh hiền. Thật khó để phụ nữ, vốn bị ám định khó làm nên việc lớn chen chân vào chốn xướng họa, công danh. Thế nhưng, lịch sử đã ghi nhận sự xuất hiện và khẳng định tài năng thơ phú viết bằng cả chữ Hán lẫn chữ Nôm của các nữ tác giả...

Video liên quan

Chủ Đề