Hàng tồn kho được ghi nhận theo giá thấp hơn giữa giá gốc và giá trị hợp lý
TS. Mai Ngọc Anh - Khoa Kế Toán, Học viện Tài chính
Đánh giá sau ghi nhận ban đầu các yếu tố của Báo cáo Tài chính là việc lựa chọn cơ sở tính giá, ghi nhận và trình bày sự biến động về giá trị (nếu có) của các yếu tố này trên các Báo cáo Tài chính. Áp dụng các mô hình đánh giá sau ghi nhận ban đầu khác nhau thường sẽ có ảnh hưởng trọng yếu đến thông tin tài chính được cung cấp trên các Báo cáo Tài chính. Nghiên cứu lịch sử và thông lệ kế toán quốc tế có thể nhận thấy các quy định về đánh giá sau ghi nhận ban đầu là khá phong phú. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến các mô hình đánh giá sau ghi nhận ban đầu và những khuyến nghị khi áp dụng các mô hình này trong hệ thống kế toán Việt Nam. * Mô hình giá gốc (Cost model) * Mô hình giá gốc có phân bổ (Amortised cost model) Giá gốc có phân bổ là mức giá được xác định trên cơ sở áp dụng phương pháp lãi suất thực tế để xác định giá trị hiện tại của dòng tiền liên quan đến tài sản và nợ phải trả theo một lãi suất chiết khấu nhất định.Theo mô hình này, tài sản và nợ phải trả được ghi nhận ban đầu theo giá gốc. Sau ghi nhận ban đầu, các khoản tiền lãi liên quan được phân bổ theo phương pháp lãi suất thực tế. Khoản phân bổ tiền lãi được ghi nhận để điều chỉnh từ giá gốc thành giá gốc có phân bổ và được ghi nhận vào Báo cáo kết quả kinh doanh.Mô hình giá gốc có phân bổ được áp dụng trong các chuẩn mực kế toán quốc tế và quốc gia hiện nay để đánh giá và ghi nhận các công cụ tài chính như: Các khoản cho vay và nợ phải thu, phải trả... Hạn chế của mô hình giá gốc có phân bổ là việc tính toán, phân bổ các khoản tiền lãi liên quan đến công cụ tài chính cho mỗi kì là khá phức tạp. Tuy nhiên, việc áp dụng mô hình này cho phép kế toán phản ánh các tài sản và công nợ tài chính của doanh nghiệp đúng với lợi ích và nghĩa vụ của doanh nghiệp ở thời điểm lập báo cáo. Ngoài ra, thông tin tài chính về giá gốc có phân bổ cũng đạt được mức độ tin cậy cao vì mô hình này sử dụng các dữ liệu về luồng tiền, tỷ lệ chiết khấu được quy định rõ trong các hợp đồng hoặc số liệu tham chiếu từ thị trường hoạt động.Mô hình 'giá gốc có phân bổ' chưa được quy định cụ thể trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam. Tuy nhiên, theo chế độ kế toán ban hành theo quyết định 15/2006/QĐ - BTC, phương pháp kế toán trái phiếu phát hành trong trường hợp có phát sinh chiết khấu hoặc phụ trội đã thực hiện theo mô hình này. Đối với các khoản cho vay hoặc nợ phải thu, phải trả có kèm theo lãi ngầm định thì chế độ kế toán Việt Nam vẫn quy định đánh giá sau ghi nhận ban đầu theo giá gốc mà chưa áp dụng giá gốc có phân bổ. Chúng tôi khuyến nghị nên nghiên cứu áp dụng mô hình này trong hệ thống kế toán Việt Nam.* Mô hình đánh giá lại (Revaluation model) * Mô hình giá trị hợp lý (Fair value model) Như vậy, trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn kế toán có thể áp dụng các mô hình khác nhau để đánh giá sau ghi nhận ban đầu các yếu tố của Báo cáo tài chính. Mỗi mô hình đều có ưu điểm và hạn chế riêng, được sử dụng phù hợp với đặc điểm của đối tượng kế toán và yêu cầu, mục tiêu cung cấp thông tin tài chính. Nhìn trên bình diện quốc tế, hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đang có xu hướng chuyển đổi từ việc áp dụng phổ biến các mô hình dựa trên giá gốc sang các mô hình dựa trên giá trị hợp lý. Xu hướng này phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển theo hướng nền kinh tế tri thức, phù hợp với sự phát triển ngày càng đa dạng của các quan hệ tài chính. Tài liệu tham khảo:- Hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS, IFRS)- Hệ thống chuẩn mực kế toán Mỹ (US GAAP)- Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) Theo Tạp chí Nghiên cứu khoa học kiểm toán số 43/2011 |