Giao dịch dân sự vô hiệu dẫn đến hậu quả pháp lý nào dưới đây?

I. Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu

Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự có quy định khác.

1. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội

Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn
trọng.

2. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

a] Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự hoặc luật khác có liên quan.

b] Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.

3. Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện

a] Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp quy định tại khoản b dưới đây.

b] Giao dịch dân sự của người quy định tại khoản a mục 3 không bị vô hiệu trong trường hợp sau đây:

– Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;

– Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;

– Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

4. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn

a] Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản b Điều này.

b] Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.

5. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép

Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.

6. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

7. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:

a] Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó;

b] Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

8. Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần

Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch.

II. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.

4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan quy định.

III. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu

1. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện; giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn; giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình; giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 02 năm, kể từ ngày:

a] Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;

b] Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;

c] Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;

d] Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch;

đ] Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức.

2. Hết thời hiệu quy định mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.

3. Đối với giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội và giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.

IV. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu

1. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.

2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.

3. Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.

4. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 trên nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.

Giao dịch vi phạm hình thức và hậu quả pháp lý của giao dịch vi phạm hình thức – hình minh họa

Giao dịch dân sự vi phạm điều kiện về hình thức sẽ làm giao dịch dân sự không có giá trị pháp lý và là một trong những căn cứ để Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch dân sự. Vậy thế nào là giao dịch dân sự vi phạm điều kiện về hình thức và hậu quả của việc giao dịch dân sự vi phạm hình thức ra sao? Công ty Luật Quốc tế DSP sẽ giải đáp vấn đề này thông qua bài viết dưới đây.

1. Giao dịch dân sự vi phạm hình thức là gì?

1.1 Giao dịch dân sự là gì?

Theo quy định tại Điều 116 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”

Điều 385 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “ Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”

Hành vi pháp lý đơn phương có thể hiểu là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của một bên chủ thể nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình hoặc bên còn lại trong quan hệ.

Ví dụ: Anh Thắng và chị Hoa ký hợp đồng thuê nhà ở, thì anhThắng có quyền thu tiền thuê nhà, giao nhà cho chị Hoa sử dụng. Chị Hoa có quyền sử dụng căn nhà, có nghĩa vụ trả tiền thuê nhà theo thỏa thuận. Vậy hợp đồng thuê nhà ở giữa anh Thắng và chị Hoa là giao dịch dân sự.

1.2 Hình thức của giao dịch dân sự?

Điều 119 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về hình thức của giao dịch dân sự như sau:

– Hình thức của giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Trong đó hình thức bằng văn bản được cho là hình thức có nhiều những quy định phức tạp liên quan đến hiệu lực của giao dịch dân sự đó trên thực tế.

Giao dịch dân sự thể hiện bằng lời nói là giao dịch được giao kết dưới hình thức ngôn ngữ nói. Các bên giao kết sẽ trao đổi các nội dung thỏa thuận với nhau bằng lời nói trực tiếp hoặc thông qua âm thanh trên điện thoại, điện đàm, thông điệp điện tử…

Ví dụ: Chị An đi chợ mua rau tại bà Ba, giữa hai người thỏa thuận với nhau về giá cả rau và khối lượng. Chị An đồng ý mua và trả tiền cho bà Ba, bà Ba có nghĩa vụ giao rau cho chị An. Như vậy, việc thỏa thuận giá cả, số lượng giữa chị An và bà Ba là giao dịch dân sự bằng lời nói trực tiếp.

Giao dịch dân sự thể hiện bằng văn bản là giao dịch dân sự mà hai bên thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của hai bên được thể hiện bằng văn bản và các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương như email, fax,…

Giao dịch dân sự thể hiện bằng hành vi cụ thể là giao dịch dân sự mà hai bên không có thỏa thuận bằng văn bản cũng như thỏa thuận bằng lời nói. Việc giao kết giao dịch dân sự này được minh chứng bằng các hành vi cụ thể như bên bán tiến hành giao hàng hoặc bên mua tiến hành trả tiền.

– Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.

Theo quy định tại khoản 12 Điều 4 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 thì: “Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử.”

Thông điệp dữ hiệu có thể được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác.

Theo quy định tại Điều 12 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 thì: “Trường hợp pháp luật yêu cầu thông tin phải được thể hiện bằng văn bản thì thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng yêu cầu này nếu thông tin chứa trong thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết.”

– Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.

Ví dụ: Theo quy định tại Điều 122 Luật Nhà ở năm 2014 và Điều 430 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Trường hợp mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại thì phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 122”.

1.3 Giao dịch dân sự vi phạm về hình thức là gì?

Dựa vào các quy định của pháp luật theo sự trình bày ở trên, có thể hiểu giao dịch dân sự vi phạm về hình thức là giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức của giao dịch dân sự. 

2. Hậu quả của giao dịch dân sự vi phạm hình thức

2.1 Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về hình thức

Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về hình thức – hình minh họa

Theo quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.”

Tức là để bảo vệ trật tự an toàn xã hội, lợi ích của Nhà nước và sự an toàn của người tham gia giao dịch, ngoài việc thể hiện ý chí đích thực của mình thì các chủ thể tham gia giao dịch còn phải tuân thủ quy định của pháp luật về hình thức.

Trường hợp pháp luật có quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức mà giao dịch dân sự vẫn vi phạm thì vô hiệu theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Điển hình là theo quy định tại khoản 2 Điều 119 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì trường hợp những giao dịch mà pháp luật quy định phải thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký giao dịch tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì các bên tham gia giao dịch phải tuân theo quy định đó, nếu vi phạm thì giao dịch dân sự đó bị vô hiệu.

2.2 Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm hình thức

Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu như sau:

Một là, giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Như vậy, khi giao dịch dân sự vô hiệu thì mọi thỏa thuận coi như không có.

Hai là, khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. Vậy việc trả lại hiện vật là ưu tiên, trường hợp không thể trả bằng hiện vật thì mới trả tiền. Trong thực tế, nhiều khi tài sản không còn nguyên vẹn như khi giao nhưng tài sản chính vẫn còn thì vẫn phải trả, phải nhận, được bổ sung bằng việc thanh toán cho nhau những chi phí hợp lý để khắc phục, bù đắp những tổn thất.

Ba là, bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. Điều này có nghĩa là việc hoàn trả hay không hoàn trả hoa lợi, lợi tức phụ thuộc vào sự ngay tình hay không ngay tình của bên nhận tài sản như các quy định về hoàn trả tài sản do chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.

Ví dụ: A bán một ngôi nhà cho B. B nhận nhà và trả đủ tiền mua nhà 5 tỷ đồng. B cho thuê nhà trong một năm được 150 triệu đồng. Sau một năm, A và B xác định hợp đồng mua bán nhà vô hiệu, giá nhà xác định tại thời điểm này là 7 tỷ đồng. Như vậy, lợi tức mà B được hưởng khi giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu là 150 triệu đồng chứ không phải là chênh lệch giá nhà 2 tỷ đồng.

Bốn là, bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Khi giao dịch dân sự vô hiệu, nếu các bên có yêu cầu giải quyết bồi thường thì Tòa án có trách nhiệm xác định thiệt hại. Về nguyên tắc, một bên chỉ phải bồi thường cho bên kia khi có thiệt hại xảy ra, không có thiệt hại thì không có trách nhiệm bồi thường. Việc xác định giá của tài sản trong giao dịch cũng là một vấn đề đáng lưu ý để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, người có lỗi gây ra thiệt hại phải bồi thường.

Năm là, việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan quy định.

2.3 Các trường hợp giao dịch dân sự vi phạm về hình thức vẫn có hiệu lực

Hình thức chỉ là yếu tố bắt buộc để giao dịch dân sự có hiệu lực hay không chỉ trong những trường hợp đặc biệt mà pháp luật quy định. Vậy nên, không phải giao dịch vi phạm hình thức nào cũng dẫn đến hậu quả pháp lý bị vô hiệu mà nó vẫn có hiệu lực trong một số trường hợp.

Theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức nhưng vẫn có hiệu lực nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

Thứ nhất, giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án sẽ ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.

Thứ hai, giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó và các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

Vậy, có thể thấy rằng nếu như một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch và có yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên thì Tòa án sẽ quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó dù giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức.

Việc xác định một hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch dân sự phải phụ thuộc vào từng loại nghĩa vụ cụ thể. Ví dụ: Nếu là nghĩa vụ hoàn thành công việc thì phải thực hiện được ít nhất 2/3 công việc, nếu là nghĩa vụ trả tiền thì phải trả được ít nhất 2/3 số tiền,…

2.4 Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về hình thức

Theo quy định tại Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức là 02 năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức. Hết thời hiệu này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực. 

Vì vậy, trong trường hợp cần yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về hình thức thì bạn đọc cần lưu ý về thời hiệu theo quy định đã trình bày ở trên.

3. Dịch vụ tư vấn về các vấn đề liên quan đến giao dịch dân sự vi phạm hình thức của Công ty Luật Quốc tế DSP

Công ty Luật Quốc tế DSP – Hotline: 089 661 6767

Công ty Luật Quốc tế DSP tư vấn tất cả các vấn đề liên quan đến giao dịch dân sự vi phạm về hình thức theo quy định của pháp luật, bao gồm nhưng không giới hạn các công việc dưới đây:

– Tư vấn tất cả các vấn đề pháp lý có liên quan đến giao dịch dân sự vi phạm về hình thức;

– Định hướng và đưa ra phương án xử lý tối ưu cho Qúy khách hàng;

– Đại diện theo ủy quyền để làm việc với các bên, cơ quan nhà nước và thực hiện các thủ tục có liên quan đến giao dịch dân sự vi phạm về hình thức;

– Hỗ trợ soạn Đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, các văn bản, hồ sơ khác trong quá trình giải quyết vụ việc.

Với phương châm “Tận tâm, Chuyên nghiệp mang lại Thành công”, Công ty Luật Quốc tế DSP là đơn vị tư vấn có uy tín, đáng tin cậy, giải đáp những vướng mắc cho khách hàng một cách nhanh chóng, chính xác, đồng thời đưa ra giải pháp tốt nhất để đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.

4. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Dân sự năm 2015.

– Luật Giao dịch điện tử năm 2005.

– Luật Nhà ở năm 2014.

Trên đây là nội dung tư vấn của Công ty Luật Quốc tế DSP về giao dịch vi phạm hình thức và hậu quả pháp lý của giao dịch vi phạm hình thức. Để hiểu rõ hơn về vấn đề trên, Qúy khách vui lòng liên hệ tới Công ty Luật Quốc tế DSP để nhận được sự tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

Mọi thông tin chi tiết, Quý khách vui lòng liên hệ với Công ty Luật Quốc tế DSP chúng tôi theo:

Điện thoại: 0236 222 55 88

Hotline: 089 661 6767 hoặc 089 661 7728

Email:

Fanpage: facebook.com/dsplawfirm.vn

Miền Trung: 87 Phạm Tứ, Quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng, Việt Nam

Miền Nam: Tầng 2, Toà nhà GP Bank, 83 Đinh Tiên Hoàng, Quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh, Việt Nam

Hoa Kỳ: 9869 Coronado Lake Drive, Boynton Beach City, Florida 33437, USA

Rất mong được hợp tác cùng Quý Khách!

Video liên quan

Chủ Đề