Dục tính là gì

Rối loạn tâm trạng có mối tương quan chặt chẽ với ham muốn và kích thích. Trong 80% phụ nữ bị trầm cảm và rối loạn chức năng tình dục, rối loạn chức năng tình dục sẽ trở nên ít trầm trọng khi thuốc chống trầm cảm có hiệu quả điều trị trầm cảm. Tuy nhiên, rối loạn chức năng tình dục vẫn tồn tại hoặc tồi tệ hơn khi thuốc chống trầm cảm không có hiệu quả. Phụ nữ có rối loạn lo âu cũng có nhiều khả năng bị rối loạn chức năng tình dục liên quan đến ham muốn, kích thích và/hoặc cực khoái và có PVD. Nhiều lo ngại - buông xuôi, dễ bị tổn thương, bị từ chối, hoặc mất kiểm soát - và lòng tự trọng thấp có thể đóng góp.

Những kinh nghiệm trước đây có thể ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý sinh dục của người phụ nữ, như sau:

  • Các trải nghiệm tình dục tiêu cực trong quá khứ hoặc các kinh nghiệm khác có thể dẫn đến lòng tự trọng bản thân thấp, xấu hổ hoặc tội lỗi.

  • Lạm dụng tình cảm, thể chất hoặc tình dục trong thời thơ ấu hoặc thanh thiếu niên có thể dạy cho trẻ kiểm soát và che giấu cảm xúc - một cơ chế phòng vệ hữu hiệu - nhưng sự ức chế đó có thể làm cho cảm xúc tình dục trở nên khó khăn sau này.

  • Chấn thương tinh thần sớm của việc mất cha mẹ hay người thân yêu khác có thể ức chế sự thân mật với bạn tình vì sợ mất mát tương tự.

Mối quan tâm về kết cục tiêu cực [ví dụ như mang thai ngoài ý muốn, bệnh lây truyền qua đường tình dục, không có khả năng đạt cực khoái, rối loạn chức năng tình dục của bạn tình] cũng có thể làm giảm đáp ứng tình dục.

Các nguyên nhân theo bối cảnh [những trường hợp cụ thể đối với hoàn cảnh hiện tại của người phụ nữ] bao gồm:

  • Bối cảnh bản thân: hình ảnh bản thân nhu cầu tình dục thấp [ví dụ do vô sinh, mãn kinh sớm, phẫu thuật cắt bỏ vú, tử cung, hoặc phần cơ thể khác liên quan đến tình dục]

  • Bối cảnh mối quan hệ: Thiếu lòng tin, những cảm xúc tiêu cực, hoặc giảm sự hấp dẫn đối với bạn tình [ví dụ như hành vi của bạn đời hoặc nhận thức về sự thay đổi khuynh hướng tình dục]

  • Bối cảnh tình dục: Ví dụ: môi trường xung quanh không đủ gợi tình, riêng tư hoặc an toàn

  • Bối cảnh văn hoá: Ví dụ, chặt chẽ về văn hoá đối với hoạt động tình dục

Sự phân tâm [ví dụ, từ gia đình, công việc, hoặc tài chánh] có thể gây trở ngại cho sự hưng phấn.

  • Thủ dâm: Đã có một thời được coi là một sự đồi trụy và là nguyên nhân của rối loạn tâm thần, các nhà lâm sàng đã nhận ra từ lâu rằng thủ dâm là một hoạt động tình dục thông thường trong suốt cuộc đời. Nó được coi là bất thường chỉ khi nó hạn chế hành vi tình dục với bạn tình, được thực hiện ở nơi công cộng, hoặc là đủ cưỡng bức để gây ra đau khổ. Khoảng 97% nam giới và 80% phụ nữ có hành vi thủ dâm. Mặc dù thủ dâm là vô hại, nhưng tội lỗi tạo ra bởi thái độ không chấp nhận và trừng phạt vẫn còn được giữ bởi một số người có thể gây ra đau khổ đáng kể và làm giảm hoạt động tình dục. Thủ dâm thường tiếp tục ở một mức độ nào đó ngay cả trong một mối quan hệ tình dục lành mạnh.

  • Tình dục đồng giới: Tình dục đồng giới đã không được coi là một rối loạn bởi Hội Tâm thần Hoa Kỳ trong > 4 thập kỷ. Khoảng 4 đến 5% dân số tự nhận mình là người đồng tính hoàn toàn trong suốt cuộc đời của họ; thêm 2 đến 5% xác định mình là lưỡng tính. Giống như tình dục dị giới, tình dục đồng giới gây ra bởi các yếu tố sinh học và môi trường phức tạp dẫn đến khả năng bị kích thích tình dục bởi những người cùng giới tính. Và giống như tình dục dị giới, tình dục đồng giới không phải là vấn đề lựa chọn.

  • Tình dục bừa bãi: Hoạt động tình dục thường xuyên với nhiều đối tác, thường liên quan đến các cuộc gặp gỡ ẩn danh hoặc chỉ một lần, có thể cho biết một sự suy giảm khả năng về quan hệ tình cảm. Tuy nhiên, tình dục bừa bãi không phải là một rối loạn tâm sinh dục. Tình dục vô điều kiện phổ biến ở các nền văn hoá phương Tây, mặc dù nỗi lo sợ về AIDS, nhiễm trùng herpes simplex, và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác đã làm giảm tình trạng này.

  • Tình dục ngoài hôn nhân: Hầu hết các nền văn hoá không khuyến khích hoạt động tình dục ngoài hôn nhân nhưng chấp nhận hoạt động tình dục trước hôn nhân hoặc không hôn nhân là bình thường. Ở Mỹ, hầu hết mọi người tham gia hoạt động tình dục trước hôn nhân hoặc không hôn nhân là một phần của xu hướng tự do tình dục ở các nước phát triển. Tình dục ngoài hôn nhân xảy ra thường xuyên giữa những người đã lập gia đình bất chấp những cấm kỵ xã hội. Hành vi này có khả năng truyền bệnh cho vợ hoặc bạn tình.

Sự kiện sinh học phổ biến: để giống loài được trường tồn, các cá thể cần phải sống theo luật hấp dẫn giới tính, nhằm bảo đảm cho hiện hữu tập thể, là hiện hữu vượt xa vô hạn hiện hữu cá nhân.

Những yếu tố của nhân học giới tính

Những giai đoạn của cấu trúc hóa tâm lý – tính dục

Freud mô tả tiến trình cấu trúc hóa tính dục là một tiến trình tiệm tiến, năng động, bao gồm không chỉ những tiến bộ mà cả những ấn định ở một số giai đoạn, và những thoái bộ có thể có ở những giai đoạn đi trước. Mặt tiến hóa biểu lộ ra, nơi đứa trẻ, với sự chuyển vị các vùng khoái cảm: từ miệng, qua hậu môn, và sau cùng là đến cơ quan sinh dục. Như thế theo ông nơi trẻ nhỏ dục tính đã hoạt động từ rất sớm trước khi dậy thì. Từ lúc sinh ra đời, đứa trẻ cảm thấy “một lô những kích thích đưa tới một khoái cảm không chỉ là sự thỏa mãn một nhu cầu sinh lý và chúng sẽ được thấy xuất hiện trở lại về sau này, như là những nhân tố, trong hình thức được cho là bình thường, của tình dục”[1]

Giai đoạn dậy thì từ 11 đến 14 tuổi. Thời của biến chuyển toàn thể con người, về thể chất, sinh lý, tình cảm, với sự xuất hiện kích thích cơ quan sinh dục. Cũng là giai đoạn của khủng hoảng hoang mang ít nhiều. Giai đoạn thiếu niên chuyển tiếp sang người lớn: tuổi của băng nhóm, tụ họp cùng giới về mặt xã hội học.

Cùng với cảm giác thấy sục sôi bên trong là một sự thay đổi đột ngột thể lý sinh lý, khám phá khoái cảm nơi cơ quan sinh dục. Nhưng cũng tương ứng với điều ấy, về mặt xã hội học, là thái độ đối kháng [gia đình, xã hội]. Nhưng đây cũng là thời của tình bạn đằm thắm, cao thượng, cũng là thời của khủng hoảng học đường. Tất cả những điều này sửa soạn cho khủng hoảng đặc thù của tuổi thanh niên, và cùng lúc khám phá ra sự hấp dẫn của người khác phái, tựu trung nơi đó vừa nỗi lo sợ và niềm khát khao. Chuyển tiếp qua thời kỳ tính dục khác giới không phải luôn luôn dễ dàng nhưng tiệm tiến: ở đây có thể có những định hình, tiến hoặc thoái bộ.

1. Tính dục con người không chỉ là vấn đề sinh dục

Có thể nói mọi quan hệ nhân bản đều có sắc thái giới tính [sexed], nghĩa là, được ghi ấn dấu giới tính [nam hay nữ tính] của chủ thể trong quan hệ. Nói thế có nghĩa là toàn thể đời sống tương quan của chúng ta, tất cả mọi ước vọng của chúng ta, dù chúng thuộc bình diện nào, cũng đều mang dấu ấn của kinh nghiệm mà chúng ta có về tính dục của mình kể từ những giờ phút đầu tiên của thời thơ ấu.

2. Mọi quan hệ không thể được xem chỉ như là tình dục

Mọi quan hệ, kể cả quan hệ tình dục, đều có dấu ấn của một xung năng [impulse] mãnh liệt: sự hung hăng [aggressiveness]. Tính dục và sự hung hăng luôn đang xen với nhau trên nhiều mức độ khác nhau. Thế nhưng quan hệ nói chung dù có dấu ấn của sự phân giới, cũng không được giản lược phiến diện chỉ như là tính dục. Khẳng định về một người nào đó trên cơ sở xu hướng tính dục của người ấy mà thôi là phiến diện, định kiến. Nói ai đó là “người đồng tính luyến ái”, là rất thiếu tôn trọng người ấy, bởi lẽ cách diễn tả như thế đồng nghĩa với áp đặt một cách phiến diện toàn thể nhân vị của người ấy vào xu hướng tình dục của họ. Riêng đối với người kitô hữu, một nhân vị, dù có xu hướng thế nào, trước hết là một chủ thể được mời gọi thực hiện chính mình với tất cả những gì mình là, và đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa về bản thân mình.

Trước hết, tiết dục là tự nguyện tránh [chứ không chỉ đơn thuần là kiêng khem] mọi sự hành lạc.

Nhưng khiết tịnh mới là khái niệm chúng ta muốn làm sáng tỏ ở đây. Như đã nói, tính dục của một người không chỉ là hoạt động sinh dục, cũng thế khiết tịnh không chỉ là một cách thức quan hệ liên hệ trực tiếp với hoạt động sinh lý. Cần phải hiểu rộng hơn rất nhiều. Nó liên hệ tới hết mọi người, kết hôn hay không kết hôn. Có thể nói, theo Xavier Thévenot, đó là một thái độ hành xử căn bản giúp ta sống đời sống tính dục một cách thong dong vì mình và vì người khác.[2] Như thế, một người có thể tiết dục mà không khiết tịnh, như trường hợp một người đàn ông độc thân không hề làm sự dâm dục nhưng dùng uy lực phái tính để gợi tình dụ dỗ một người phụ nữ chẳng hạn, người ấy không khiết tịnh.Vấn đề là ham muốn phái tính của tôi có khiến tôi giam hãm tha nhân trong khát vọng ấy của tôi hay, nó giúp người kia trở nên là chính họ nhiều hơn hay không? Khiết tịnh hiểu như thế hàm ẩn sự kính trọng hoàn toàn tha nhân, mong muốn người ấy tự do. Một cái nhìn khiết tịnh phải là cái nhìn không tách biệt thân xác người khác, như đối tượng khác phái đáng thèm muốn, ra khỏi chính con người đó; đó là một cái nhìn đón nhận tha nhân trong toàn thể nhân vị người ấy.

4. Tìm khoái cảm tự kỷ [autoerotism]

Là chủ thể lấy mình làm đối tượng trong khi tìm khoái lạc dục tính. Vào tuổi thiếu niên, đôi khi có sự trở lui về tình trạng tìm khoái cảm tự kỷ này, nhưng một cách khác, vì dục tính đã chuyển từ miệng sang sang các cơ quan sinh dục như là vùng khoái cảm sống động. Thế nên, khi đương đầu với thất bại, thất vọng, đụng độ căng thẳng trước thực tế quá khắc nghiệt so với thế giới thơ mộng, nhiều ước mơ, lý tưởng của tuổi thần tiên, cậu hay cô bé cũng có thể lui về tình trạng tìm khoái cảm tự kỷ, nhưng lần này với hành vi thủ dâm, nghĩa là đụng đến cơ quan sinh dục. Thủ dâm của cô cậu thiếu niên hay bú tay của trẻ thơ như thói quen thường xuyên đều có nghĩa là một sự thoái bộ vì biểu lộ một sự khép kín bản thân mình lại. Hành vi tự tìm cảm khoái bản thân ấy có thể mang lại một sự thư giãn nhất thời xoa dịu căng thẳng đang gặp, nhưng ở chiều sâu của tâm thức nó không phải là một giải pháp mang đến sự thỏa mãn, bởi lẽ tính dục, như cấu trúc sinh lý các cơ quan của nam-nữ cho thấy, là dành cho quan hệ với người khác, với người khác phái tính.

Sự thoái bộ này nơi hành vi thủ dâm có sắc thái hơi khác tùy giới. Nơi cô bé mang đậm tình cảm hơn, nơi cậu bé mang nét nhục dục nhiều hơn, nhưng ý nghĩa là như nhau: tư lự, ủ ê, buồn bã, nói chung đó là hành vi đi ngược chiều lại với tương quan với tha nhân, do đó không đem lại niềm vui, tạo sự sống.

Nơi động vật dục tính nhằm để sinh sản và có tính tự động. Nhưng, nơi loài người, không còn nhiều đặc tính tự động thay vào đó là tự do tính của con người, và như thế sẽ có tác dụng hoặc tốt hoặc xấu. Do đó quan hệ tình dục nơi con người là một đỉnh điểm: có thể là nơi chốn của một gặp gỡ sung mãn, của trao ban và đón nhận lẫn nhau, mà cũng có thể là sào huyệt của trụy lạc, điều mà loài vật không biết tới.

Điều quan trọng, trong mọi tiến trình tâm-sinh-lý tốt đẹp, là thể hiện một quan hệ đích thực giữa hai chủ thể con người, nghĩa là quan hệ trong đó tha nhân phải được đối xử không phải như một đồ vật đối tượng của khoái cảm của ta, nhưng là như một chủ thể của khát khao của ta.

Mọi khát vọng [desire] đều nảy sinh từ một nhu cầu [need], thế nhưng nếu chỉ dừng lại ở mức độ giải khát nhu cầu, thì ta vẫn ở lại trong phạm vi của hưởng thụ trong đó tha nhân thật sự được xem như một đồ vật để hưởng để dùng.

Khát vọng tính dục có nguồn gốc từ một xung năng tình dục bản năng. Nhưng bước chuyển tiếp từ một nhu cầu sang khát vọng bao hàm một chối từ: chối từ cái gì? Chối từ chiếm hữu tha nhân như chiếm hữu một đồ vật.

Khát vọng người khác, hay Đấng-Hoàn-Toàn-Khác, là ngầm nói với “người ấy” đồng thời hai điều: “Em không thể không cần đến anh. Em thiếu anh. Em cần anh”, và cùng lúc: “Em tự ngăn mình lại không nắm giữ và sở hữu anh như sở hữu một đồ vật. Em không chỉ kính trọng mà còn mong muốn anh tự do”.

Do đó trong mọi khát vọng ta sống một mâu thuẫn, một sự căng thẳng, và một sự không thỏa mãn. Khát vọng tính dục chính là động cơ của quan hệ có sắc thái tính dục. Nhưng sự kết hợp xác thịt [hay “quan hệ tình dục”], dù có thể sống động tới mức nào đi nữa bởi sức mãnh liệt và khoái cảm mà nó mang lại, cũng mới chỉ là “hợp nhất” tạm thời. Đây là cảm giác ngây ngất, đắm say, một kinh nghiệm như thể đi vào trạng thái cuồng điên, thời gian trong phút chốc như ngưng đọng. Là một kinh nghiệm khiến ta khao khát và làm rực sáng lên cái khả năng “được hợp phối nên một” hoàn toàn, vô cùng, nhưng cũng kinh nghiệm về một sự “hiệp thông” không thể có được. Sau cao đỉnh đó mỗi người thuộc đôi bạn được trả về lại với dị biệt tính của mình, với cái góc rất riêng cô đơn của mình.

Ta không bao giờ chấm dứt được khát vọng vì nó vô biên. Sự bổ khuyết lẫn nhau của người nam-người nữ do đó không bao giờ hiểu như là khả năng hiệp nhất hoàn hảo, không vết nứt nẻ. Hẳn là chúng ta được tạo dựng cho một tương quan thành toàn mà người ta gọi là hiệp thông. Nhưng lưu ý: hiệp thông không phải là hòa tan. Mọi quan hệ tốt đẹp, đều mang chở sự sống, đòi hỏi phải có khác biệt, tha tính, khoảng cách. Hiệp thông, khác với hòa tan, là hiệp nhất trong dị biệt. Và hiệp thông không chỉ đòi hỏi dị biệt nhưng còn làm gia tăng dị biệt. Quan hệ tốt đẹp là làm cho đôi bạn quan hệ trở nên nhân vị hơn, “người” hơn. Mỗi người trở nên chính mình hơn một chút, trong phạm vi nhân vị của mình.

Trong cuộc sống lứa đôi tính dục được tạo ra là để thực hiện tương quan liên chủ vị. Đôi lứa chính là nơi gặp gỡ của ba chức năng sau đây: quan hệ, tạo khóai cảm và sinh sản.

Tính dục, giữa đôi bạn yêu nhau, là ngôn ngữ thân xác nhờ đó họ bộc lộ tình yêu của nhau cho nhau. Như thế, tính dục là khoảng không gian nơi đó con người đặc quyền tỏ hiện mình như một hữu thể xác-hồn bất khả phân ly, bén rễ tự trong bản năng nhưng có thể thống trị, chế ngự và ổn định họ sao cho nó trở thành ngôn ngữ tình yêu, vốn từ phía đó là thuộc tinh thần.

2. Chức năng tạo khoái cảm

Nhưng một câu hỏi quan trọng hơn và có lẽ khó hơn là: Đâu là chỗ đứng đúng đắn của khoái cảm hay lạc thú?

Khó trả lời, vì khoái lạc vốn hàm hồ. Nó đánh thức những kinh nghiệm cổ xưa và như tế bị cấm đoán, và cũng có thể vì chúng ta còn đậm dấu ấn, dù muốn hay không muốn, của một nền giáo dục coi mọi lạc thú tiên thiên là đáng ngờ.

Có hai cám dỗ trái ngược cần lưu ý.

Một đàng, ngờ vực và chối từ mọi lạc thú.

Đàng khác, vì lạc thú nhất là lạc thú tình dục, đem đến một cảm giác thỏa mãn, được lấp đầy ngắn hạn, nhưng mãnh liệt và thực, nên có cám dỗ muốn lấp đầy những trống trải, khuyết thiếu của ta bằng mọi cách thu tích khóai cảm, và nếu cần sử dụng tha nhân như một đồ vật đối tượng tạo lạc thú tình dục.

Thật ra, khoái cảm hay lạc thú là một thành phần tổng hợp nên quan hệ tính dục, và có thể có tính xây dựng và tổ chức đối với từng chủ thể và đôi bạn, với điều kiện là nhớ rằng trong tình yêu có ba: đôi bạn và một sự khiếm khuyết luôn luôn có trong mọi khát vọng. Cần chấp nhận khát vọng sẽ không bao giờ thỏa mãn trọn vẹn; và, nhờ thế mà khát vọng luôn sống, và chúng ta vẫn sống, hạnh phúc.

3. Chức năng sáng tạo sự sống

“Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất” [St 1, 28]

Ngay cả chức năng này cũng không được sử dụng như là phương thế để lấp khoảng trống giữa hai người. Đứa bé không thể là nơi “tị nạn” để tránh giải quyết “vấn đề” có thể có giữa hai người.

Mục đích của sự phát triển tâm-sinh lý và tình cảm là làm sao tổng hợp hài hòa mọi sức mạnh nội tại trong con người, từ mức độ sinh học đến những mức độ tâm linh nhất, và sáng tạo những quan hệ liên vị tốt đẹp. Trong đời sống đôi bạn làm sao thiết lập được một quan hệ thật sự trong đó ba chức năng trên được hòa hợp tốt nhất, và chấp nhận cái bất toàn luôn còn có đó giữa hai người.

Đời sống độc thân có thể được nhờ cơ chế tâm lý sự thăng hoa được định nghĩa như là sự “sử dụng libido, tức là năng lực tâm lý ẩn bên dưới những xung năng, nhất là xung năng tính dục vì những động cơ và mục đích khác như xã hội, nghệ thuật, tôn giáo” [Laplanche và Pontalis].

Khác với dồn nén, là “hiện tượng tự vệ vô thức, ở đó cái tự ngã từ chối một xung năng [tình dục, hung hãn, …] hoặc một ý tưởng đối kháng lại những yêu sách của “siêu ngã”.

Độc thân cũng có thể là biểu lộ của một sự chưa trưởng thành, sợ hãi tính dục, khó khăn không dám dấn thân một cách lâu bền. 

[1] J. LAPLANCHE, J.-B. PONTALIS, Enciclopedia della  psicanalisi, Laterza, Roma 1987.

[2] Cf. THÉVENOT, Principi etici di riferimento per un mondo nuovo, Elle Di Ci, Leumann 1984; Id., Omosessualità maschile e morale cristiana, Elle Di Ci, Leumann 1991.

Video liên quan

Chủ Đề