Để tăng cung tiền ngân hàng trung ương

BNEWS Câu hỏi quan trọng xuất phát từ chính sách tiền tệ cực kỳ nới lỏng của hầu hết các ngân hàng trung ương trong thời kỳ đại dịch COVID-19 bùng phát là tất cả số tiền mà họ tạo ra đã đi đâu?

Quang cảnh tòa nhà Cục Dự trữ Liên bang Mỹ ở Washington DC.. Ảnh: THX/TTXVN

Chuyên gia kinh tế Stephen Bartholomeusz nhận định rằng phần lớn số tiền này lại được chuyển đến các ngân hàng trung ương.

Chính sách tiền tệ mà các ngân hàng trung ương lớn triển khai trong thời kỳ đại dịch nhằm bơm tiền vào nền kinh tế thông qua các kênh ngân hàng thương mại và thị trường tài chính để kích hoạt hoạt động kinh tế và giảm mức độ nghiêm trọng của sự suy thoái, giống như đối với cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 và cuộc suy thoái sau đó.

Tuy nhiên, không giống thời điểm năm 2008, khi phản ứng tài khóa của các chính phủ còn tương đối khiêm tốn, nỗ lực của các ngân hàng trung ương lần này luôn đi kèm với những biện pháp kích thích tài khóa lớn chưa từng có.

Điều này làm tăng đáng kể nguồn cung tiền. Chẳng hạn, tăng trưởng nguồn cung tiền mở rộng [M2] ở Mỹ đã tăng từ mức dưới 7% vào đầu năm 2020 - thời điểm trước khi đại dịch bùng phát, lên gần 30% vào tháng Tư vừa qua.

Tuy nhiên, mặc dù khối lượng tiền trong hệ thống tài chính của các nền kinh tế phát triển đã tăng đáng kể, song tốc độ và tần suất tiền tệ được chi ra cho hàng hóa và dịch vụ lại giảm trong nhiều thập kỷ gần đây. Cho đến nay, dòng tiền mạnh mẽ đổ vào thị trường để đối phó với đại dịch cũng đã không làm thay đổi xu hướng đó.

Tuần trước, chuyên gia Viktor Shvets thuộc công ty đầu tư Macquarie Capital đã công bố một báo cáo nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Ông cho rằng về cơ bản, phần lớn thanh khoản bơm vào hệ thống quốc gia đã được chuyển về Cục Dự trữ Liên bang Mỹ [Fed].

Ông Shvets viết các ngân hàng thương mại Mỹ gửi khoảng 765 tỷ USD vào Fed thông qua “giao dịch repo” qua đêm [là giao dịch trong đó một bên bán và chuyển giao quyền sở hữu tài sản tài chính cho một bên khác, đồng thời cam kết sẽ mua lại và nhận lại quyền sở hữu tài sản tài chính đó sau một thời gian xác định với một mức giá xác định], với một tỷ lệ lãi suất cực kỳ thu hút 0,05%.

Một giao dịch repo hoàn ngược lại là một thỏa thuận ngắn hạn để mua cổ phiếu và sau đó bán lại với giá cao hơn một chút. Do đó, hiện nay tồn tại hiện tượng các ngân hàng đang tích trữ một cách hiệu quả các khoản dự trữ dư thừa của họ với Fed, thay vì cho vay với lãi suất cao hơn đáng kể, cho dù Fed đã loại bỏ tất cả các yêu cầu dự trữ theo quy định vào năm ngoái.

Nới lỏng định lượng không đem lại hiệu quả như kỳ vọng

Chuyên gia của Macquarie Capital cho biết, 4.000 tỷ USD mà các ngân hàng Mỹ đang ký gửi tại Fed [tương đương khoảng 20% GDP của nước này] đã triệt tiêu yếu tố hiệu quả ở mức độ lớn của chương trình nới lỏng định lượng [QE] mà Fed áp dụng [hàng tháng cơ quan này mua vào 120 tỷ USD trái phiếu và các khoản thế chấp].

Khoảng tiền mà các ngân hàng chuyển cho Fed tương đương với sự gia tăng quy mô bảng cân đối của thể chế này, hiện đạt trên 8.000 tỷ USD kể từ khi đại dịch bùng phát.

Tình hình tương tự cũng đang diễn ra tại châu Âu, nhưng thậm chí với quy mô còn lớn hơn. Các ngân hàng châu Âu đã ký gửi tổng cộng khoảng 3.300 tỷ euro, tương đương 30% GDP của khu vực, vào Ngân hàng Trung ương châu Âu [ECB].

Các ngân hàng của Nhật Bản gửi số tiền tương đương với 100% GDP của Nhật Bản, khoảng 527.000 tỷ yen, vào Ngân hàng trung ương Nhật Bản. Trong khi đó, các ngân hàng ở Anh gửi 830 tỷ bảng Anh, tương đương 42% GDP, trong hệ thống của Ngân hàng trung ương Anh.

Một lượng dự trữ khổng lồ

Chuyên gia Shvets lý giải việc có một lượng lớn tiền dự trữ ngân hàng nằm trong các hầm chứa “ảo” của ngân hàng trung ương là do các ngân hàng không có nhu cầu đối với số tiền mà ngân hàng trung ương đã bơm vào hệ thống của họ.

Hiện cơ hội để các ngân hàng gia tăng cho vay thương mại là rất thấp và điều này tạo ra hiệu ứng số nhân tín dụng thúc đẩy việc thực hiện các chương trình QE.

Một phố mua sắm ở New York, Mỹ. Ảnh: THX/TTXVN

Theo dữ liệu của Fed, tỷ lệ tài sản của các ngân hàng lớn nhất nước Mỹ dùng vào việc cho vay và cho thuê đã sụt giảm 10% trong năm qua, ngay cả khi các ngân hàng đã tăng hơn 33% tỷ lệ nắm giữ chứng khoán kho bạc và chứng khoán của các cơ quan chính phủ.

Trong suốt 12 tháng qua, tổng các khoản vay thương mại và công nghiệp trong tất cả các bảng cân đối của các ngân hàng thương mại Mỹ đã giảm từ hơn 3.000 tỷ USD xuống còn khoảng 2.500 tỷ USD, tính cả thời điểm kinh tế Mỹ phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch.

Điều đó nói lên rằng vấn đề là do cầu, chứ không phải cung. Các ngân hàng nhận thấy không có đủ nhu cầu từ người đi vay có chỉ số tín dụng tốt để triển khai thanh toán khoản dư thừa mà họ đang nắm giữ.

Có một hiệu ứng số nhân xảy ra khi các ngân hàng cho vay tiền. Điều này dẫn đến số nhân giao dịch, làm tăng vận tốc của tiền, khi tiền được chi để mua hàng hóa và dịch vụ. Do đó, việc các ngân hàng không sẵn lòng cho vay, hoặc không có đủ cơ hội đáng tin cậy để cho vay, đã tạo ra kết quả tiêu cực khi khối lượng tiền tăng lên đáng kể nhưng tốc độ lưu chuyển của chúng trong hệ thống tài chính lại bị giảm đi.

Hiện tượng này không chỉ xuất hiện trong bảng cân đối kế toán đang “phồng to lên” của Fed, mà còn xuất hiện ở nhiều khía cạnh kinh tế, cho thấy tình hình giống như một phiên bản phóng đại của những gì đã xảy ra kể từ cuộc khủng hoảng năm 2008.

Thúc đẩy sự phát triển của các tài sản tài chính

Nếu không có đủ nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế thực, ngay cả khi lãi suất cơ bản đã giảm xuống mức thấp chưa từng có và khối lượng tiền trong hệ thống cao chưa từng có, toàn bộ tiền bơm vào nền kinh tế thông qua ngân hàng thương mại sẽ quay trở lại các ngân hàng trung ương hoặc cuối cùng được đầu cơ vào các tài sản tài chính.

Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi các thị trường chứng khoán liên tục xác lập kỷ lục mới, với giá trái phiếu [trái ngược với lợi tức] tăng cao và hàng hóa được “tài chính hóa”, các hình thức hoạt động đầu cơ mới như tiền điện tử NFT hay cổ phiếu “meme” phát triển mạnh mẽ.

Ngoài ra, sự khan hiếm tương đối cao của nhu cầu tín dụng dành cho đầu tư sản xuất có thể bị ảnh hưởng bởi nhân khẩu học và dân số già, hoặc do bản chất không yêu cầu nhiều vốn đầu tư của các loại công nghệ chuyển đổi mới.

Một yếu tố khác có thể là do mức tăng trưởng kinh tế tương đối thấp kể từ năm 2008, khi một loạt quy định pháp lý mới và thâm dụng vốn được áp dụng trong hệ thống ngân hàng toàn cầu đã tác động đến khả năng cho vay, làm thay đổi tâm lý và kinh tế của các tổ chức tài chính và nhà đầu tư về những rủi ro mà họ có thể sẽ phải gánh chịu.

Chuyên gia Shvets lập luận rằng bất chấp hiệu quả giảm dần của các chương trình QE, các ngân hàng trung ương về cơ bản đã bị mắc kẹt trong chính quyết sách hành động của họ.

Tuy nhiên, các ngân hàng trung ương không thể ngừng chương trình QE đang triển khai vì hậu quả đối với biến động của thị trường tài chính và giá tài sản có thể rất tàn khốc, từ đó loại bỏ các hiệu ứng giàu có mà họ đã nỗ lực tạo ra.

Ông Shvets viết: “Người hưởng lương hưu có thể phát hiện ra rằng họ không có lương hưu, các công cụ phái sinh có thể bị giảm sút và điều tương tự cũng có thể xảy ra với giá bất động sản”.

Một cách nhìn khác về tình thế tiến thoái lưỡng nan mà các ngân hàng trung ương phải đối mặt là mặc dù lý do cốt lõi của họ khi đưa ra các chương trình QE nhằm mục đích hỗ trợ và khuyến khích hoạt động kinh tế thực sự, nhưng tác động của các chương trình đối với mục đích cốt lõi đó đã giảm đến mức gần như biến mất.

Tuy nhiên, tác động phụ của các chương trình QE trên thị trường tài chính và giá tài sản nói chung rất đáng lưu ý, đến mức có thể gây ra sự bùng nổ giá tài sản và một cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính khác sẽ xuất hiện, làm lu mờ những gì đã xảy ra vào năm 2008-2009./.

Từ bài viết này, bạn sẽ học được:

  • Ngân hàng Trung ương là gì và vai trò của họ trong hệ thống tài chính
  • Những Ngân hàng Trung ương đáng chú ý trên thế giới
  • Các Ngân hàng Trung ương có thể ảnh hưởng đến thị trường tài chính như thế nào

Ngân hàng Trung ương là một ngân hàng quốc gia cung cấp các dịch vụ tài chính và ngân hàng cho hệ thống ngân hàng thương mại và Chính phủ của quốc gia đó. Đồng thời, Ngân hàng Trung ương cũng phát hành đồng tiền của quốc gia đó. Theo Ngân hàng Trung ương châu Âu: "một Ngân hàng Trung ương là một tổ chức công cộng quản lý tiền tệ của một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia và kiểm soát lượng cung tiền - theo nghĩa đen là lượng tiền đang lưu hành. Mục tiêu chính của nhiều Ngân hàng Trung ương là ổn định giá cả. Ở một số quốc gia, các Ngân hàng Trung ương cũng được pháp luật yêu cầu phải hành động để hỗ trợ thị trường việc làm.

Cần nhớ rằng Ngân hàng Trung ương không phải là một ngân hàng thương mại. Một cá nhân không thể mở tài khoản tại một Ngân hàng Trung ương hoặc yêu cầu cấp một khoản vay. Và Ngân hàng Trung ương không bị thúc đẩy bởi mục tiêu lợi nhuận.

Tại sao các Ngân hàng Trung ương lại rất quan trọng?

Chúng ta cần phải ghi nhớ rằng các ngân hàng trung ương rất quan trọng, không chỉ đối với những người tham gia thị trường, mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Ngân hàng Trung Ương chịu trách nhiệm cho sự ổn định giá, và cũng có thể hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hoặc việc làm.

Đối với thị trường tài chính, vai trò của Ngân hàng Trung ương là kiểm soát nguồn cung tiền. Điều này có nghĩa là một chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương hoặc việc thực hiện chính sách tài khóa có thể có tác động đến định hướng của thị trường forex [ngoại hối].

Một trong những công cụ chính của bất kỳ ngân hàng trung ương nào là ấn định lãi suất - còn được gọi là chi phí sử dụng tiền tệ. Khi Ngân hàng Trung ương thay đổi lãi suất, điều này không chỉ ảnh hưởng đến thị trường lãi suất, mà cả thị trường forex [ngoại hối].

Ví dụ: Cục Dự trữ Liên bang Mỹ [Fed] thấy rằng nền kinh tế đang hoạt động tốt, tỷ lệ thất nghiệp thấp, tăng trưởng kinh tế vững chắc và lạm phát đang gia tăng. Trong tình huống này, Fed có thể sẽ tăng lãi suất để ngăn giá tăng quá nhiều. Khi lãi suất cao hơn, chi phí khoản vay trở nên đắt hơn, do đó, ít cá nhân và công ty quan tâm đến việc vay vốn. Điều này sẽ làm tốc độ tăng trưởng chậm lại.

Nhưng làm thế nào điều này ảnh hưởng đến tiền tệ? Trong khi lãi suất cao hơn làm cho các khoản vay hoặc tín dụng trở nên đắt đỏ hơn, tiền gửi sẽ tạo ra nhiều lợi nhuận hơn. Vì vậy các nhà giao dịch có thể mua tiền để có tỷ lệ lợi nhuận cao hơn. Điều này dẫn đến nhu cầu cao hơn đối với đồng đô la, do đó làm cho tiền tệ trở nên đắt hơn. Biểu đồ bên dưới là cách EURUSD phản ứng với chính sách tiền tệ của Fed vào tháng 12 năm 2016.

Tuy nhiên, lãi suất không phải là công cụ duy nhất của Ngân hàng Trung ương. Ngân hàng Trung ương đã phát triển và nhiều biện pháp mới đã được đưa ra sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Ngân hàng Trung ương có thể mua trái phiếu chính phủ hoặc cho các tổ chức tư nhân vay tiền để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng. Hơn nữa, Ngân hàng Trung Ương cũng có thể mua tài sản từ các ngân hàng thương mại để ngăn chúng phá sản. Fed đã thực hiện những chính sách này sau cuộc khủng hoảng và điều này đã giúp khởi đầu sự tăng trưởng trong nhiều năm ở Phố Wall.

Như bạn có thể thấy, các Ngân hàng Trung ương có thể thiết lập xu hướng của thị trường. Tuy nhiên, một số ngân hàng lại có ảnh hưởng hơn những những ngân hàng khác. Sau đây là danh sách các Ngân hàng Trung ương mà các nhà giao dịch thường chú ý.

Các Ngân hàng Trung ương quan trọng nhất 

Có 4 ngân hàng trung ương mà các quyết định của họ có thể có tác động đáng kể đến thị trường tài chính.

  1. Cục Dự trữ Liên bang - Cục Dự trữ Liên bang là Ngân hàng Trung ương của Hoa Kỳ. Ủy ban Thị trường mở Liên bang [FOMC] chịu trách nhiệm về cách thức vận hành thị trường mở có tác động rất quan trọng đối với thị trường tài chính. FOMC tổ chức 8 cuộc họp mỗi năm. Tại các cuộc họp này, Ủy ban xem xét các điều kiện kinh tế và tài chính, xác định lập trường phù hợp của chính sách tiền tệ và đánh giá rủi ro đối với các mục tiêu dài hạn là ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế bền vững. FOMC họp 2 lần một quý và cuộc họp cuối cùng trong mỗi quý sẽ đi kèm một cuộc họp báo và dự đoán kinh tế của FOMC. Các bài phát biểu của Chủ tịch Fed có thể có tác động tương tự như tăng lãi suất hoặc cắt giảm lãi suất. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên chú ý đến phát biểu của các thành viên khác trong ủy ban thiết lập chính sách vì các quyết định của FOMC thường dựa trên sự đồng thuận được tạo ra giữa các thành viên.
  2. Ngân hàng Trung ương châu Âu - Ngân hàng Trung ương châu Âu [ECB] là Ngân hàng Trung ương của Liên minh châu Âu. Đây là Ngân hàng Trung ương của 19 quốc gia thuộc Liên minh châu Âu sử dụng đồng tiền chung euro. Nhiệm vụ chính của ECB là duy trì sự ổn định giá tại khu vực EU, duy trì sức mua của đồng euro. Hội đồng là cơ quan quyết định chính của ECB. bao gồm 6 thành viên Hội đồng và các Thống đốc của Ngân hàng Trung ương quốc gia của 19 quốc gia EU. Hội đồng họp để thảo luận về chính sách tiền tệ mỗi sáu tuần. Mỗi cuộc họp sẽ được tiếp theo sau bởi một buổi họp báo của Chủ tịch. Ngân hàng hiện đang được điều hành bởi Mario Draghi, người nổi tiếng vì đã chấm dứt tình trạng hỗn loạn với tuyên bố của mình rằng ECB sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết để bảo vệ đồng euro.
  3. Ngân hàng Nhật Bản - Như tên gọi của nó, Ngân hàng Nhật Bản [BoJ] là Ngân hàng Trung ương của Nhật Bản. Nhiệm vụ chính của BoJ là duy trì sự ổn định về giá. Tuy nhiên từ những năm 90, nền kinh tế Nhật Bản đã gặp khó khăn. Tốc độ tăng trưởng gần bằng 0 trong khi lạm phát vẫn bị giới hạn và đôi khi chuyển thành giảm phát. Đó là lý do tại sao Ngân hàng Nhật Bản đã đưa ra các biện pháp phi thường nhất trong số các Ngân hàng Trung ương, bao gồm cả lãi suất âm. Các thành viên ngân hàng Nhật Bản họp 8 lần một năm để quyết định phương hướng của chính sách tiền tệ. Thống đốc ngân hàng trung ương là Haruhiko Kuroda, người sẽ xuất hiện tại cuộc họp báo sau mỗi quyết định chính sách tiền tệ.
  4.  Ngân hàng Anh - Ngân hàng Anh [BoE] là ngân hàng trung ương của toàn Vương quốc Anh, không chỉ nước Anh. Mục tiêu chính của nó là duy trì sự ổn định về giá, nhưng sau cuộc bỏ phiếu Brexit, BoE cũng đã sửa đổi lập trường của mình để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Mặc dù không chính thức, Ngân hàng Anh đã nhấn mạnh rằng nó sẽ hỗ trợ nền kinh tế trong thời kỳ Brexit. Các quyết định chính sách tiền tệ được thực hiện bởi Ủy ban chính sách tiền tệ họp tám lần một năm. Về khía cạnh kỹ thuật, các quyết định của BoE cũng tương tự như Fed. Thống Đốc sẽ tổ chức họp báo sau 4 cuộc họp. Tuy nhiên, Ngân hàng Anh sẽ công bố biên cuộc họp mới nhất của mình [một tài liệu mô tả một cuộc thảo luận đã diễn ra trong cuộc họp - nó cung cấp một cái nhìn sâu sắc bổ sung về định hướng chính sách tiền tệ] cùng với một quyết định chính thức. Còn Cục Dự trữ Liên bang sẽ công bố Biên bản 3 tuần sau khi cuộc họp diễn ra. BoE hiện đang được điều hành bởi Mark Carney, người sẽ từ chức khi quá trình Brexit hoàn tất.

Diều hâu và Bồ câu

"Chín người mười ý", do đó, không có gì ngạc nhiên khi các nhà hoạch định chính sách có thể có quan điểm khác nhau về nền kinh tế cũng như chính sách tiền tệ. Các Ngân hàng Trung ương có thể chia thành hai nhóm - diều hâu và bồ câu.

Diều Hâu - Diều hâu là những nhà hoạch định chính sách tập trung vào việc giữ lạm phát ở mức thấp. Đây là ưu tiên hàng đầu của họ. Những Ngân hàng này thích lãi suất cao và thường có chính sách tiền tệ thận trọng hơn để kiểm soát lạm phát. Họ cũng ít lo lắng hơn về tình trạng chung của nền kinh tế.

Bồ câu - Bồ câu là những nhà hoạch định chính sách có thể đánh đổi mức lạm phát cao hơn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hỗ trợ việc làm. Các nhà hoạch định chính sách như vậy thường ưa thích mức lãi suất thấp hơn.

Như bạn có thể thấy, có 2 cách để mô tả lập trường của Ngân hàng Trung ương về chính sách tiền tệ. Nếu một Ngân hàng Trung ương thuộc phe Diều hâu, điều đó có nghĩa là nó muốn tăng lãi suất hoặc có quan điểm lạc quan về nền kinh tế. Ví dụ, chính sách diều hâu của Fed sẽ báo hiệu việc tăng lãi suất, do đó dẫn đến đồng đô la mạnh hơn. Mặt khác, một Ngân hàng Trung ương ôn hòa - hay "bồ câu" thường sẽ có tác động tiêu cực đến tiền tệ vì họ thường không vội vàng trong việc thắt chặt chính sách của mình.

Người có quyền lực lớn nhất trên thị trường

Các Ngân hàng Trung ương có thể được xem là những người quyền lực nhất trên thị trường. Quyết định của họ - hoặc thậm chí là một tuyên bố từ một trong những nhà hoạch định chính sách - có thể có tác động đáng kể không chỉ đối với tiền tệ, mà còn đối với chứng khoán và thị trường trái phiếu. Đó là lý do tại sao một nhà giao dịch thận trọng nên theo dõi chặt chẽ mọi thứ liên quan đến các quyết định chính sách tiền tệ và các quyết định của ngân hàng trung ương.

Nội dung này chỉ được cung cấp mang tính thông tin chung và là tài liệu đào tạo. Bất kỳ ý kiến, phân tích, giá cả hoặc nội dung khác không được xem là tư vấn đầu tư hoặc khuyến nghị được hiểu theo luật pháp của Belize. Hiệu suất trong quá khứ không nhất thiết chỉ ra kết quả trong tương lai và bất kỳ khách hàng quyết định dựa trên thông tin này đều hoàn toàn tự chịu trách nhiệm. XTB sẽ không nhận trách nhiệm đối với bất kỳ tổn thất hoặc thiệt hại nào, bao gồm nhưng không giới hạn, bất kỳ tổn thất lợi nhuận nào, có thể phát sinh trực tiếp hoặc gián tiếp từ việc sử dụng hoặc phụ thuộc vào thông tin đó. Tất cả các quyết định giao dịch phải luôn dựa trên phán quyết độc lập của bạn. 

Xin lưu ý rằng thông tin và nghiên cứu dựa trên dữ liệu lịch sử hoặc hiệu suất không đảm bảo hiệu suất hoặc kết quả trong tương lai.
Đầu tư CFD dùng đòn bẩy sẽ có một tỷ lệ rủi ro đáng kể. Hình thức đầu tư này có thể không phù hợp với tất cả mọi người, vì vậy hãy đảm bảo rằng bạn đã hiểu rõ các rủi ro.

Video liên quan

Chủ Đề