Đặc điểm tổ chức sản xuất của doanh nghiệp xây lắp
Tìm hiểu những khái niệm về sản xuất xây lắp, doanh nghiệp xây lắp, hợp đồng xây dựng. Phương thức nhận thầu xây lắp và những đặc điểm của ngành làm ảnh hưởng đến công các kế toán Show
>>> Xem thêm: Kế toán ủy thác xuất nhập khẩu >>> Có thể bạn quan tâm: Học xuất nhập khẩu 1. Khái niệm kế toán hoạt động xây lắp– Sản xuất xây lắp: Là hoạt động xây dựng mới, mở rộng, cải tạo lại, khôi phục hay hiện đại hóa các công trình hiện có thuộc mọi lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân (như công trình giao thông thủy lợi, các khu công nghiệp, các công trình quốc phòng, các công trình dân dụng khác,….).học báo cáo thuế Đây là hoạt động nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho mọi ngành trong nền kinh tế. – Doanh nghiệp xây lắp: là đơn vị kinh tế cơ sở, là nơi trực tiếp sản xuất kinh doanh, gồm một tập thể lao động nhất định có nhiệm vụ sử dụng các tư liệu lao động và đối tượng lao động để sản xuất ra các sản phẩm xây lắp và tạo nguồn tích lũy cho Nhà nước. – Hợp đồng xây dựng: Là hợp đồng bằng văn bản về việc xây dựng một tài sản hoặc tổ hợp cá tài sản có liên quan chặt chẽ hay phụ thuộc lẫn nhau về mặt thiết kế, công nghệ, chức năng hoặc các mục đích sử dụng cơ bản của chúng. – Hợp đồng xây dựng với giá cố định: Là hợp đồng xây dựng trong đó nhà thầu chấp nhận một giá cố định cho toàn bộ hợp đồng hoặc một đơn giá cố định trên đơn vị sản phẩm hoàn thành. Trong một số trường hợp khi giá cả tăng lên, mức giá đó có thể thay đổi phụ thuộc vào các điều khoản ghi trong hợp đồng. học chứng chỉ kế toán trưởng ở đâu – Hợp đồng xây dựng với chi phí phụ thêm: là hợp đồng xây dựng trong đó nhà thầu được hoàn lại các chi phí thực tế được phép thanh toán, cộng thêm một khoản được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên những chi phí này hoặc được tính thêm một khoản chi phí cố định. học nghiệp vụ kế toán 2. Phương thức nhận thầu xây lắp:Phương thức giao nhận thầu được thực hiện thông qua một trong hai cách sau: a. Giao nhận thầu tòan bộ công trình (tổng thầu xây dựng):Theo phương thức này, một doanh nghiệp xây lắp nhận thầu tất cả các khâu từ khảo sát thiết kế đến việc hoàn chỉnh công trình trên cơ sở luận chứng kinh tế kỹ thuật đã được duyệt do chủ đầu tư giao thầu. Ngoài ra, tổng thầu xây dựng có thể thực hiện thêm các công việc mà chủ đầu tư có thể ủy nhiệm thêm như lập luận chứng kinh tế kỹ thuật, đặt mua thiết bị, giải phóng mặt bằng,…. Tùy theo khả năng, đặc điểm, khối lượng công tác xây lắp mà tổng thầu xây dựng có thể đảm nhận toàn bộ hay giao thầu lại cho các đơn vị nhận thầu khác. b. Giao nhận thầu từng phần: khóa học kế toán ngắn hạn tại tphcmTheo phương thức này, chủ đầu tư giao từng phần công việc cho các đơn vị như: Một tổ chức nhận thầu lập luận chứng kinh tế kỹ thuật của công trình gồm khảo sát, điều tra để lập luận chứng. Một tổ chức nhận thầu về khảo sát thiết kế toàn bộ công trình từ bước thiết kế kỹ thuật và lập tổng dự toán công trình cho đến bước lập bản vẽ thi công và lập dự toán chi tiết các hạng mục công trình. Một tổ chức nhận thầu xây lắp từ công tác chuẩn bị xây lắp và xây lắp toàn bộ công trình trên cơ sở thiết kế kỹ thuật thi công đã được duyệt. chứng chỉ kế toán viên chính Hoặc là theo phương thức này, nhiều tổ chức xây dựng nhận thầu gọn từng hạng mục công trình, từng nhóm hạng mục công trình độc lập do chủ đầu tư giao thầu gọn. Trong trường hợp này, chủ đầu tư có trách nhiệm tổ chức phối hợp hoạt động của các tổ chức nhận thầu và chỉ áp dụng đối với những công trình, hạng mục công trình tương đối độc lập. 3. Đặc điểm ngành xây lắp ảnh hưởng đến công tác kế toán:Sản phẩm xây lắp có đặc điểm riêng biệt khác với ngành sản xuất khác và ảnh hưởng đến tổ chức kế toán: + Công trình xây dựng, vật kiến trúc…có quy mô lớn , kết cấu phức tạp mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất lâu dài. Do vậy, việc tổ chức quản lý và hạch toán nhất thiết san phẩm xây lắp phải lập dự toán ( dự toán thiết kế , dự toán thi công) quá trình sản xuất xây lắp phải so sánh với dự toán , lấy dự toán làm thước đo. Nên học kế toán ở đâu + Được tiêu thụ theo giá trị dự toán xây lắp. Nên tính chất của hàng hoá không được thể hiện rõ (vì đã quy định giá cả, người mua, người bán sản phẩm xây lắp có trước khi xây lắp thông qua hợp đồng giao nhận thầu,…) + Thực hiện cố định tại nơi sản xuất, còn các điều kiện sản xuất ( xe máy, thiệt bị thi công, người lao động …) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Do vậy, Công tác quản lý, sử dụng, hạch toán tài sản vật tư rất phức tạp do ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, thời tiết, và dễ mất mát hư hỏng,… + Thời gian sử dụng sản sản phẩm xây lắp rất lâu dài. Tổ chức quản lý và hạch toán sao cho chất lượng công trình đảm bảo đúng dự toán thiết kế, bảo hành công trình (Bên A giữ lại 3->5% giá trị công trình) 4. Giá trị dự toán xây lắp và giá thành công tác xây lắpMục này đi tìm hiểu hai vấn đề chủ yếu đó là giá trị dự toán xây lắp quản lý nhân sự là gì a. Giá trị dự toán xây lắp:Là giá trị sản phẩm xây lắp được xây dựng trên cơ sở thiết kế kỹ thuật đã được duyệt, các định mức kinh tế kỹ thuật do Nhà nước quy định + phần lãi định mức của doanh nghiệp xây lắp (giá trị dự toán có thuế sẽ cộng thêm thuế GTGT). lớp học đầu tư chứng khoán Giá trị dự toán XL sau thuế của công trình = Giá trị dự toán XL trước thuế + VAT đầu ra 10% + Giá trị dự toán xây lắp trước thuế: Giá được xác định dựa theo mức tiêu hao về vật tư, lao động, sử dụng máy…và mặt bằng giá cả khu vực từng thời kỳ do các cơ quan có thẩm quyền ban hành. Giá trị dự toán trước thuế gồm: Chi phí trực tiếp, chi phí chung và thu nhập chịu thuế tính trước. Chi phí trực tiếp: chi phí dựa trên cơ sở khối lượng công tác lắp đặt và đơn giá xây dựng của công tác XL tương ứng như: CP NVLTT, CPNCTT và CP sử dụng máy thi công. Chi phí chung: được tính theo tỷ lệ % so với trực tiếp dự toán xây lắp (quy định cho từng loại công trình). Thu nhập chịu thuế tính trước: được tính bằng % so với chi phí trực tiếp và CP chung trong dự toán XL (quy định cho từng loại công trình) nên học kế toán thực hành ở đâu b. Giá thành sản phẩm xây lắp:Giá thành dự toán: toàn bộ các chi phí trực tiếp, gián tiếp tạo nên sản phẩm tính theo đơn giá tổng hợp cho từng khu vực và theo các định mức kinh tế kỹ thuật do Nhà nước ban hành để xây dựng công trình XDCB. Giá thành dự toán XL của công trình = Giá trị dự toán XL trước thuê – Thu nhập chịu thuế tính trước Thu nhập chịu thuế tính trước được xác định trên cơ sở lãi định mức trong xây dựng cơ bản được Nhà nước xác định trong từng thời kỳ, cho từng loại công trình Giá thành định mức: Là tổng số các chi phí để hoàn thành một đối tượng xây lắp cụ thể, giá thành định mức được xác định trên cơ sở đặc điểm kết cấu của công trình, phương pháp tổ chức thi công theo các định mức chi phí đã đạt được trong DN đó ở thời điểm bắt đầu thi công công trình. khóa học logistics tại hà nội Giá thành định mức phản ánh mức độ chi phí đã đạt được, nên khi các định mức thay đổi thì giá thành định mức sẽ thay đổi và được tính toán lại cho phù hợp với định mức chi phí đạt được trong từng thời gian. Giá thành thực tế: Là toàn bộ chi phí thực tế đã bỏ ra đẻ hoàn thành công tác xây lắp và được xác định theo số liệu kế toán. Tuỳ theo sự lỗ lực của các đơn vị và các đơn vị có liên quan, mà giá thành thực tế nhỏ hơn hoặc lớn hơn giá thành kế hoạch, giá thành dự toán, giá trị dự toán Bài viết xem nhiều: Chiêu trò lừa đảo ở các trung tâm kế toán
DNNVV được hiểu là các doanh nghiệp có quy mô hoạt động nhỏ, xét về số lao động, quy mô kinh doanh và tổng doanh thu. Theo Nghị định 39/2018/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, DNNVV được phân theo quy mô, bao gồm: doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa. Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 3 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng. Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng. Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng, và không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định. Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 50 người và tổng doanh thu của năm không quá 100 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 50 tỷ đồng, và không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định. Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và tổng doanh thu của năm không quá 200 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, và không phải là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định. Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 300 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, và không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ theo quy định. Lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định căn cứ vào quy định của pháp luật về hệ thống ngành kinh tế và quy định của pháp luật chuyên ngành. Trường hợp hoạt động trong nhiều lĩnh vực, DNNVV được xác định căn cứ vào lĩnh vực có doanh thu cao nhất. Trường hợp không xác định được lĩnh vực có doanh thu cao nhất, DNNVV được xác định căn cứ vào lĩnh vực sử dụng nhiều lao động nhất. Từ khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa nói chung có xu hướng chiếm ưu thế hơn so với các doanh nghiệp lớn. Các doanh nghiệp này có những đặc điểm sau: - Lĩnh vực hoạt động kinh doanh của các DNNVV thường tập trung vào những ngành nghề kinh doanh chính. Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong các doanh nghiệp thường là những nghiệp vụ cơ bản, gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu. - Tổ chức sản xuất kinh doanh, tổ chức bộ máy quản lý của các DNNVV thường linh hoạt, gọn nhẹ. - Quy mô hoạt động kinh doanh, quy mô vốn đầu tư ban đầu không lớn. - Cơ sở vật chất kỹ thuật thường yếu kém, trình độ công nghệ thường đơn giản. Các DNNVV hoạt động trong nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực xây lắp. Các doanh nghiệp xây lắp nhỏ và vừa cũng có những đặc điểm chung của DNNVV và có những đặc trưng riêng: - Các doanh nghiệp xây lắp nhỏ và vừa thường tổ chức các tổ (đội) thi công trực thuộc. Tuy nhiên, các tổ (đội) hầu hết đều hạch toán phụ thuộc với các doanh nghiệp. - Vốn đầu tư thực hiện các công trình xây lắp thi công trong các DNNVV thường không lớn, thời gian thi công không dài do hạn chế về nguồn lực. - Cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ công nghệ của các doanh nghiệp xây lắp nhỏ và vừa còn hạn chế. Các doanh nghiệp này phần lớn phải thuê ngoài MTC để thi công các công trình. 2. Đặc điểm hoạt động sản xuất xây lắp ảnh hưởng đến kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắpSo với các ngành sản xuất khác, ngành xây dựng cơ bản có những đặc điểm về kinh tế - kỹ thuật riêng biệt, thể hiện rõ nét ở sản phẩm xây lắp và quá trình tạo ra sản phẩm của ngành. Điều này đã chi phối đến công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp. Thứ nhất, sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc... có quy mô lớn, kết cấu phức tạp mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất sản phẩm xây lắp lâu dài... Do đó, việc tổ chức quản lý và hạch toán sản phẩm xây lắp phải lập dự toán. Quá trình sản xuất phải so sánh với dự toán, lấy dự toán làm thước đo, đồng thời để giảm bớt rủi ro phải mua bảo hiểm cho công trình xây lắp. Thứ hai, sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thỏa thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu), do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm không thể hiện rõ, chi phí chủ yếu phát sinh trong quá trình cung ứng và quá trình sản xuất. Phù hợp với đặc điểm này, kế toán chỉ tập trung theo dõi và tập hợp chi phí trong quá trình sản xuất. Thứ ba, sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất (xe máy, thiết bị thi công, người lao động...) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý sử dụng, hạch toán tài sản, vật tư rất phức tạp. Thứ tư, sản phẩm xây lắp từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng thường kéo dài. Quá trình thi công được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại chia thành nhiều công việc khác nhau, các công việc thường diễn ra ngoài trời chịu tác động rất lớn của các nhân tố môi trường - như nắng, mưa, lũ lụt,... Đặc điểm này khiến cho kế toán chi phí trở nên khó khăn, đồng thời đòi hỏi việc tổ chức quản lý, giám sát phải chặt chẽ sao cho bảo đảm chất lượng công trình đúng như thiết kế, dự toán. Thứ năm, hoạt động xây lắp được các doanh nghiệp tổ chức thực hiện với nhiều hình thức khác nhau trên cơ sở hợp đồng đã được ký kết với chủ đầu tư. Việc tổ chức thi công được thực hiện dưới sự giám sát chặt chẽ của chủ đầu tư cả về kỹ thuật, chất lượng và tiến độ thi công. Khối lượng công tác xây lắp hoàn thành của từng giai đoạn có thể được các bên liên quan nghiệm thu, xác nhận và thanh toán trên cơ sở quy định của hợp đồng. Thứ sáu, các doanh nghiệp xây lắp thường tổ chức theo hai phương thức khoán, đó là: khoán toàn bộ chi phí (khoán gọn công trình) và khoán theo khoản mục chi phí cho các đơn vị nội bộ trong doanh nghiệp. Khoán toàn bộ chi phí là hình thức đơn vị khoán giao toàn bộ giá trị công trình cho đơn vị nhận khoán. Đơn vị nhận khoán tự tổ chức cung ứng vật tư, tổ chức lao động để tiến hành thi công. Khi công nhân hoàn thành bàn giao quyết toán sẽ được thanh toán toàn bộ giá trị công trình theo giá nhận khoán và nộp cho đơn vị giao khoán một khoản theo quy định. Đơn vị giao khoán là đơn vị có đủ tư cách pháp nhân và đứng ra ký kết hợp đồng lắp đặt, chịu trách nhiệm pháp lý về chất lượng và tiến độ thi công công trình. Khoán theo khoản mục chi phí là hình thức đơn vị giao khoán cho đơn vị nhận khoán nhận các khoản mục chi phí nhất định (thường là chi phí nhân công, vật tư phụ,…), còn các khoản mục còn lại do đơn vị giao khoán tự hạch toán và chịu trách nhiệm giám sát kỹ thuật, chất lượng công trình. Hình thức này áp dụng cho đơn vị nhận khoán là các tổ, đội thi công không đủ điều kiện cung ứng vật tư kỹ thuật, chưa thực hiện hạch toán kinh tế. Khi nhận khoán, bên giao khoán và bên nhận khoán phải lập hợp đồng giao khoán, trong đó ghi rõ nội dung công việc, trách nhiệm, quyền lợi mỗi bên cũng như thời gian thực hiện hợp đồng. Khi hoàn thành công trình, bên nhận khoán bàn giao, sau đó hai bên lập bản quyết toán khoán và thanh lý hợp đồng. Nếu đơn vị nhận khoán được phân cấp quản lý tài chính, có tổ chức bộ máy kế toán riêng, đơn vị nhận khoán phải tổ chức hạch toán kế toán hoạt động nhận khoán, theo dõi chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm, lập báo cáo kế toán theo chế độ hiện hành. Đội trưởng đơn vị nhận khoán phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hoạt động kinh doanh lắp đặt nhận khoán, đảm bảo tuân thủ đúng quy định về chứng từ kế toán, tài khoản kế toán, hệ thống sổ kế toán theo chế độ kế toán hiện hành. Nếu đơn vị nhận khoán không có tổ chức bộ máy kế toán riêng thì tại đơn vị giao khoán, kế toán hạch toán toàn bộ chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Tại đơn vị nhận khoán, nhân viên hạch toán chỉ có nhiệm vụ thu thập các chứng từ kế toán phát sinh ở đơn vị và chuyển về cho kế toán ở đơn vị giao khoán làm cơ sở tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. 3. Kết luậnNhững đặc điểm trên ảnh hưởng rất lớn đến kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp. Công tác kế toán vừa phải đáp ứng yêu cầu chung về chức năng, nhiệm vụ kế toán của một doanh nghiệp sản xuất, vừa phải đảm bảo phù hợp với đặc thù của loại hình doanh nghiệp xây lắp. TÀI LIỆU THAM KHẢO: [1] Bộ Tài chính (2009), 26 chuẩn mực kế toán Việt Nam và toàn bộ thông tư hướng dẫn các chuẩn mực, NXB. Thống kê, Hà Nội. [2] Học viện Tài chính (2010), Giáo trình kế toán doanh nghiệp xây lắp, NXB. Tài chính, Hà Nội. [3] Tăng Thị Bình - Lê Thị Huyền (2016), Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa, NXB. Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. [4] Website: http://www.xaydung.gov.vn/
|