Chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa

Sáng 15/12, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự và phát biểu chỉ đạo Hội nghị ngoại giao 31 với chủ đề “Ngoại giao tiên phong, toàn diện, hiện đại, chủ động, thích ứng, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”.

Tham dự hội nghị có Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh; các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng; lãnh đạo các ban, bộ, ngành, đoàn thể trung ương; nguyên lãnh đạo Bộ Ngoại giao qua các thời kỳ và hơn 70 đại sứ, trưởng Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; đại diện lãnh đạo tổng công ty, hiệp hội doanh nghiệp và một số tập đoàn lớn...

Hội nghị diễn ra dưới hình thức trực tiếp và trực tuyến đến 63 tỉnh, thành. Tại điểm cầu Hà Tĩnh, Giám đốc Sở Ngoại vụ Thái Phúc Sơn chủ trì hội nghị.

Toàn cảnh hội nghị. Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Hội nghị Ngoại giao lần thứ 31 là sự kiện hết sức có ý nghĩa nhằm quán triệt tinh thần, nội dung Nghị quyết Đại hội XIII và các kết luận, chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc đối với toàn ngành ngoại giao cũng như các cơ quan đối ngoại, ngoại vụ ở các địa phương.

Với tinh thần trách nhiệm cao và phát huy trí tuệ tập thể, ngành ngoại giao sẽ đề ra kế hoạch, chương trình, nhiệm vụ, biện pháp cụ thể, thiết thực để triển khai công tác đối ngoại.

Tại điểm cầu Hà Tĩnh, Giám đốc Sở Ngoại vụ Thái Phúc Sơn chủ trì hội nghị.

Tại báo cáo, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh: Ngành ngoại giao đã kiên trì nguyên tắc, kiên định mục tiêu: chủ động, linh hoạt, sáng tạo khắc phục khó khăn, vượt qua thử thách để triển khai đồng bộ các nhiệm vụ trọng yếu của đối ngoại. Từ đó, đã đạt được những kết quả quan trọng và toàn diện.

Tại hội nghị, lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương, các đại sứ, cán bộ ngoại giao cũng tập trung đánh giá xu thế của tình hình thế giới, thời cơ và thách thức đối với Việt Nam trong giai đoạn tới. Theo đó, đề xuất một số mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, định hướng nhằm triển khai hiệu quả ngoại giao phục vụ phát triển, phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại phục vụ các mục tiêu phát triển đất nước.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu chỉ đạo hội nghị. Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Phát biểu tại hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định, hội nghị Ngoại giao 31 có ý nghĩa đặc biệt, diễn ra ngay sau Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII.

Tại hội nghị này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu chỉ đạo hết sức toàn diện và sâu sắc, đúc rút từ lý luận và thực tiễn về những thành tựu, bài học của ngành ngoại giao trong thời gian qua; đồng thời, quán triệt và cụ thể hóa đường lối đối ngoại của Đại hội XIII thành những định hướng lớn để toàn hệ thống chính trị tập trung triển khai.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tập thể cán bộ, đảng viên của ngành ngoại giao cần tiếp tục quán triệt sâu sắc các chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thiết thực, khả thi nhằm tạo nên bước chuyển biến mới trong công tác của ngành ngoại giao, đóng góp xứng đáng vào thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Thủ tướng Chính phủ cũng bày tỏ sự băn khoăn, trăn trở về một số mặt hoạt động như: việc nghiên cứu chiến lược, xây dựng cơ sở dữ liệu đầy đủ, toàn diện; ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển bền vững, chuyển từ phát triển theo chiều rộng sang chiều sâu cần cố gắng hơn; chưa phát huy được hết tiềm năng hợp tác kinh tế tại một số địa bàn chiến lược; số lượng cán bộ làm việc trong các tổ chức quốc tế còn khiêm tốn; cơ sở vật chất, điều kiện làm việc còn hạn chế… Đồng thời, bày tỏ chia sẻ, cảm thông với đội ngũ những người làm công tác ngoại giao về những khó khăn, thử thách trong dịch bệnh COVID-19, nhất là một số cán bộ, nhân viên tại các sứ quán nhiễm COVID-19.

Về nhiệm vụ trong năm 2022 và 2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đề nghị ngành ngoại giao cần đánh giá đúng tình hình, cơ hội và thách thức trong công tác đối ngoại. Trong đó, lưu ý một số vấn đề như: cạnh tranh chiến lược, nhất là tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Biển Đông; tác động của đại dịch COVID-19; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; các thách thức về biến đổi khí hậu, nước biển dâng, già hóa dân số, sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường…

Trước mắt, cả nước tiếp tục tập trung thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra; thực hiện công tác phòng, chống dịch COVID-19 hiệu quả và khôi phục, phát triển KT-XH; giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân; làm cho Nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc.

Thủ tướng nêu rõ trên tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, phải bảo đảm mức cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc; kiên định triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn tốt, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Theo đó, với phương châm “tình cảm, chân thành, tin cậy, bình đẳng, tôn trọng, hiệu quả, cùng phát triển”, công tác ngoại giao triển khai 3 trụ cột: ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa.

Họ là 10 người trẻ xuất sắc nhất trên các lĩnh vực học tập, khoa học sáng tạo, lao động sản xuất, quốc phòng, an ninh trật tự, thể dục thể thao, văn hóa nghệ thuật vừa được xướng tên Gương mặt trẻ Việt Nam tiêu biểu 2021.

MỤC LỤCTrangMỞ BÀINếu muốn tồn tại thì cách duy nhất đối với mọi cá thể là hòa nhập với cộngđồng, cùng nhau vận động, giao lưu và phát triển, với một đất nước cũng vậy. Từkhi đất nước chưa thống nhất, Đảng và Nhà nước đã đều xác định nước ta là một bộphận không thể tách rời của thế giới, gắn liền với tiến trình phát triển của thế giới.Cô lập mình với thế giới chính là cánh cửa dẫn tới sự diệt vong của quốc gia. ViệtNam chúng ta đã từng có một thời kỳ như vậy, chỉ bó hẹp quan hệ với các nước xãhội chủ nghĩa mà không quan tâm đến tình hình của các nước khác cũng như thếgiới nói chung, bị bao vây, cô lập bởi chính các nước trong khu vực. Nhưng rấtmay, Đảng ta đã có những điều chỉnh kịp thời trong chính sách ngoại giao, giúpđưa đất nước thoát khỏi tình thế đó. Trong đó phải kể đến Chủ trương về đaphương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại của Đảng ta lúc bấy giờ.A.I.1.NỘI DUNGHoàn cảnh lịch sửTình hình thế giớiTừ giữa những năm 80 của thế kỷ XX tình hình thế giới có nhiều biến động.cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng đã tác động sâu sắcđến nền kinh tế thế giới. Xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hòahoãn giữa các nước lớn. Các nước đang phát triển cũng dần đổi mới chính sách đốingoại, thực hiện chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế đểtranh thủ sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật và công nghệ. Hai xu hướng toàn cầu hóa vàkhu vực hóa cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách ngoại giao củacác nước, trong đó có các nước Đông Nam Á.Trong khi đó, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâusắc. Đến đầu những năm 90, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổhoàn toàn. Trật tự thế giới hai cực theo đó cũng tan rã, mở ra thời kỳ mới với việchình thành trật tự thế giới đa cực.Tư duy về sức mạnh trên thế giới cũng có sự thay đổi. Sức mạnh của một quốcgia không chỉ bó hẹp ở mặt quốc phòng, chính trị, quân sự mà phải là tổng thể củasự phát triển tất cả các mặt: kinh tế, văn hóa – xã hội, khoa học công nghệ,… trongđó, kinh tế phải được đặt lên vị trí hàng đầu.Những thành tựu của cuộc cách mạng kỹ thuật và công nghệ thông tin trongnhững năm cuối thế kỷ 20 đã làm tăng tốc sự phát triển của lực lượng sản xuất,đưaloài người từ xã hội công nghiệp sang xã hội hậu công nghiệp và đang bướcvàongưỡng cửa của xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức. chính sự phát triểnmạnh mẽnày, về khách quan đã dặt ra yêu cầu mở rộng thị trường lên một tầmmức mới,bằng những phương cách mới. Quan hệ kinh tế vượt qua rào cản về địa lí lan ratoàn cầu. Hàng hóa, tiền tệ, thông tin,… lưu thông khắp các nước. Hình thànhmạng lưới kinh tế đa chiều.2.Tình hình trong nước và những tác động của tình hình thế giới đến việc hình thànhchính sách đổi mớiTrước đổi mới do không nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc hội nhậpquốc tế và thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới, chưa bắt kịpvowisxu hướng quốc tế mà Việt Nam vẫn trong thế bị bao vây, cô lập. Lấy cớ “Sựkiện Campuchia”1 các nước ASEAN và một số nước khác thực hiện cấm vận chúngta; Mỹ ba lần phủ quyết chúng ta gia nhập Liên hợp quốc… bị cô lập lại bị các thếlực thù địch chống phá, cộng với các chính sách phát triển sai lầm, không phù hợpvới hoàn cảnh khiến nước ta lâm vảo cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêmtrọng.Những biến động của tình hình thế giới cũng tác động sâu sắc đến nhận thức vàtư duy của Đảng, là cơ sở cho sự đổi mới các chính sách. Đặc biệt sự sụp đổ của hệthống xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô là bài học quý giá cho chúng ta. Đảngnhận định rằng sự sụp đổ đó không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nóichung mà là sự sụp đổ của một mô hình xã hội chủ nghĩa đã bị biến dạng, mangnhiều khuyết tật. Từ đó Đảng đã rút ra nhiều kinh nghiệm cho công cuộc xây dựngchủ nghĩa xã hội ở nước ta.Đối với xu hướng toàn cầu hóa, Đảng khảng định: toàn cầu hóa là một xu thếkhách quan, có cả mặt tích cực và tiêu cực. Chúng ta cần phải tham gia quá trìnhtoàn cầu hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực nhưng vẫn đảm bảođộc lập, tự chủ.Xuất phát từ tình hình cụ thể trong và ngoài nước và nhu cầu phát triển củanước ta, những đánh giá về cục diện thế giới và khu vực nói trên, tại Đại hội đạibiểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra vào tháng 12/1986, Đảng ta bắt đầu đãcó những đổi mới sâu sắc và mang tính chiến lược về đường lối và chính sách đốingoại, đó là đường lối đổi mới xã hội về mọi mặt. Đại hội VIII của đảngchủ trương“đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại”. Cụ thể như sau:Nội dung đường lối đối ngoại thời kì đổi mới1. Những nội dung chínhCó thể nêu ra một số chủ trương, chính sách lớn được đề cập trong các văn kiệnII.-của Đảng liên quan đến đối ngoại như:Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững;Mở rộng thêm các quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa;Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp;Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các-nguyên tắc, quy định của WTO;Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước;Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập-kinh tế quốc tế;Giải quyết các tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội-nhập;Tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực an sinh xã hội như giáo dục, bảo-hiểm, y tế, từ đó đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo;Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập;Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại-nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại;Đối mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đối với cáchoạt động đối ngoại.2. Chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoạiTrong đường lối ngoại giao thời kì đổi mới của Đảng không thể không nhắc đếnchủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại. Đây là một trongnhững chủ trương quan trọng, thể hiện rõ nét sự đổi mới của Đảng trong quan điểmvà tư duy về công tác đối ngoại. Có thể nói việc đa phương hóa, đa dạng hóa cácquan hệ đối ngoại là cơ sở tiền đề để chúng ta thực hiện được các chủ trương khácnhư hội nhập kinh tế quốc tế hay nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.a. Nội dungTrước thời kì đổi mới, chúng ta đánh giá các quốc gia, các dân tộc khác chỉ đơnthuần theo tiêu chí chính trị; cách mạng và phản cách mạng, xã hội chủ nghĩa vàphi xã hội chủ nghĩa, tốt và xấu, bạn và thù; có khuynh hướng đánh giá một cáchchủ quan về sức mạnh tuyệt đối của chủ nghĩa xã hội mà không nhận thấy chủnghĩa tư bản với khoa học công nghệ đã và đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt lànền kinh tế. Do đó, Đảng chủ trương tập trung phát triển quan hệ ngoại giao với cácnước trong khu vực Đông Nam Á và các xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô – coiquan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách ngoại giao. Điều này khiếncho quan hệ đối ngoại của Việt Nam bị bó hẹp trong hệ thống xã hội chủ nghĩa vàtrong khu vực.Tại Đại hội VI, lần đầu tiên Đảng đặt cơ sở cho việc mở rộng quan hệ kinh tế rangoài các nước xã hội chủ nghĩa bằng chủ trương: “Chúng ta cần tranh thủ nhữngđiều kiên thuận lợi mới về hợp tác kinh tế và khoa học kĩ thuật, tham gia ngày càngrộng rãi việc phân công và hợp tác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đồng thờitranh thủ mở rộng quan hệ với các nước khác”. Triển khai chính sách này, tháng12/1987, ta đã ban hành Luật đầu tư nhằm thu hút vốn từ các nước trên thế giới,không phân biệt chế độ chính trị - xã hội. Đại hội VI cũng đưa ra nhiều điều chỉnhquan trọng khác trong đó có chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.Đây là những chủ trương mở đầu cho quá trình đa phương hóa, đa dạng hóa cácquan hệ đối ngoại.Nối tiếp tinh thần của Đại hội VI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 Khóa VIItháng 6/1992 về chính sách đối ngoại là một Nghị quyết hết sức quan trọng, đã cơbản hoàn chỉnh đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của nước ta. Mục tiêu đốingoại của ta là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác tạo điềukiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc,đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòabình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Để thực hiện được mục tiêu đómột trong những việc chúng ta cần làm đó là đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạnghóa các quan hệ quốc tế song song với giữ vững nền độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ,phát huy cao độ nội lực là nền tảng để phát triển các quan hệ quốc tế và hội nhậpquốc tế. độc lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập, trái lại, phải mở rộng, đa dạnghóa và đa phương hóa các quan hệ quốc tế, xây dựng được thế đứng vững chắc trêntrường quốc tế.Chúng ta mở rộng quan hệ đối ngoại theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủquyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực;giải quyết các mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình; không can thiệp vào công việcnội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.Chúng ta mở rộng quan hệ với mọi quốcgia và mọi vùng lãnh thổ trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị - xã hội và ýthức hệ; trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học – công nghệ, văn hóa, giáodục, y tế, quốc phòng, an ninh,…; cả quan hệ song phương và đa phương; cả quanhệ ngoại giao của Quốc hội, Chính phủ, quan hệ đối ngoại của Đảng và đối ngoạinhân dân. Chúng ta coi trọng phát triển quan hệ hòa bình, hợp tác, hữu nghị với cácnước lánh giềng, khu vực, mở rộng quan hệ ngày càng sâu, ổn định, bền vững vớicác nước lớn, các trung tâm kinh tế - tài chính quốc tế lớn là những lực lượng ảnhhưởng đáng kể đến an ninh và phát triển của nước ta. Đồng thời ta không xem nhẹphát triển quan hệ với các nước khác, các nước bè bạn truyền thống, các lực lượngcách mạng và tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình và công lí trên thế giới.Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng tháng 6/1996 quyết định đẩy nhanh tiến trìnhhội nhập kinh tế quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại sang phục vụ phát triển kinh tếlà chủ yếu và Nghị quyết Đại hội IX tháng 4/2001 nâng lên một mức cao hơn, chủtrương “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồngquốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.Từ chính sách đối ngoại chủ yếu dựa vào Liên Xô và các nước Xã hội chủnghĩa, ta đã chuyển sang chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hóa, đa dạnghóa các quan hệ quốc tế, với phương thức tập hợp lực lượng rất linh hoạt, theo từngvấn đề và từng thời điểm cụ thể. Trong quan hệ quốc tế, chúng ta không đơn giảnphân định địch – ta, thù – bạn mà nhận định một cách biện chứng hơn: những aichủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ bình đẳng,cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âmmưu và hoạt động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng vàbảo vệ tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cầntranh thủ hợp tác; trong một số đối tác quan trọng nhưng vẫn có thể có sự khác biệt,mâu thuẫn với lợi ích của ta thì vẫn phải đấu tranh; xác định đối tương, đối tác tùytheo tình huống, hoàn cảnh, tránh mơ hồ, cứng nhắc.Với chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa trong các quan hệ ngoại giao củaĐảng, chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất định cũng như gặp phải một sốhạn chế.b. Kết quả- Thành tựuTa đã phá được thế đất nước bị bao vây, cấm vận, cô lập; thiết lập quan hệ ngoạigiao với hầu hết các nước trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị, trên mọiphương diện từ chính trị, kinh tế đến an ninh, quốc phòng.Đến nay, VIệt Nam đã có quan hệ ngoại giao khoảng 180 quốc gia3[tính đến hếtnăm 2013], có quan hệ thương mại với gần 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thànhviên tích cực của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Chúng ta đã có 98 cơ quan đạidiện tại các quốc gia và vùng lãnh thổ khắp 5 châu lục trên thế giới.. Thế và lực củađất nước ngày càng vững mạnh, vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tếđược nâng cao hơn bao giờ hết. Tất cả đều là minh chứng cho chủ trươngđa dạnghóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế.Ta đã đi từ bình thường hóa quan hệ đến xác lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâudài với các nước lớn như Trung Quốc, Mỹ, Liên minh châu Âu. Nhìn chung, quanhệ giữa ta với các nước lớn đã có những tiến bộ rõ rệt. Việt Nam hiện nay dướichính thể Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn180 nước thuộc tất cả các châu lục và có quan hệ bình thường với tất cả các nướclớn. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao dân tộc, chúng ta đã đảm nhiệmthành công cương vị ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốcnhiệm kỳ 2008-2009 và Chủ tịch ASEAN năm 2010Trong số các nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao, Việt Nam đã tuyên bố thiếtlập quan hệ đối tác chiến lược với 10 quốc gia gồm: Liên bang Nga [2001], NhậtBản [2006], Ấn Độ [2007], Trung Quốc [2008], Hàn Quốc, Tây Ban Nha [2009],Vương quốc Anh [2010], Đức [2011], Ý [2013]. Trong đó mối quan hệ như vớiTrung Quốc và Nga đã được nâng lên tầm đối tác chiến lược toàn diện….2 Từ năm2009, Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với Úc. Cả Pháp và ViệtNam cũng thống nhất sẽ sớm nâng quan hệ song phương lên tầm đối tác chiến lượcthậm chí là Việt Nam cũng có ý định tương tự với Mỹ và một vài quốc gia trongkhu vực Đông Nam Á. Các nước lớn, trong đó có cả Mỹ, đều đã cử nguyên thủsang thăm chính thức nước ta và các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhànước ta ngược lại cũng đã đi thăm chính thức các nước đó. Với Trung Quốc, ta đãký Tuyên bố chung, Thông cáo chung Việt Nam – Trung Quốc với phương châm“láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. VớiMỹ, ta đã ký Hiệp định Thương mại Việt Nam – hoa kỳ và nhiều văn bản hợp táckhác. Ta cũng đã ký Hiệp định về hợp tác với Liên minh châu Âu, Tuyên bố vềquan hệ đối tác chiến lược với Nga và Khuôn khổ quan hệ đối tác tin cậy và ổnđịnh lâu dài với Nhật Bản.Trong khu vực, việc rút quân tình nguyện khỏi Campuchia và chủ động thamgia giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia là bước đi lớn, tạo tiền đề thuận lợiđể gia nhập ASEAN. Các vấn đề về biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước trongkhu vực như Philippine, Thái Lan, Malaysia…phần lớn cũng được chúng ta giảiquyết trong hòa bình bằng các biện pháp ngoại giao, góp phần xây dựng một khuvực Đông Nam Á hòa bình, ổn định và thịn vượng lâu dài. Đồng thời cùng vớiASEAN, chúng ta cũng tích cực giải quyết các tranh chấp trên biển Đông vớiTrung Quốc.Trong lĩnh vực kinh tế, việc mở rộng quan hệ với nhiều nước, đặc biệt là cácnước lớn đã giúp chúng ta tranh thủ được nhiều nguồn vốn ODA và FDI, mở rộngthị trường ngoài nước, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 2011, giải ngânODA của Việt Nam đạt 3,65 tỷ USD. Con số này chỉ chiếm chưa đầy một nửa sốvốn 7,9 tỷ USD cam kết tại Hội nghị CG năm 2010, nhưng đã tăng 10% so với mứcgiải ngân hơn 2,9 tỷ USD của năm 2010. Tại Hội nghị CG tháng 12/2011, các nhàtài trợ tiếp tục cam kết cho Việt Nam trong năm tài khoá 2012 là 7,4 tỷ USD.Không chỉ vậy, chúng ta còn tiếp thu các kĩ thuật khoa học, công nghệ tiên tiến củanước ngoài để áp dụng vào trong nước, tăng sức sản xuất và cạnh tranh cho cácdoanh nghiệp trong nước. Tất cả là động lực to lớn thúc nền kinh tế của chúng takhông ngừng phát triển với tốc độ nhanh chóng trong suốt thời gian qua, kể từ khiĐảng thực hiện chính sách đổi mới. Theo thống kê của viện chiến lược và chínhsách tài chính, tốc độ tăng trưởng kinh tế của chúng ta tăng tương đối đồng đều quácác năm, nhất là về cuối năm. GDP cả nước năm 2011 tăng 5,89% ; quy mô nềnkinh tế ước đạt 119 tỷ USD, với mức GDP bình quân đầu người đạt 1.300USD/năm.- Khó khănNhững thực tế trên đã chứng tỏ đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng là đúngđắn, thể hiện sự trưởng thành về nhận thức, quan điểm. Tuy nhiên không phải làkhông có những khó khăn, thử thách mà chúng ta phải đối mặt.+ Thứ nhất, cùng với quá trình mở rộng quan hệ ngoại giao những lo ngại về anninh trong nước cũng gia tăng với nhiều mầm mống nguy hại như sự can thiệp từbên ngoài, các lực lượng khủng bố, cực đoan…+ Thứ hai, trong quan hệ với các nước, đặc biệt là các nước lớn, chúng ta cònlúng túng, bị động, dễ bị chi phối, áp đặt. Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế cũngđem lại nhiều thách thức cho nền kinh tế trong nước như sự cạnh tranh của hàngngoại, hàng giả, hàng nhái…+ Thứ ba, việc mở rộng giao lưu văn hóa khiến du nhập vào Việt Nam nhiềuyếu tố văn hóa không lành mạnh, không phù hợp với văn hóa truyền thống ngườiViệt, thậm chí còn mang tính chất phản động.Và còn rất nhiều khó khăn, thách thức nữa chờ chúng ta khi tiến hành mở rộngquan hệ ngoại giao, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, đòi hỏi Đảngphải thật tỉnh táo, đúng đắn khi đề ra các chính sách, đường lối tiếp theo.B.KẾT BÀIChủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại là một trong sốcác chủ trương được đề ra và thực hiện trong suốt thời gian qua. Tuy còn bộc lộnhững hạn chế, nhưng nó vẫn đóng góp một phần to lớn vào quá trình thực hiệnđường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 1986 đến nay. Có ý nghĩa rấtquan trọng: góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nền kinhtế Việt Nam có bước phát triển mới; thế và lực của Việt Nam được nâng cao trênthương trường cũng như chính trường quốc tế. Các thành tựu đối ngoại trong suốtquá trình qua đã chứng minh đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế nóichúng, chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại nói riêng củaĐảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới là đúng đắn và sáng tạo.CHÚ THÍCH1. Sự kiện campuchiaNội chiến Campuchia là cuộc chiến giữa lực lượng của Đảng Cộng sản Campuchia [được biết đếnvới tên gọi Khmer Đỏ] và đồng minh của họ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộcGiải phóng miền Nam đối chọi với lực lượng chính phủ Campuchia [và sau tháng 10 năm 1970 làCộng hòa Khmer], được Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa hỗ trợ.Cuộc nội chiến này cũng dẫn đến cuộc diệt chủng Campuchia, một trong số các cuộc diệt chủngđẫm máu nhất trong lịch sử.Tìm hiểu thêm tại //vi.wikipedia.org/wiki/N%E1%BB%99i_chi%E1%BA%BFn_Campuchia2. Cập nhật số liệu từ //vi.wikipedia.org/wiki/Quan_h%E1%BB%87_ngo%E1%BA%A1i_giao_c%E1%BB%A7a_Vi%E1%BB%87t_Nam3. Cổng thông tin điện tử sở ngoại vụ //haiphong.gov.vn/Portal/Detail.aspx?Organization=SNV&MenuID=441&ContentID=189284.5.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO1.Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản2.Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009.Hội đồng biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mác-Lênin, tưtưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb.3.CTQG, Hà Nội, 2004.Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam4.[hệ trung cấp], Nxb. CAND, Hà Nội, 2001.Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam tại Đại hộiđại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Văn kiện Đại hội Đảng thời kì đổi5.mới [Đại hội VI, VII, VIII, IX], Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.Báo cáo chính trị của BCH Trung ương [khoá VII], Văn kiện Đại hội Đảng6.thời kì đổi mới [Đại hội VI, VII, VIII, IX], Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.Báo cáo chính trị của BCH Trung ương khoá VII tại Đại hội đại biểu toànquốc lần thứ VIII của Đảng, Văn kiện Đại hội Đảng thời kì đổi mới [Đại hội7.VI, VII, VIII, IX], Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Văn kiện Đại hội Đảng thời8.9.kì đổi mới [Đại hội VI, VII, VIII, IX], Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.Trang web: //www.cpv.org.vnTrang web://tapchicongsan.org.vn/Home/The-gioi-van-de-su-kien/2008/3089/Xu-theda-dang-hoa-da-phuong-hoa-hoi-nhap-khu-vuc.aspx10.Trang web://luanvan.net.vn/luan-van/tieu-luan-van-de-da-phuong-hoa-da-danghoa-trong-chinh-sach-doi-ngoai-cua-nuoc-ta-58407/

Video liên quan

Chủ Đề