Chiến khu Việt Bắc là gì

Di tích lịch sử đồi Khau Tý - nơi ở và làm việc đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại ATK Định Hóa - nằm trong khuôn viên đẹp, được quản lý và chăm sóc chu đáo. Ảnh: T.L

“Qua Đu, tới Đuổm, lên Trào/Rẽ qua phố Ngữ thì vào Chợ Chu”. Trên suốt dọc đường từ T.P Thái Nguyên về thủ đô gió ngàn ATK Định Hóa, câu ca ấy vẳng trong tôi như thôi thúc, gọi mời. Lại như dẫn dụ để tôi cũng như bao người không bị lạc bước trên hành trình về miền quê cách mạng, với rừng cọ, đồi chè đầy sức sống được ấp ôm bởi những cung đường mượt mềm trải dài trên khắp vùng quê. 

Kháng chiến trường kỳ gian khổ, để những tên làng, tên đất như: Khau Tý [Điềm Mặc]; Khuôn Tát [Phú Đình]; Bảo Biên [Bảo Linh], Làng Quặng [Định Biên]... trở thành nơi về nguồn của con dân đất Việt, là địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống, khơi niềm tự hào cho các thế hệ cháu con. Tất cả các địa danh ấy gắn liền với cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, trở thành một bộ phận của quần thể di tích “Chiến khu Việt Bắc”, được các nhà sử học đánh giá là quan trọng bậc nhất của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. 

Sử sách ghi rõ: Việt Bắc - một vùng núi hiểm trở gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, trong đó các huyện Sơn Dương, Chiêm Hóa, Na Hang, Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương, Chợ Đồn, Chợ Rã đã được chọn làm an toàn khu kháng chiến [ATK]. Do có các lợi thế về vị trí địa lý, nhân dân có truyền thống yêu nước nên trong cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám [1939-1945], Việt Bắc được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng lựa chọn làm căn cứ địa cách mạng.

Năm 1941, Bác Hồ về Pác Bó, tỉnh Cao Bằng. Cũng trong thời gian đầu năm 1941, tại khu rừng Khuổi Nọi, xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn, Đội Cứu quốc quân I được thành lập, đội gồm 32 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Lương Văn Tri, Ủy viên Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ làm Chỉ huy trưởng. Ngày 22/12/1944, vùng đất huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng chứng kiến sự ra đời của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Đây là lực lượng cách mạng đầu tiên của Việt Nam có vũ trang, là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, gồm 34 chiến sĩ, biên chế thành 3 tiểu đội. 

Một trong những sự kiện quan trọng của cách mạng Việt Nam là trước ngày diễn ra sự kiện đồng chí Võ Nguyên Giáp, Chỉ huy trưởng Bộ Tư lệnh Giải phóng quân Việt Nam từ Tân Trào [Tuyên Quang] dẫn quân qua Thái Nguyên, về Hà Nội giành chính quyền từ tay thực dân xâm lược là quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang toàn quốc thành thành Việt Nam Giải phóng quân.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã tác động, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa; làm cho các thế lực đế quốc và bọn phản động quốc tế hết sức lo sợ, tìm mọi cách chống phá hòng thủ tiêu Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhưng với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, ngày 23/9/1945 được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai, rồi mở rộng đánh chiếm Nam bộ và Nam Trung bộ, tìm cách đưa quân ra Bắc bộ, đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, Hải Dương, gây nhiều vụ xung đột, khiêu khích ở Hà Nội. 

Trung ương Đảng, Chính phủ đã chủ động đàm phán với Pháp để tránh cuộc chiến tranh, giữ hòa bình cho cả hai dân tộc, rồi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946, sau đó ký Tạm ước ngày 14/9/1946. Nhưng giới cầm quyền thực dân đã khước từ mọi nỗ lực cứu vãn hòa bình của Việt Nam. Quân Pháp bất chấp những thiện chí hòa bình, nổ súng gây hấn nhiều nơi, đòi để cho chúng làm nhiệm vụ giữ gìn trị an ở Hà Nội. 

Tình thế đó buộc Đảng, Chính phủ và nhân dân ta không có lựa chọn nào khác là cầm vũ khí đứng lên chiến đấu toàn quốc để bảo vệ độc lập dân tộc. Đến tháng 3-1947, cơ quan của Đảng, Chính phủ, Quân đội, Mặt trận đã được chuyển lên Việt Bắc an toàn. Việt Bắc trở thành Thủ đô của kháng chiến. Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Chính phủ đã đưa ra nhiều quyết sách quan trọng liên quan đến vận mệnh dân tộc.

Du khách đến thăm lán Khuôn Tát, Chủ tịch Hồ Chí Minh ở, làm việc trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1947-1954.

Ông Bùi Huy Toàn, Trưởng Ban Quản lý Khu Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa tự hào: Việt Bắc được Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn làm ATK cho cuộc kháng chiến trường kỳ, vì ở đây “Có nhân dân tốt, có cơ sở chính trị tốt”; đây cũng là vùng đất hiểm trở, có núi rừng bao bọc, thuận tiện cho việc bài binh bố trận: “Tiến có thể đánh, lui có thể giữ”. 

Trong thời gian ở, làm việc tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí trong Bộ Chính trị đưa ra nhiều chiến lược, sách lược quan trọng quyết định đến vận mệnh đất nước. Đặc biệt là việc thông qua phương án tác chiến, tấn công chiến lược Đông Xuân 1953-1954. Tại mái lán Tỉn Keo, ngày 6/12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. 

Đã có lúc tôi tự hỏi lòng mình: “Cái” giọng nói hồn nhiên trong như nước suối đầu nguồn Khuôn Tát của cô gái Tày [Hướng dẫn viên Ban Quản lý Khu di tích], hay mảnh nhiều dấu tích lịch sử đã hút hồn tôi? Có lẽ là cả hai lý do ấy đã hối thúc, tạo động lực cho tôi, cũng như bao người tìm về với thủ đô gió ngàn Định Hóa. 

Trong số những người tìm về, có những người rất đặc biệt. Đặc biệt vì họ được sinh ra, gắn bó tuổi thơ ở núi rừng Việt Bắc trong giai đoạn đất nước 9 năm trường kỳ kháng chiến. Bà Hạ Chí Nhân, con gái nhà cách mạng Hoàng Quốc Việt là một trong số đó. Bà kể: Tôi cất tiếng khóc chào đời ở bản Mua [Điềm Mặc]. Tôi cũng như những bé em là con của các đồng chí cán bộ Trung ương, những người thân cận từng làm việc với Bác Hồ ở Chiến khu Việt Bắc thường được Bác ẵm bế, cho ăn. Hạ Chí Nhân là cái tên Bác Hồ đặt cho khi tôi đầy tháng tuổi. 

Bà kể cho tôi nghe câu chuyện này bên đồi Khau Tý, lần bà cùng gia đình về thăm ATK từ cách nay 9 năm. Hôm ấy còn có bà Nguyễn Minh Thu. Bà Thu là con gái của cụ Nguyễn Thị Bích Thuận, chiến sĩ cảnh vệ. Cụ Thuận sinh bà Thu ở Điềm Mặc. Bà Thu không nói nhiều về mình bà lấy tập ảnh trong chiếc túi xách tay ra cho tôi xem. Bà nở nụ cười phúc hậu, bảo: Em bé trong bức ảnh mà Bác Hồ đang bón xôi cho ăn là bà bây giờ đấy… Vậy mà đã mấy mươi năm đi qua cuộc đời, những tuổi thơ của thời đất nước 9 năm trường kỳ kháng chiến đã là các bậc cao lão, có cháu gọi bà, gọi cụ. 

Nhắc nhớ chuyện xưa, không khí của một thời đất nước kháng chiến như được hâm nóng lại... Thời bấy giờ đồng bào Định Hóa sẵn sàng nhường nhà làm chỗ đóng quân. Ai nấy không tiếc công, của, tích cực đóng góp, ủng hộ được hàng chục vạn ngày công, hàng chục vạn mét vải, hàng vạn tấn gỗ, củi, hàng chục vạn cây tre, nứa, lá cọ… để làm hầm hào, xây dựng lán trại, kho tàng, công xưởng sản xuất vũ khí và phục vụ chiến đấu. Đồng bào tích cực tham gia công tác phòng gian bảo mật, thực hiện 3 không: “Không biết, không nghe, không thấy”… 

Sau kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, 16/24 xã, thị trấn thuộc huyện Định Hóa được Nhà nước tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; 128 điểm, trong đó có 17 di tích, danh thắng được xếp hạng cấp Quốc gia; 6 di tích xếp hạng cấp tỉnh. Năm 2012, ATK Định Hóa được Chính phủ xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt. 

Trên con đường mỏng như dải lụa mềm vắt hờ vào lưng núi, tôi cũng như bao người lòng trào dâng một niềm tự hào vì mình được sống trên vùng đất ATK thủ đô gió ngàn. Mỗi tên bản, tên núi, tên sông nơi đây đều gắn liền với những sự kiện, chiến công hiển hách của dân tộc. Lời Chủ tịch Hồ Chính Minh còn văng vẳng đâu đây: “Cách mệnh do Việt Bắc mà thành công, thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi”. 

Trong lần trở lại mới đây, thật tình cờ tôi gặp ông Trần Văn Tuấn, một cựu chiến binh đến từ tỉnh Điện Biên. Ông nói ôn tồn: Từ vùng đất này đã có hàng vạn người con đi chiến dịch Tây Bắc, nhiều người nằm lại vĩnh viễn ở xứ sở hoa ban để kết “nên thiên sử vàng”… 

Dưới tán rừng ngập gió, ông thong thả bước như để tìm về miền hoài niệm riêng mình, đó là ký ức của một thời tuổi trẻ Việt Bắc và nhân dân trên các miền Tổ quốc “Không sờn lòng không tiếc tuổi xanh”. Ông cũng như triệu triệu con dân đất Việt về đây, nhẹ đặt bước chân mình lên từng bậc đá rêu phong. Quá khứ đã khép lại, nhưng niềm tự hào của ngày hôm qua như ngọn lửa lòng bừng cháy ở hiện tại, soi đường, chỉ lối cho con cháu tự tin bước về phía mặt trời./.

Việt Bắc trước đây gồm có các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang và Thái Nguyên. Việt Bắc có địa danh Pác Bó [Hà Quảng, Cao Bằng] là nơi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt dấu chân đầu tiên khi trở về Tổ quốc vào mùa xuân năm 1941, sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài tìm đường cứu nước. Chính tại đây người đã xây dựng căn cứ cách mạng, tổ chức ra Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ Việt Bắc, Trung ương Đảng và Bác Hồ đã lãnh đạo cả nước làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Chiến sĩ Trung đội 1 thuộc Đại đội 1 [Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn Pháo phòng không 210, Quân khu 1] luyện tập quan sát mục tiêu trên không, bảo vệ bầu trời Việt Bắc. Ảnh: XUÂN GIANG.

Với tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên đoán được âm mưu, hành động của thực dân Pháp sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định, nếu muốn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi, thì chúng ta phải kháng chiến lâu dài. Điều kiện cơ bản để kháng chiến lâu dài là phải bảo tồn và phát triển lực lượng kháng chiến, đồng thời phải xây dựng được những khu căn cứ vững chắc, an toàn... Khu căn cứ kháng chiến quan trọng nhất được Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn là Việt Bắc, nơi mà lòng yêu nước của đồng bào hòa nhập với hình thế hiểm trở của núi sông thành một lực lượng vô địch để chống lại kẻ thù. Đồng chí Phạm Văn Đồng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phân công nhiệm vụ tiếp tục ở lại Việt Bắc để củng cố căn cứ địa cách mạng sau khi Chính phủ cách mạng lâm thời về Hà Nội năm 1945. Đến tháng 10-1946, đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Trưởng ban Tài chính Trung ương Đảng được Bác Hồ giao nhiệm vụ trở lại Việt Bắc để chuẩn bị địa điểm xây đựng căn cứ địa kháng chiến. Một số địa điểm thuộc huyện Định Hóa [Thái Nguyên], Chợ Đồn [Bắc Kạn] được chọn làm nơi ở và làm việc của các cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ trong trường hợp phải rời khỏi Thủ đô.

Tháng 11-1946, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định thành lập Đội công tác đặc biệt do đồng chí Trần Đăng Ninh phụ trách, chuyên lo việc nghiên cứu di chuyển và chọn địa điểm an toàn đặt các cơ quan Trung ương trong trường hợp xảy ra chiến tranh. Giữa tháng 12-1946, một số cán bộ trong Đội công tác đặc biệt lần lượt lên vùng Việt Bắc làm nhiệm vụ.

Sau một thời gian khảo sát thực tế, cân nhắc kỹ lưỡng mọi mặt, Đội quyết định chọn các huyện Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương, Võ Nhai [Thái Nguyên] cùng với các huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa [Tuyên Quang] và Chợ Đồn [Bắc Kạn] làm nơi xây dựng ATK của Trung ương. Đó là những nơi có đủ các yếu tố địa lợi và nhân hòa bảo đảm sự an toàn cho các cơ quan đầu não kháng chiến hoạt động.

Đúng như Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dự đoán, sau khi ký Hiệp định sơ bộ [6-3] và Tạm ước Việt-Pháp [14-9-1946], thực dân Pháp đã ngang nhiên bội ước, liên tiếp gây ra các hoạt động khiêu khích xâm lược ngày càng trắng trợn. Trong hoàn cảnh ấy, nhân dân ta phải cầm vũ khí tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ những thành quả cách mạng và ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”. Ngay sau đó, cùng với việc giam chân địch tại Hà Nội, các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính phủ, Thường trực Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, Quân đội, các đoàn thể chính trị và các nhà máy quan trọng đã được chuyển dần lên Việt Bắc. Việt Bắc, từ “Thủ đô cách mạng” đã trở thành “Thủ đô kháng chiến”. Từ “Thủ đô kháng chiến”, Trung ương Đảng, Bác Hồ, Bộ Tổng tư lệnh ra nhiều quyết sách quan trọng liên quan đến vận mệnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của cả dân tộc.

Việt Bắc không chỉ làm tròn sứ mệnh của “Thủ đô kháng chiến” mà còn là nơi diễn ra các chiến dịch, các trận đánh lớn của ta làm thay đổi cục diện trên chiến trường, trong đó có hai chiến thắng vang dội là Chiến thắng Việt Bắc Thu Đông năm 1947 và Chiến thắng Biên Giới năm 1950.

Trong Chiến dịch Việt Bắc Thu Đông năm 1947, quân và dân ta đã đánh bại hơn 12 nghìn quân tinh nhuệ Pháp trong hai cuộc hành binh lên Việt Bắc. Qua 75 ngày đêm chiến đấu, quân dân ta đã phá tan chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” bằng “đòn quyết định”, buộc nhà cầm quyền Pháp theo đuổi một cách bị động cuộc chiến tranh kéo dài ngoài ý muốn.

Đến năm 1950, lực lượng kháng chiến của ta trưởng thành về mọi mặt, Đảng và Chính phủ quyết định mở Chiến dịch Biên Giới [trên địa bàn hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn] nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng một phần vùng biên giới phía Bắc, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, khai thông đường liên lạc quốc tế với các nước xã hội chủ nghĩa.

Không chỉ trực tiếp tham gia chiến đấu, nhân dân Việt Bắc còn là hậu phương cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, đóng góp nhiều lương thực, thực phẩm và trực tiếp sản xuất vũ khí chi viện các chiến trường.

Tiếp nối truyền thống cách mạng trong kháng chiến chống thực dân Pháp, trong những năm kháng chiến chống Mỹ và từ sau ngày đất nước thống nhất đến nay, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Đảng bộ chính quyền và nhân dân các dân tộc thuộc các địa phương trong Chiến khu Việt Bắc trước kia vẫn luôn kề vai sát cánh cùng quân dân cả nước thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cao cả và thiêng liêng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay, Việt Bắc-Quân khu 1 vẫn giữ vị trí rất quan trọng với quốc gia cả về kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh và đối ngoại. Những bài học kinh nghiệm từ xây dựng căn cứ địa Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp đã và đang được Quân khu 1 vận dụng để xây dựng khu vực phòng thủ, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, củng cố “thế trận lòng dân”, làm nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trên địa bàn.

Đại tá ĐỖ PHÚ THỌ, Phó chủ nhiệm chính trị Quân khu 1

Video liên quan

Chủ Đề