Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ gì

Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [407.63 KB, 40 trang ]

THẢO LUẬN
Tên: Đường lối Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Họ và tên: Vũ Thị Mai Nga.
Lớp: DHK604A
Nội Dung
I, Đặc điểm chung.
Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ đòi
hỏi phải có sự lãnh đạo của một đảng cộng sản thống nhất. Sự tồn tại
và hoạt động riêng rẽ của ba tổ chức cộng sản làm cho lực lượng và
sức mạnh của phong trào cách mạng bị phân tán. Điều đó không phù
hợp với lợi ích của cách mạng và nguyên tắc tổ chức của đảng cộng
sản.
"Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền
quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông
Dương", chủ tịch Hồ Chí Minh chủ động triệu tập "đại biểu của hai
nhóm [Đông Dương và An Nam]" và chủ trì Hội nghị hợp nhất đảng
tại Cửu Long [Hương Cảng, Trung Quốc]
Hội nghị hoàn toàn nhất trí, tán thành việc hợp nhất hai tổ chức
Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành một
đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt
của Đảng
Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt và xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt
Nam là "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản".
Xác định những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng:
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến,
làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công
nông binh và tổ chức quân đội công nông.


Về kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc
1


giao cho Chính phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc
làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và
nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm tám
giờ.
Về văn hóa xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình
quyền, phổ thông giáo dục theo hướng công nông hoá.
Những nhiệm vụ trên đây bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân
chủ, chống đế quốc, chống phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm
vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc.
Về lực lượng cách mạng, Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận
giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh
đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức,
trung nông... đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa
chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi
dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản
cách mạng [như Đảng Lập hiến] thì phải đánh đổ.
Chủ trương tập hợp lực lượng trên đây phản ánh tư tưởng đại đoàn
kết dân tộc của Hồ Chí Minh. "Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải
rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông
mà đi vào đường thỏa hiệp"2.
Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng
sản. "Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho
được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo
được dân chúng".
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, "liên
kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới


nhất là với quần chúng vô sản Pháp".
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh giải
phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí
Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu
2


khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai
cấp và thấm đượm tinh thần dân tộc vì độc lập tự do, tiến hành cách
mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để đi tới xã hội cộng
sản là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này.
Nhờ sự thống nhất về tổ chức và cương lĩnh chính trị đúng đắn,
ngay từ khi ra đời Đảng đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của giai
cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc điểm và đồng
thời là một ưu điểm của Đảng, làm cho Đảng trở thành lực lượng lãnh
đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam, sớm được nhân dân thừa nhận
là đội tiền phong của mình, tiêu biểu cho lợi ích, danh dự, lương tâm và
trí tuệ của dân tộc.
II, Nội dung đường lối
1. Luận cương chính trị tháng 10/1930:
Tháng 4/1930, sau thời gian học tập ở Liên Xô, Trần Phú được
Quốc tế cộng
sản cửa về nước họat động. Tháng 7/1930, Trần Phú được bổ sung vào
Ban chấp hành Trung ương Đảng. Từ ngày 14 – 30/10/1930, Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương lần thứ nhất họp tại Hương Cảng [Trung
Quốc] do Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã thông qua nghị quyết về tình
hình hiện tại của Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp
của Đảng; thảo luận Luận cương chính trị, điều lệ Đảng và điều lệ các tổ
chức quần chúng. Thực hiện chỉ thị của Quốc tế cộng sản, hội nghị
quyết định đổi tên Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản


Đông Dương. Hội nghị cử ra Ban chấp hành Trung ương chính thức và
cử Trần Phú làm Tổng Bí thư.
Nội dung của Luận cương:
- Luận cương đã phân tích đặc điểm, tình hình xã hội thuộc địa
nửa phong kiến và nêu lên những vấn đề cơ bản của cách
mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương do giai cấp công nhân
lãnh đạo.
- Luận cương chỉ rõ: mâu thuẫn giai cấp diễn ra găy gắt giữa một
bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là
địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.
- Luận cương vạch ra phương hướng chiến lược của cách
mạng Đông
Dương là: lúc đầu cách mạng Đông Dương là cuộc “cách mạng
tư sản dân quyền”, có tính chất thổ địa và phản đế, “tư sản dân
3


quyền cách mạng là
thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”, sau khi cách mạng tư
sản dân
quyền thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà
tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
- Luận cương khẳng định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân
quyền là: Đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất
triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông
Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan
hệ khăng khít với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới
phá được giai cấp địa chủ, để tiến hành cách mạng thổ địa
thắng lợi, và có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh
đổ được đế quốc chủ nghĩa. Trong 2 nhiệm vụ này, Luận cương


xác định “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân
quyền” và là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
- Về lực lượng cách mạng: luận cương chỉ rõ, giai cấp vô sản
vừa là động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền vừa là
giai cấp lãnh đạo cách cách mạng. Dân cày là lực lượng đông
đảo nhất và là động lực mạnh của cách mạng. Tư sản thương
nghiệp thì đứng về phe đế quốc và địa chủ
19

4


chống lại cách mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng về phía
quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ
theo đế quốc. Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ công
nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư sản thương gia thì không
tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc
gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc
trong thời kỳ đầu. Chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị như
những người bán hàng rong, thợ thủ công nhỏ, trí thức thất
nghiệp mới đi theo cách mạng mà thôi.
- Về phương pháp cách mạng: luận cương chỉ rõ, để đạt được
mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và
phong kiến, giành chính quyền về tay công nông thì phải ra sức
chuẩn bị cho quần chúng về con đường “võ trang bạo động”.
Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật,
“phải tuân theo khuôn phép nhà binh”.
- Về quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới:
luận cương khẳng định, cách mạng Đông Dương là một bộ phận
của cách mạng vô sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản Đông


Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước
hết là giai cấp vô sản Pháp,và phải mật thiết liên lạc với phong
trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nhằm mở
rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh cách mạng ở
Đông
Dươn
g.
- Về vai trò lãnh đạo của Đảng: Luận cương khẳng định, sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản là điều kiện cốt yếu cho thắng lợi
của cách mạng. Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn, có
kỷ luật tập trung, mật thiết liên hệ với quần chúng và từng trải
đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của giai cấp
vô sản, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, đại
biểu chung cho quyền lợi của giai cấp vô sản ở Đông Dương,
đấu tranh để đạt được mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Ý nghĩa của Luận cương:
Từ nội dung cơ bản nêu trên, có thể thấy Luận cương chính trị
khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược cách mạng mà
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đã nêu ra. Bên cạnh mặt thống
nhất cơ bản, giữa Luận cương chính trị với Cương lĩnh đầu tiên có mặt
khác nhau. Luận cương không nêu ra được mâu
thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, từ
5


đó không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu; đánh giá không
đúng mức vai trò cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích
cực của tư sản dân tộc và chưa thấy được khả năng phân hóa, lôi kéo một
phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc. Từ đó Luận
cương đã không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp


rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai.
Nguyên nhân chủ yếu của sự khác nhau:
- Thứ nhất, Luận cương chính trị chưa tìm ra và nắm vững những
đặc điểm của xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam.

6


- Thứ hai, do nhận thức giáo điều, máy móc về vấn đề dân tộc
và giai cấp trong cách mạng ở thuộc địa và lại chịu ảnh hưởng
trực tiếp khuynh hướng “tả” của Quốc tế cộng sản và một số
Đảng cộng sản trong thời gian đó.
Chính vì vậy, hội nghị Ban chấp hành Trung ương tháng 10/1930
đã không chấp nhận những quan điểm mới, sáng tạo, độc lập tự chủ
của Nguyễn Ái Quốc được nêu trong Đường cách mệnh, Cương lĩnh đầu
tiên
2. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân [1945 – 1954]:
a. Hoàn cảnh lịch sử:
Tháng 11/1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố
Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây ra nhiều cuộc
khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở Hà Nội. Trung ương Đảng đã chỉ đạo
tìm cách liên lạc với phía Pháp để giải quyết vấn đề bằng biện pháp đàm
phán, thương lượng.
Trước việc Pháp gửi tối hậu thư đòi ta tước vũ khí của tự vệ Hà Nội,
để cho chúng kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô, ngày 19/12/1946, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị mở rộng tại làng Vạn
Phúc [Hà Đông] dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hoạch
định chủ trương đối phó. Hội nghị đã cử phái viên đi gặp phía Pháp để
đàm pháp song không có kết quả. Hội nghị cho rằng, hành động của


Pháp chứng tỏ chúng cố ý muốn cướp nước ta một lần nữa. Khả năng
hòa hoãn không còn. Hòa hoãn nữa sẽ dẫn đến họa mất nước. Trong
thời điểm lịch sử phải quyết đoán ngay, hội nghị đã hạ quyết tâm phát
động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động tiến công trước khi
thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính
quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20
giờ ngày
19/12/1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đã đồng loạt nổ súng.
Rạng sáng ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ
Chí Minh được phát đi trên Đài tiếng nói Việt Nam.
Thuận lợi của nhân dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược là ta chiến đấu để bảo vệ nền độc lập tự do của
dân tộc và đánh địch trên đất nước mình nên ta có chính nghĩa, có “thiên
thời, địa lợi, nhân hòa”. Ta cũng có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt nên
về lâu dài ta sẽ có khả năng đánh thắng quân xâm lược. Trong khi đó,
thực dân Pháp có nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế, quân sự ở trong
nước và tại Đông Dương không dễ khắc phục được ngay.
Khó khăn của ta là tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta
bị bao vây
7


4 phía, chưa được nước nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ
khí tối tân,
đã chiếm đóng được 2 nước Lào, Campuchia và một số nơi ở Nam Bộ
Việt Nam, có
quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở
miền Bắc.
Những đặc điểm của sự khởi đầu và các thuận lợi, khó khăn là cơ
sở để Đảng


xác định đường lối cho cuộc kháng
chiến.
b. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến:
Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước qua
thực tiễn đối
phó với âm mưu, thủ đoạn xâm lược của thực
dân Pháp.
Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, trong chỉ thị
Kháng chiến kiến quốc, Đảng đã xác định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất
của dân tộc ta là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung mũi nhọn đấu
tranh vào chúng. Trong quá trình chỉ

8


đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch đã
chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất
bại âm mưu của Pháp định tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam.
Ngày 19/10/1946, Thường vụ Trung ương Đảng mở hội nghị quân
sự toàn quốc lần thứ nhất do Tổng bí thư Trường Chinh chủ trì. Xuất
phát từ nhận định “không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình
cũng nhất định phải đánh Pháp”,
hội nghị đề ra chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để
quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị
Công việc khẩn cấp bây giờ [5/11/1946], Hồ Chủ tịch đã nêu lên những
việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và
khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và
thể hiện tập trung trong 3 văn kiện lớn được soạn thảo và công bố sát
trước và sau ngày cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là văn kiện


Toàn quốc kháng chiến của Trung ương Đảng [12/12/1946], Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh [19/12/1946] và tác phẩm
Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh.
Nội dung đường lối:
- Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách
mạng tháng Tám, “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược;
giành thống nhất và độc lập”.
- Tính chất kháng chiến: “Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là
một cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh
chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện, lâu dài”. “Là
cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình”.
Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân
chủ mới.
- Chính sách kháng chiến: “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống
phản động thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên, Lào và các dân
tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân.
Thực hiện toàn dân kháng chiến… Phải tự cấp, tự túc về mọi
mặt”.
- Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến: “Đoàn kết toàn dân,
thực hiện quân, chính, dân nhất trí… Động viên nhân lực, vật
lực, tài lực, thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng
chiến, trường kỳ kháng chiến. Giành quyền độc lập, bảo tòan
lãnh thổ, thống nhất Trung, Nam, Bắc.
Củng cố chế độ cộng hòa dân chủ… Tăng gia sản xuất, thực hiện
kinh tế tự
túc…”.
9


- Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh


nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài,
dựa vào sức mình là chính.
- Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là
người V.n phải đứng lên đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi
người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài.

10


- Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân
sự, kinh tế,
văn hóa, ngoại giao. Trong
đó:
o Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường
xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn
kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa
bình.
o Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch giải phóng nhân
dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động
chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài… Vừa đánh
vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo
thêm cán bộ.
o Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự
cung tự túc, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.
o Về văn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây
dựng nền văn hóa dân chủ mới theo 3 nguyên tắc: dân
tộc, khoa học và đại chúng.


o Về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương
thực lực. “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động
thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận
Việt Nam độc lập.
o Kháng chiến lâu dài: là để chống âm mưu đánh nhanh,
thắng nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố
“thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa tương
quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh
hơn địch, đánh thắng địch.
o Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi
mặt” vì ta bị bao vây 4 phía, chưa được nước nào giúp đỡ
nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có điều kiện ta sẽ
tranh thủ sự giúp đỡ của các nước song lúc đó cũng không
được ỷ lại.
o Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó
khăn song
nhất định thắng lợi.
Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như
trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên,
đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác –
Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất
11


nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm
có tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định và phát
triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.
Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, từ năm 1947 – 1950,
Đảng đã tập trung chỉ đạo cuộc chiến đấu giam chân địch trong các đô
thị, củng cố các vùng tự do lớn, đánh bại cuộc hành quân lớn của địch


lên Việt Bắc; lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tìm cách chống
phá thủ đoạn “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh
người Việt” của thực dân Pháp. Thắng lợi của chiến dịch Biên

12


Giới cuối năm 1950 đã giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của
địch, quân ta
giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường
chính Bắc Bộ.
Đến đầu năm 1951, tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương
có nhiều chuyển biến mới. Nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa
công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến của nhân dân 3
nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan trọng. Song lợi
dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Điều
kiện lịch sử đó đặt ra yêu cầu bổ sunh và hoàn chỉnh đường lối cách
mạng, đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi.
Đáp ứng yêu cầu đó, tháng 2/1951, Đảng cộng sản Đông Dương
họp Đại hội đại biểu lần thứ hai tại Tuyên Quang. Đại hội nhất trí tán
thành Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương do Hồ Chí Minh
trình bày và ra nghị quyết tách Đảng cộng sản Đông Dương thành 3
đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến của 3 dân tộc đi tới thắng
lợi. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng lao động
Việt Nam.
Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân
dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội do Tổng bí thư Trường Chinh trình bày
đã kế thừa và phát triển đường lối cách mạng trong các cương lĩnh chính
trị trước đây của Đảng thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân


dân. Đường lối đó được phản ánh trong Chính
cương của Đảng Lao động Việt Nam. Nội dung cơ
bản là:
- Tính chất xã hội: “xã hội Việt Nam hiện nay gồm có 3 tính
chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến.
Ba tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau. Nhưng mâu thuẫn chủ
yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và
tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong
quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân
Pháp và bọn can thiệp”.
- Đối tượng cách mạng: cách mạng Việt Nam có 2 đối tượng:
Đối tượng chính hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ
thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng
phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể lúc này là phong kiến phản
động.
- Nhiệm vụ cách mạng: “Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách
mạng Việt
Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống
13


nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và
nửa phong kiến, làm
cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây
cơ sở cho
chủ nghĩa xã hội. Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song
nhiệm vụ chính trước mắt là hòan thành giải phóng dân tộc. Cho
nên lúc này phải tập trung lực lượng vào việc kháng chiến để
quyết thắng quân xâm lược”.
- Động lực của cách mạng: gồm “công nhân, nông dân, tiểu tư sản


thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc; ngoài ra là
những thân sĩ [địa chủ] yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp,
tầng lớp và phần tử đó họp thành nhân dân. Nền tảng của nhân
dân là công, nông và lao động trí thức”.

14


- Đặc điểm cách mạng: “Giải quyết những nhiệm vụ cơ bản nói
trên do nhân dân lao động làm động lực, công nông và lao động
trí thức làm nền tảng và giai cấp công nhân lãnh đạo, cách
mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân. Cách mạng đó không phải là cách mạng dân chủ
tư sản lối cũ cũng không phải là cách mạng xã hội chủ nghĩa mà
là một thứ cách mạng dân chủ tư sản lối mới tiến triển thành cách
mạng xã hội chủ nghĩa”.
- Triển vọng của cách mạng: “cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân Việt
Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa
xã hội”.
- Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: “Đó là một con đường đấu
tranh lâu dài, đại thể trải qua 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất,
nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc; giai đoạn
thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến
và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát
triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; giai đoạn thứ
ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội,
tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Ba giai đoạn ấy không tách
rời nhau, mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau”.
- Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng: “Người lãnh đạo


cách mạng là giai cấp công nhân”. “Đảng Lao động Việt Nam là
Đảng của giai cấp công
nhân và của nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích của Đảng là
phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu
số ở Việt Nam”.
- Chính sách của Đảng: Có 15 chính sách lớn nhằm phát triển
chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội
và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi2.
- Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hòa bình và dân chủ,
phải tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân
thế giới, của Trung Quốc, Liên Xô, thực hiện đoàn kết Việt – Trung –
Xô và đoàn kết Việt – Miên – Lào.
Đường lối, chính sách của Đại hội đã được bổ sung, phát triển qua
các hội nghị Trung ương tiếp theo.
Tại hội nghị lần thứ nhất [3/1951], Đảng đã phân tích tình hình
quốc tế và
trong nước, nhấn mạnh chủ trương phải tăng cường hơn nữa công tác
15


chỉ đạo chiến tranh, “củng cố và gia cường quân đội chủ lực, củng cố
bộ đội địa phương và dân quân du kích”; “gia cường việc lãnh đạo kinh
tế tài chính”, “thực hiện việc khuyến khích, giúp đỡ tư sản dân tộc kinh
doanh và góp vốn của tư nhân để phát triển công thương nghiệp”, “tích
cực tham gia phong trào bảo vệ hòa bình thế giới”, “củng cố Đảng về tư
tưởng, chính trị và tổ chức”

16




Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ hai [họp từ ngày 27/9 –
5/10/1951] đã nêu lên chủ trương đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên cơ sở
thực hiện tốt 3 nhiệm vụ lớn là “ra sức tiêu diệt sinh lực của địch, tiến
tới giành ưu thế quân sự”; “ra sức phá âm mưu thâm độc của địch: lấy
chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”, đẩy
mạnh kháng chiến ở vùng bị tạm chiếm; “củng cố và phát triển sức
kháng chiến của toàn quốc, toàn dân, củng cố và phát triển đoàn kết”.
Tại hội nghị Trung ương lần thứ 4 [1/1953], vấn đề cách mạng
ruộng đất được Đảng tập trung nghiên cứu, kiểm điểm và đề ra chủ
trương thực hiện triệt để giảm tô, chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất. Hội
nghị cho rằng: muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ nhân dân
thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế và chính
trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân.
Đến hội nghị Trung ương lần thứ 5[11/1953], Đảng quyết định
phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất
trong kháng chiến. “Cải cách ruộng đất để đảm bảo cho kháng chiến
thắng lợi”. “Cải cách ruộng đất là chính sách chung của cả nước
nhưng phải làm từng bước tùy điều kiện mà nơi thì làm trước nơi thì
làm sau”. “Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nông dân, một
cuộc giai cấp đấu tranh ở nông thôn, rất rộng lớn, gay go và phức tạp.
Cho nên chuẩn bị phải thật đầy đủ, kế hoạch phải thật rõ ràng, lãnh
đạo phải thật chặt chẽ…”.
Đường lối hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ
nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng được thực hiện trên thực tế
trong giai đoạn 1951 - 1954.
c. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài
học kinh nghiệm:
* Kết quả và ý nghĩa lịch sử:


Kết quả của việc thực hiện đường lối:
- Về chính trị: Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện
toàn tổ chức, tăng cường sự lãnh đạo của đối với cuộc kháng
chiến. Bộ máy chính quyền 5 cấp được củng cố. Mặt trận Liên
hiệp quốc dân Việt Nam [Liên Việt] được thành lập. Khối đại
đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước mới. Chính sách
ruộng đất được triển khai, từng bước thực hiện khẩu hiệu người
cày có ruộng.
- Về quân sự: Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã có 6 đại
đoàn bộ binh, 1 đại đoàn côngbinh – pháo binh3. Thắng lợi
của nhiều chiến dịch đã đi

17


vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách, báo hiệu sự thắng lợi
của nhân dân các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.
- Về ngoại giao: Với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị,
quân sự và
ngoại giao, khi biết tin Pháp có ý định đàm phán, thương lượng
với ta thì ngày 27/12/1953, Ban Bí thư ra thông tư nêu rõ: “lập
trường của nhân dân Việt Nam là kiên quyết kháng chiến đến
thắng lợi cuối cùng. Song nhân dân và Chính phủ ta cũng tán
thành thương lượng nhằm mục đích giải quyết hòa bình vấn đề
Việt Nam”. Ngày 8/5/1954, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến
tranh Đông Dương chính thức khai mạc ở Genéve [Thụy Sỹ].
Ngày 21/7/1954, các văn bản của Hiệp nghị Genéve về chấm
dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và
dân ta kết thúc thắng lợi.


- Ý nghĩa lịch sử:
o Đối với nước ta: việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường
lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đã làm
thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được
đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công
nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước
Đông Dương; đã làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài
chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh, lập lại
hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc,
tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm
căn cứ, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng
thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy
tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
o Đối với quốc tế: Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng
cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới cùng với nhân
dân Làovà Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa
của thực dân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một
nước thuộc địa nhỏ yếu đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó
là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một
thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên
18


thế giới”.
*. Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm:
Nguyên nhân thắng lợi:


Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là

19


- Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, với đường lối kháng chiến
đúng đắn đã huy động được sức mạnh toàn dân đánh giặc. Có sự
đoàn kết chiến đấu của toàn dân tâp hợp trong mặt trận dân tộc
thống nhất rộng rãi - Mặt trận Liên Việt, được xây dựng trên
nền tảng khối liên minh công nông và trí thức vững chắc.
- Có lực lượng vũ trang gồm 3 thứ quân do Đảng trực tiếp lãnh
đạo ngày
càng vững mạnh, chiến đấu dũng cảm, mưu lược, tài trí, là lực
lượng quyết định tiêu diệt địch trên chiến trường, đè bẹp ý chí
xâm lược của địch, giải phóng đất đai của Tổ quốc.
- Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân
được giữ vững, củng cố và lớn mạnh, làm công cụ sắc bén tổ
chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới.
- Có sự liên minh đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa 3 dân tộc Việt
Nam, Lào, Campuchia cùng chống 1 kẻ thù chung. Đồng thời có
sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã
hội chủ nghĩa, các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới, kể
cả nhân dân tiến bộ Pháp.
Bài học kinh nghiệm:
Trải qua quá trình lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến kiến quốc,
Đảng đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quan trọng.
Thứ nhất, đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường
lối đó cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện. Đó là đường lối
chiến tranh nhân dân; kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào


sức mình là chính.
Thứ hai, kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với
nhiệm vụ chống phong kiến và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, gây
mầm mống cho chủ nghĩa xã hội, trong đó nhiệm vụ tập trung hàng đầu
là chống đế quốc, giải phóng dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng.
Thứ ba, thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng
chế độ mới, xây dựng hậu phương ngày càng vững mạnh để có tiềm
lực mọi mặt đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
Thứ tư, quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu
dài. Đồng thời tích cực, chủ động đề ra và thực hiện phương thức tiến
hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự sáng tạo, kết hợp đấu tranh quân
sự với đấu tranh ngoại giao, đưa
kháng chiến đến thắng lợi.
Thứ năm, tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến
đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.
3. ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC,
THỐNG NHẤT TỔ QUỐC [1954 – 1975]
20


a.Đường lối trong giai đoạn 1954 –
1964:
* Hoàn cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam sau tháng
7/1954:
Sau Hiệp định Genéve, cách mạng Việt Nam vừa có những thuận
lợi mới vừa
đứng trước nhiều khó khăn, phức tạp.
45

21




Thuận lợi:
- Hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế,
quân sự, khoa học - kỹ thuật, nhất là Liên Xô.
- Phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở Châu Á,
Châu Phi và khu vực Mỹ Latinh.
- Phong trào hòa bình, dân chủ lên cao ở các nước tư bản.
- Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa chung cho
cả nước.
- Thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn sau 9 năm kháng
chiến.
- Có ý chí độc lập thống nhất Tổ quốc của nhân dân từ Bắc chí
Nam.
Khó khăn:
- Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, dâm mưu
bá chủ thế
giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng.
- Thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang
giữa 2 phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.
- Xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa , nhất là
giữa Liên
Xô và Trung Quốc.
- Đất nước ta bị chia làm 2 miền: kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc
hậu. miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Đế quốc
Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta.
Một Đảng lãnh đạo 2 cuộc cách mạng khác nhau, ở 2 miền đất nước
có chế độ chính trị khác nhau là đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt
Nam sau tháng 7/1954. Đặc điểm bao trùm và các thuận lợi, khó khăn
nêu trên là cơ sở để Đảng phân tích, hoạch định đường lối chiến lược


chung cho cách mạng cả nước trong giai đoạn mới.
* Quá trình hình thành, nội dung và ý nghĩa của đường lối.
Quá trình hình thành và nội dung đường lối:
Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng sau tháng 7/1954 là phải vạch
ra được đường lối đúng đắn, vừa phù hợp với tình hình mỗi miền, tình
hình cả nước, vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Tháng 9/1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm
vụ mới và chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc
điểm chủ yếu của tình hình trong lúc cách mạng Việt Nam bước vào
một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển sang hòa bình; nước nhà
tạm chia làm 2 miền; từ nông thôn chuyển vào
thành thị; từ phân tán chuyển đến tập trung.
Hội nghị lần thứ 7 [3/1955] và Hội nghị lần thứ 8 [8/1955] nhận
22


định: Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực hiện
thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ. Điều cốt lõi là phải ra sức
củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của
nhân dân miền Nam.
Tháng 12/1957, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 đã xác định
đường lối tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng: “Mục tiêu và
nhiệm vụ cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là: củng cố
miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần từng bước
46

23


lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh để thực hiện thống nhất nước


nhà trên cơ
sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hòa
bình”.
Tháng 1/1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp bàn về cách
mạng miền Nam. Sau nhiều lần họp và thảo luận, Ban chấp hành Trung
ương đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam. Trung ương Đảng nhận
định: “Hiện nay cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm 2
nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy có tính chất khác nhau, nhưng quan hệ
hữu cơ với nhau… nhằm phương hướng chung là giữ vững hòa bình,
thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước
Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng
Việt Nam ở miền Nam là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của
đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có
ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam”. “Con
đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi
nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”67. Đó là con đường “lấy sức
mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là
chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của
đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân
dân”68. “tuy vậy, cần thấy rằng cách mạng ở miền Nam vẫn có khả
năng hòa bình phát triển, tức là khả năng dần dần cải biến tình thế, dần
dần thay đổi cục diện chính trị ở miền Nam có lợi cho cách mạng. Khả
năng đó hiện nay rất ít, song Đảng ta không gạt bỏ khả năng đó, mà cần
ra sức tranh thủ khả năng đó”.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng
những đã mở đường cho cách mạng miền Nam đi lên, mà còn thể hiện rõ
bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó
khăn của cách mạng.


Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương nói
trên chính là quá trình hình thành đường lối chiến lược chung cho cách
mạng cả nước, được điều chỉnh tại Đại hội lần thứ III của Đảng.
Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 –
10/9/1960. Đại hội đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Cụ thể là:
- Nhiệm vụ chung: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu
tranh giữ
24


vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam, thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng
một nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh,
thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ
hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”.
- Nhiệm vụ chiến lược: “cách mạng Việt Nam trong giai đoạn
hiện tại có 2 nhiệm vụ chiến lược: Một là, tiến hành cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi
ách thống trị của đế quốc Mỹ và
47

25


Đại thắng mùa xuân 1975 - Sự toàn thắng của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

08/04/2021 15:42 Số lượt xem: 588

Cách đây gần nửa thế kỷ, trên đất nước Việt Nam đã diễn ra một sự kiện chấn động thế giới về ý nghĩa và tầm quan trọng của nó, đó là thắng lợi oanh liệt của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Thắng lợi đó đã đi vào lịch sử như một chiến công hiển hách, biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, khí phách, trí tuệ, bản lĩnh và sức mạnh Việt Nam. Đó cũng là kết quả của 30 năm đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, bắt đầu từ cách mạng tháng Tám năm 1945.

Nét độc đáo, tuyệt vời của Đảng là dùng chiến tranh cách mạng làm phương thức cơ bản để thực hiện mục tiêu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Mục tiêu cách mạng cũng là mục đích chính trị của chiến tranh, lực lượng cách mạng là lực lượng tiến hành chiến tranh, bằng phương pháp cách mạng bạo lực.

Chiến tranh nhân dân Việt Nam không chỉ có những quy luật của chiến tranh mà còn có những quy luật cách mạng, nó tác động biện chứng và chi phối lẫn nhau. Đảng ta đã nắm vững hai quy luật đó và gắn đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng tạo thành sức mạnh tổng hợp vô địch, sức mạnh không kẻ thù nào lường hết được.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là sự toàn thắng của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước đưa đến sự toàn vẹn thống nhất nước nhà.

Lịch sử có sự trùng hợp thú vị, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ với 56 ngày đêm và cuộc kháng chiến chống Mỹ bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử với thời gian tương tự.

Lịch sử cũng có sự trớ trêu, nghịch cảnh. Một dân tộc tha thiết yêu chuộng hòa bình như dân tộc Việt Nam lại phải chịu đựng hàng chục cuộc chiến tranh xâm lược và rất nhiều lần phải cầm vũ khí “phê phán” bọn xâm lăng trong suốt chiều dài lịch sử của mình. Hơn một thế kỷ qua, chủ nghĩa thực dân cũ hay mới đều coi bạo lực phản cách mạng, lấy chiến tranh làm phương tiện chủ yếu để áp đặt ách thống trị của chúng đối với nhân dân ta. Vì thế buộc dân tộc Việt Nam phải đoàn kết đứng lên anh dũng chiến đấu và chiến thắng. Kinh nghiệm cho thấy muốn giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân, nhất thiết phải bằng con đường đấu tranh bạo lực cách mạng.

Với quan điểm chỉ đạo đúng đắn của Đảng ta về cách mạng bạo lực, cách mạng và chiến tranh, Đảng ta đã huy động đến mức độ tối đa sức mạnh vô tận của quần chúng để áp đảo quân thù. Sức mạnh đó được tạo nên bởi hai lực lượng cơ bản là lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang cách mạng; nó được thực hiện bằng 2 hình thức là đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh quân sự. Bước phát triển cao nhất của hai hình thức đấu tranh là cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử chính là một cuộc tổng tiến công kết hợp với nổi dậy như vậy. Một trận tổng hợp sức mạnh tất thắng và tài thao lược Việt Nam, sự phối kết hợp tuyệt đẹp về quân sự, chính trị, binh địch vận, thể hiện sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 thể hiện ý chí kiên trì, quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do và CNXH, coi mục tiêu của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân tiến lên CNXH là mục tiêu chính trị nhất quán bất biến của chiến tranh cách mạng.

Quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã thực hiện một sách lược mẫu mực, có khi sử dụng những biện pháp đau đớn, có khi phải nhân nhượng tạm thời, trì hoãn chiến tranh để có thời gian chuẩn bị lực lượng kháng chiến. Khi thì tiến hành đấu tranh ngoại giao kiên trì nhiều năm vừa cương, vừa nhu, thực hiện những bước đi quá độ đẩy lùi từng bước, đánh thắng địch từng phần, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Kể từ khi Đảng ra đời đến Đại thắng mùa xuân 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã phải tiến hành một cuộc tổng khởi nghĩa và hai cuộc kháng chiến mới hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước. Điều đó chứng minh rằng độc lập dân tộc cho Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho nhân dân, giang sơn thu về một mối là ý chí sắt đá, là nguyện vọng thiêng liêng, cháy bỏng của nhân dân Việt Nam, cho dù phải đốt cháy dãy trường sơn cũng quyết tâm đạt cho kỳ được.

Mọi người đều biết, Đường cách mệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đó là cốt lõi, nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh, đó cũng là con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

Thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh đã mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên của độc lập tự do và CNXH. Và khi ở nước ta giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo thì thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, thời kỳ quá độ lên CNXH.

Tất cả điều đó đã cho thấy một bài học lớn, cơ bản, xuyên suốt là cách mạng nước ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhân dân Việt Nam đã chứng minh chân lý rằng trong thời đại ngày nay, một dân tộc đất không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một Đảng Mác -Lê nin, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược, dù đó là nước đế quốc mạnh nhất. Về ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đại hội IV của Đảng đã ghi rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”[1]./.

Nguyễn Đăng Lâm,

Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hôi đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Sự thật – H1977 – T5-6.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

[ĐCSVN] - Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa không chỉ là minh chứng cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc mà còn là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Đây là một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận Mác - Lênin, là nhân tố quan trọng bảo đảm cho thành công của cách mạng Việt Nam.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với cách mạng xã hội chủ nghĩa được hình thành và phát triển từ cơ sở lý luận, thực tiễn của mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc ở Việt Nam và trên thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Từ khi thực dân Pháp xâm lược [1858] và đặt ách thống trị ở nước ta cho đến đầu thế kỷ XX, các ngọn cờ cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đã liên tục dấy lên. Nhân dân ta đã chiến đấu rất quyết liệt và anh dũng, song tất cả đã bị đàn áp đẫm máu và thất bại. Bởi lẽ lãnh đạo các cuộc kháng chiến là các sỹ phu, văn thân mang nặng ý thức hệ phong kiến hoặc ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản, đường lối cứu nước không rõ ràng. Thực tiễn lịch sử các cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp của nhân dân ta đến đầu thế kỷ XX đã chứng tỏ rằng, không thể giải quyết vấn đề dân tộc, giành độc lập dân tộc dựa trên những quan điểm phong kiến, hay tư sản.

Lịch sử dân tộc đặt ra một đòi hỏi cần có một lực lượng lãnh đạo đất nước với một con đường cứu nước mới, có khả năng tập hợp và phát huy sức mạnh toàn dân tộc để đưa dân tộc ta đến độc lập tự do thực sự. Trong điều kiện lịch sử ấy, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước. Điểm xuất phát và là động lực tinh thần của sự ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân của Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Người đặt cho mình cái tên Nguyễn Ái Quốc là để luôn nhắc nhở bản thân và cổ vũ đồng bào mình. Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đã nghiên cứu khảo sát nhiều cuộc cách mạng trên thế giới. Nghiên cứu cuộc đấu tranh giành độc lập của nước Mỹ 1776, cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789, Người đã chỉ ra rằng, mặc dù cách mạng tư sản đã thành công, chủ nghĩa tư bản đã xây dựng và phát triển hàng trăm năm ở những nước này, nhưng “công nông vẫn cực khổ”, vì tính chất không triệt để của cách mạng tư sản, trong thì “tước lục công nông, ngoài thì áp bức thuộc địa”.

Nghiên cứu Cách mạng Nga và Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin, Người dã rút ra kết luận quan trọng: Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như thực dân Pháp khoe khoang bên An Nam. Người rút ra kết luận: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới”[1]. Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người tiếp tục khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là cách mạng vô sản”[2].

Tư tưởng này của Người đã chỉ ra rằng, ở Việt Nam cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa địa chủ với nông dân, giữa giai cấp vô sản với tư sản, giữa toàn dân tộc với thực dân đế quốc xâm lược phải theo lập trường của giai cấp công nhân. Cuộc cách mạng đó phải dựa vào lực lượng của toàn dân tộc, của nhân dân, nòng cốt là liên minh công nông do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm nền tảng. Xuất phát từ quan điểm đó, Hồ Chí Minh đã tích cực chuẩn bị cho sự ra đời chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam. Sau nhiều năm chuẩn bị, Hồ Chí Minh đã chủ trì Hội nghị thành lập Đảng vào mùa xuân 1930. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo đã khẳng định tư tưởng con đường cứu nước đúng đắn là phải gắn liền giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và xã hội. Đường lối chiến lược đó đáp ứng nhu cầu lịch sử của dân tộc và phù hợp với xu thế thời đại.

Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã một lòng một dạ chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc nhân dân. Trong sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng hy sinh, phấn đấu vì độc lập thống nhất Tổ quốc, vì hạnh phúc nhân dân. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng hết lòng phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Với những thắng lợi mà nhân dân ta đã giành được, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế ngày càng rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và thế giới. Những thắng lợi đó có được là nhờ nhiều nhân tố, trong đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu. Đây chính là minh chứng hùng hồn về sự đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về việc giải quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”[3].

Vậy mà hiện nay, một trong những ngón đòn tấn công phá hoại nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng ta, các thế lực thù địch vẫn tìm mọi cách xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp với vấn đề dân tộc. Các thế lực thù địch cố chứng minh rằng, mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một nước nào đó, còn ở Việt Nam vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phối; rằng nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là chủ nghĩa dân tộc; rằng Hồ Chí Minh du nhập học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin đã dẫn đến cảnh “nồi da nấu thịt”.

Theo họ ở nước ta hiện nay chỉ nên đề ra giải quyết vấn đề dân tộc còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra. Thực chất của những luận điệu xuyên tạc lừa mị ấy là phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam; tiến tới loại bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và giải quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp tư sản. Những quan điểm ấy đã bị cả lý luận và thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua bác bỏ.

2. Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giành độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, là tiền đề để tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Đặt cách mạng dân chủ nhân dân trong phạm trù của cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội chính là tính toàn diện, triệt để của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam. Xuất phát từ thực tế xã hội Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, Hồ Chí Minh chỉ rõ mâu thuẫn chủ yếu, nổi bật cấp bách cần giải quyết là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược và tay sai bán nước. Vì vậy, ở giai đoạn đầu của cách mạng cần đặt vấn đề dân tộc lên trên hết. Từ đó, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu cốt yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam là giành độc lập dân tộc.

Đây là quan điểm mà Hồ Chí Minh kiên trì và nhất quán từ khi Người tìm ra con đường cách mạng Việt Nam. Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, trực tiếp cùng Trung ương Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã triệu tập và chủ trì hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ Tám của Đảng [5-1941]. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc.

Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”[4]. Ở đây, rõ ràng vấn đề giai cấp được Hồ Chí Minh đặt trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với lợi ích quốc gia dân tộc, vấn đề dân tộc được giải quyết theo lập trường của giai cấp công nhân, chứ đâu phải là sự “hy sinh cái nọ cho cái kia” như có người đã cố tình xuyên tạc. Thực tiễn cho thấy, mục tiêu độc lập dân tộc được đặt ra và giải quyết theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thông qua đội tiền phong của của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản Việt Nam đã thức tỉnh cổ vũ động viên cả dân tộc Việt Nam đấu tranh chống thực dân, đế quốc.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng tám 1945 đã minh chứng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sau cách mạng Tháng tám năm 1945, độc lập dân tộc đứng trước thủ thách mới, bảo vệ độc lập dân tộc lúc này là sự sống còn đối với đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Thời kỳ đất nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước [1954 -1975], Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, cùng với tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước. Như vậy, với Hồ Chí Minh để đi lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề cần giải quyết trước tiên là phải có độc lập dân tộc. Giành độc lập dân tộc mới có điều kiện xây dựng, phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Độc lập dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh mang nội dung sâu sắc và triệt để. Đó phải là một nền độc lập thật sự, các quyền dân tộc cơ bản được bảo đảm, độc lập, dân chủ phải trên nguyên tắc nước Việt Nam của người Việt Nam; độc lập phải gắn với quyền tự quyết dân tộc.

3. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là làm cho cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân được tiến hành triệt để, bảo đảm cho nền độc lập dân tộc được giữ vững, nhân dân có đời sống ấm no, tự do hạnh phúc.

Theo Hồ Chí Minh, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”[5]. Đây là sự khẳng định một hướng đi mới phù hợp với xu thế của thời đại, khác về căn bản so với các lãnh tụ của phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Giải thích vì sao cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm xoá bỏ mọi chế độ người bóc lột người ở nước ta, nhằm đưa lại đời sống ấm no cho nhân dân ta. Đó là cuộc cách mạng vĩ đại và vẻ vang nhất trong lịch sử loài người, nhưng đồng thời cũng là cuộc cách mạng gay go, phức tạp và khó khăn nhất”[6]. Từ bản chất của nó, chủ nghĩa xã hội, tạo ra các khả năng điều kiện phát triển bền vững của dân tộc, loại bỏ được ách thống trị nô dịch dân tộc. Với ý nghĩa ấy cách mạng xã hội chủ nghĩa là làm cho cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân được tiến hành triệt để; đồng thời tạo ra những cơ sở bảo đảm cho nền độc lập dân tộc được giữ vững.

Hồ Chí Minh là người đầu tiên xác định cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa nửa phong kiến như nước ta có khả năng tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Theo Người, sự tàn bạo của chủ nghĩa thực dân đế quốc đã thức tỉnh nhân dân các dân tộc bị áp bức: “Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi”; và Người chỉ ra các khả năng, điều kiện để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản; Xây dựng củng cố tăng cường khối liên minh công nông trí thức làm hạt nhân xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc; Phối hợp chặt chẽ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng vô sản ở chính quốc [cách mạng vô sản Pháp]. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng ở các nước thuộc địa có thể và cần phải nổ ra trước cách mạng vô sản ở chính quốc là hoàn toàn đúng đắn sáng tạo.

Xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lừa mị rằng, ở Việt Nam hiện nay chỉ nên đề ra và giải quyết vấn đề dân tộc, dân chủ theo chủ nghĩa dân tộc Hồ Chí Minh, nên gác định hướng xã hội chủ nghĩa lại. Từ đó họ đòi đổi tên nước, đổi tên Đảng. Ý đồ xấu xa, nham hiểm của các thủ đoạn xuyên tạc, lừa mị đó là bác bỏ đường lối giải quyết vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đưa đất nước ta vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong 25 năm đất nước đổi mới đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là cái bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

[1] .Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb, CTQG, Hà Nội, 2002,tập1, tr.416.

[2] . Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb, CTQG, Hà Nội, 2002,tập10, tr.9.

[3] . Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb, CTQG, Hà Nội, 2002,tập10, tr.128.

[4] . Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, t.7, tr.113.

[5] . Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb, CTQG, Hà Nội, 2002,tập12, tr.305.

[6] .Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb, CTQG, Hà Nội, 2002,tập9, tr.156.

Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945

[ĐCSVN] - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam.

Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách mạng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ [Ảnh tư liệu]

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.

Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám. Quá trình hình thành đường lối chiến lược giải phóng dân tộc là quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX - một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần túy biến thành một xã hội thuộc địa, dù tính chất phong kiến còn được duy trì một phần nhưng các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều chuyển động trong quỹ đạo của xã hội thuộc địa. Trong lòng xã hội Việt Nam thời kỳ này đã hình thành nên những mâu thuẫn giai cấp, dân tộc đan xen rất phức tạp.

Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa là phải vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố dã man, vừa phát triển lực lượng bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng nhất là phải nhiều lần lập mới, bổ sung Ban chấp hành Trung ương của Đảng, vừa phải đẩy mạnh hoạt động “tự chỉ trích”, đấu tranh với tinh thần Bônsêvích để khắc phục những quan niệm cho rằng: Những nguyên lý về “giai cấp cách mạng” được coi như những giáo lý phải được tiếp thu vô điều kiện như chân lý bất biến khi vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy móc, chống chủ nghĩa chủ quan tách rời thực tiễn.

Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội trước hết là bằng cương lĩnh, đường lối chính trị, mà theo nguyên tắc hoạt động của Đảng Cộng sản thì cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng phải do Đại hội – cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng quyết định. Trong thời kỳ 1930 – 1945 - thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng phải hoạt động bí mật là chủ yếu, chính quyền thực dân liên tục, điên cuồng đàn áp khủng bố các tổ chức của Đảng nhất là Ban chấp hành Trung ương phải lập đi lập lại nhiều lần, giao thông liên lạc thường bị gián đoạn cho nên trong thời kỳ này Đảng ta không thể tiến hành Đại hội thường kỳ như quy định của Điều lệ Đảng để có thể phát huy trí tuệ của toàn Đảng trong việc hình thành cương lĩnh, đường lối chính trị. Sau hội nghị hợp nhất thành lập Đảng 3/2/1930, trong thời kỳ này, Đảng ta chỉ tiến hành duy nhất Đại hội lần thứ I vào tháng 3/1935. Trong hoàn cảnh đó, Ban Chấp hành Trung ương có trọng trách vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng vào thực tiễn để hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua đã xác định: Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là quá trình phát triển lâu dài trải qua những thời kỳ, giai đoạn chiến lược khác nhau trong tiến trình cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa mà trước tiên là đấu tranh giành độc lập dân tộc. Do đó, trong chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt xác định nhiệm vụ chiến lược là “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập; dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông; thu hết sản nghiệp lớn [như công nghiệp vận tải, ngân hàng…] của tư bản chủ nghĩa đế quốc Pháp để giao cho chính phủ công nông quản lý; giao hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo…; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ; dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa.

Những nội dung chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập tự do của toàn đân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới mở ra sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga [1917], đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, thời đại mới là: “Thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”[1]. Cương lĩnh chính trị đầu tiên này đã xử lý đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp trong chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc. Vì mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của xã hội Việt Nam thời kỳ này là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động.

Bảy tháng sau, tại Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương – thay cho Ban chấp hành Trung ương lâm thời, luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương [Dự án để thảo luận trong Đảng] được thay thế cho cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam lại nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên: “một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”[2]. Luận cương xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền” cho đây là: “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Luận cương cho rằng: Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải: “Tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Luận cương còn xác định hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong phải được đặt ngang hàng nhau: “Có đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”[3]. Luận cương đã quá nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp là điều không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa.

Đến tháng 12/1930, trong thư của Trung ương gửi các cấp Đảng bộ, lại tiếp tục nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và xác định: Địa chủ là “thù địch của dân cày, không kém gì đế quốc chủ nghĩa” “liên kết đế quốc chủ nghĩa mà bóc lột dân cày”[4]. Giai cấp tư sản “có một bộ phận đã ra mặt phản cách mạng” một bộ phận khác “kiếm cách thỏa hiệp với đế quốc” một bộ phận “ra mặt chống đế quốc” nhưng đến khi cách mạng phát triển “chúng sẽ theo phe đế quốc mà chống lại cách mạng”[5]. Trong thư này, Ban thường vụ Trung ương chủ trương: “Tiêu diệt địa chủ” “tịch ký tất cả ruộng đất của chúng nó [địa chủ] mà giao cho bần và trung nông”[6]. Nhận thức không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa Việt Nam và không phù hợp với chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc còn kéo dài gần 5 năm cho đến Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ nhất [3/1935]. Từ đây cùng với sự phát triển của thực tiễn đấu tranh cách mạng, thông qua thực hành nghiêm túc nguyên tắc “tự chỉ trích” [phê bình và tự phê] với tinh thần “tự chỉ trích Bônsêvích phải có nguyên tắc có kỷ luật, theo dân chủ tập trung và phải luôn luôn đặt quyền lợi uy tín Đảng lên trên hết. Không được lợi dụng tự chỉ trích mà gây mầm bè phái chống Đảng và làm rối loạn hàng ngũ Đảng” phải thông qua tự chỉ trích để tẩy trừ: “các khuynh hướng hữu khuynh tả khuynh, lối hành động cô độc biệt phái, quan liêu hủ bại… để Đảng luôn “xứng đáng đội quân tiên phong cách mệnh, lãnh tụ chính trị của giai cấp”[7]. Ban chấp hành Trung ương có bước tiến mạnh mẽ trong tư duy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Trong thư gửi các tổ chức Đảng ngày 26/7/1936, Ban Trung ương đã công khai phê phán những biểu hiện giáo điều trong phân tích đặc điểm giai cấp trong xã hội thuộc địa và cho rằng: “Ở một xứ thuộc địa như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện tại, nếu chỉ quan tâm đến cuộc đấu tranh giai cấp có thể sẽ nẩy sinh những khó khăn để mở rộng phong trào giải phóng dân tộc”[8]. Tháng 10/1936, Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng ban hành văn bản: chung quanh vấn đề chính sách mới đã chỉ rõ: “cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa, nghĩa là không thể nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa; muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng… Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân [kẻ thù] chính, nguy hiểm nhất để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.

Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: 1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc. 2.Đông Dương hoàn toàn độc lập [thi hành quyền dân tộc tự quyết]. 3.Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4. Lập quốc dân cách mệnh quân. 5.Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9. Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10.Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. 12.Phổ thông giáo dục cường bách. 13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v[9].

Một điểm rất đặc sắc của quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc thời kỳ 1930-1945 là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình thức tổ chức độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam đó là lập mặt trận dân tộc thống nhất để hiện thực hóa tư tưởng của V.Lênin vĩ đại: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng – Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác ngộ và được tập hợp tổ chức trong mặt trận dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Chín tháng sau ngày thành lập, ngày 18/11/1930, Ban thường vụ Trung ương đã ban hành chỉ thị về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng minh”. Trên cơ sở phân tích sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc, bản chỉ thị đã nhận định: “Cuộc cách mệnh tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công [Rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến tay sai phản động, hèn hạ; Kín là đặt để công nông trong bức tranh dân tộc phản đế bao la][10]. Bản chỉ thị cũng phê phán những biểu hiện của quan điểm hẹp hòi, “tả” khuynh trong xây dựng, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất nên “Tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông”, “Do thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào tầng lớp giữa và cho tới cả những người địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp, để cần kíp động viên toàn dân nhất tề hành động.”[11].

Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội VII, quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, mặt trận bình dân Pháp được thành lập và giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ [5/1936]. Thực hiện nghị quyết của quốc tế cộng sản, lợi dụng mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang”[12].

Đến Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”[13]. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”[14].Tại Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”[15].

Ngày 28/1/1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Sau một thời gian chuẩn bị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 từ ngày 10 đến 19/5/1941. Hội nghị đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, dự báo phe phát xít nhất định thất bại, phe Đồng minh chống phát xít chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc sẽ suy yếu và phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ. Hội nghị dự đoán rằng: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”[16]. Hội nghị nhận định: “Đế quốc Pháp – Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày mà chúng còn áp bức bóc lột cả các dân tộc, không chừa một hạng nào…Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mệnh cách mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Pháp – Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”… Do đó: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mệnh tư sản dân quyền, cuộc cách mệnh phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng”[17]. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.”.

Từ quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta đã xác định tính chất của cách mạng Việt Nam giai đoạn này là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Vì thế Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức”.

Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước trên bán đảo Đông Dương. Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là: “Việt Nam độc lập đồng minh [gọi tắt là Việt minh]. Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc được thành lập trước đây đều thống nhất lấy tên là: Hội cứu quốc”, như Hội nông dân cứu quốc, Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc… và tất cả các Hội cứu quốc đều tham gia là thành viên của Việt minh. Đối với Lào, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh, và đối với Campuchia thì lập Mặt trận Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở ra đời mặt trận ở mỗi nước sẽ thành lập mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh.

Các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều chịu ách thống trị của đế quốc Pháp, phát xít Nhật cho nên phải đoàn kết thống nhất lực lượng để đánh đuổi kẻ thù chung. Vấn đề dân tộc ở bán đảo Đông Dương lúc này là vấn đề tự do độc lập của mỗi dân tộc. Do đó Hội nghị Trung ương 8 khẳng định hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi được Pháp, Nhật thì: “các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ chức thành Liên Bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành dân tộc quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”[18]. Sau Hội nghị Trung ương 8, ngày 19/5/1941 một Đại hội gồm đại diện các Đảng phái, các tổ chức quần chúng… tuyên bố thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh với tuyên ngôn: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào; đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam độc lập đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao ĐLĐM và Cao Miên ĐLĐM để cùng thành lập Đông Dương ĐLĐM hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”[19].

Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, và coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã xác định bốn điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang thắng lợi và xác định sáu nhiệm vụ phải thực hiện để củng cố, tăng cường, phát triển mở rộng lực lượng cách mạng trong cả nước đủ sức để thực hiện và củng cố thắng lợi của cuộc khởi nghĩa vũ trang[20].

Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển sáng tạo phương thức khởi nghĩa vũ trang cách mạng khi đề ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa.Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng là người lãnh đạo người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đến Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6 tháng 11/1939. Đó là sự chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong sang thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc, chỉ tập trung lực lượng toàn dân tộc giải quyết cho được một vấn đề cấp bách và quan trọng hàng đầu là đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc. Từ xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu là đế quốc Pháp – Nhật, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng tiến hành cuộc cách mạng này là toàn dân Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp, mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất phản đế với tên gọi Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh. Đảng Cộng sản Đông Dương là thành viên của Việt Minh và là hạt nhân chính trị lãnh đạo Việt Minh. Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc là khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa vũ trang từng phần. Giành chính quyền ở từng địa phương chuẩn bị lực lượng đón thời cơ tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] là sự khẳng định kế thừa, tiếp thu và phát triển sáng tạo tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” [1927] và cương lĩnh cách mạng đầu tiên [chánh cương vắn tắt sách lược vắn tắt, chương trình vắn tắt] của Đảng do chính Người dự thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 là sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị, trong đổi mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự chỉ trích Bônsêvích để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn máy móc…

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong cách mạng tháng 8/1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

--------------------------------

[1] Hồ Chí Minh toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội.2009. Tập 8. Trang 562

[2] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[3] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[4] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 235

[5] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 236

[6] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 299

[7] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 567

[8] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 74

[9] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 544-545

[10] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 231

[11] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 232

[12] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 21

[13] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 544

[14] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 77

[15] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 68

[16] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[17] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[18] Lịch sử Cách mạng Tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 1995. Trang 41, 42

[19] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 466-467

[20] Cách mạng tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội 1995. Trang 42-43

PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó Trưởng ban thường trực
Ban Tư tưởng – Văn hóa TW

Mục lục

  • 1 Lịch sử
  • 2 Những quốc gia áp dụng
    • 2.1 Tại Việt Nam
    • 2.2 Các nước khác
  • 3 Tham khảo
  • 4 Xem thêm

Lịch sửSửa đổi

Lenin là người đầu tiên đưa ra ý tưởng về sự kết hợp giữa nền dân chủ nhân dân và chuyên chính vô sản. Theo Lenin thì "Chuyên chính vô sản, nghĩa là việc tổ chức đội tiền phong của những người bị áp bức thành giai cấp thống trị để trấn áp bọn áp bức, thì không thể giản đơn đóng khung trong việc mở rộng chế độ dân chủ được. Đồng thời với việc mở rộng rất nhiều chế độ dân chủ - lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế độ dân chủ cho nhân dân chứ không phải cho bọn nhà giàu - chuyên chính vô sản còn thực hành một loạt biện pháp hạn chế quyền tự do đối với bọn áp bức, bọn bóc lột, bọn tư bản"[1]. Khái niệm này nổi tiếng nhất và trở thành phổ biến khi được Mao Trạch Đông sử dụng ngày 30 tháng 6 năm 1949, nhân kỷ niệm 28 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong bài phát biểu của mình, Mao đã diễn giải ý tưởng của mình về chế độ "Chuyên chính dân chủ nhân dân" cũng như bác bỏ những lời chỉ trích và phản bác về những hậu quả mà ông sẽ phải đối mặt.[2]

Video liên quan

Chủ Đề