Bảo vệ tôn giáo trong bảo vệ an ninh quốc gia như thế nào?

Nghị quyết khẳng định: “Tôn giáo là một vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện đoàn kết lương giáo, đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [1].

Kế thừa và phát triển quan điểm của Đảng trong Nghị quyết 24, từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII [1991] đến nay, trải qua 5 kỳ đại hội, Đảng ta luôn có những bước phát triển về nhận thức, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra, nhằm phát huy tốt nhất vai trò của tôn giáo đối với đời sống xã hội; đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực cũng như các hoạt động lợi dụng tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, trong Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội nhiệm kỳ 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, Đảng ta nhận định:

“Tình hình tôn giáo ổn định; đa số chức sắc, chức việc và đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, góp phần đấu tranh, phản bác luận điệu xuyên tạc, vu cáo chính quyền vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo” [2]. Tuy nhiên, Đảng cũng chỉ rõ mặt còn hạn chế trong công tác quản lý tôn giáo, quản lý Nhà nước về văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng có mặt còn hạn chế. Có hiện tượng thương mại hóa các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở một số nơi.

Phát huy những thành tựu đã đạt được, đồng thời khắc phục những mặt còn hạn chế về công tác tôn giáo, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Đảng ta xác định: “Thực hiện tốt mục tiêu đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người theo quy định của pháp luật. Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo vào giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội” [3].

Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, vấn đề dân tộc, tôn giáo có xu hướng diễn biến phức tạp, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, xung đột cục bộ, sắc tộc, tôn giáo... là những thách thức lớn đe dọa sự ổn định và phát triển ở một số khu vực, quốc gia, Đảng ta đã chỉ rõ: “Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo” [4].

Cụ thể hóa những nhiệm vụ trên, để đưa Nghị quyết XIII của Đảng vào cuộc sống, chúng ta cần thực hiện một số nội dung sau:

Một là, tiếp tục phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Trong quá khứ cũng như hiện tại, tôn giáo đã và đang có tác động tích cực đối với mọi mặt đời sống xã hội. Do đó, nhằm khai thác có hiệu quả hơn nữa mặt tích cực của các tôn giáo, Đảng ta nhấn mạnh việc phát huy các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước. Trong đó, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh nguồn lực tinh thần của tôn giáo, phát huy những nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng, giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo, góp phần giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội, đồng thời “phê phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan”.

Hai là, vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đoàn kết là truyền thống quý báu có từ ngàn xưa của dân tộc ta trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Để tiếp tục phát huy truyền thống, huy động mọi thành phần, giới chức xã hội đóng góp cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta coi đoàn kết tôn giáo là một mục tiêu quan trọng. Đoàn kết tôn giáo được hiểu là đoàn kết giữa những người có đạo khác nhau, giữa người có đạo với người không có đạo. Đảm bảo sự tôn trọng, chung sống hòa hợp, không phân biệt đối xử, cùng chung trách nhiệm góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Để thực hiện tốt đại đoàn kết tôn giáo, cần tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách tôn giáo; đồng thời xây dựng những chính sách đặc thù để giải quyết khó khăn cho đồng bào có đạo. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, sự xích lại gần nhau của tôn giáo ngày càng rõ nét thì đoàn kết tôn giáo càng có ý nghĩa quan trọng, tạo sức mạnh tổng hợp đưa đất nước hội nhập và phát triển.

Ba là, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người.

Đây là nguyên tắc xuyên suốt, nhất quán trong chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Sự tôn trọng tự do, tín ngưỡng ở đây bao gồm sự quan tâm, tạo điều kiện cả trên thực tế và về mặt pháp lý đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật và bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Mặt khác, đối tượng được quan tâm, bảo đảm ở đây không chỉ là con người, tổ chức, nhân dân, công dân sinh sống ở trong nước mà còn là tổ chức, cá nhân người nước ngoài có tôn giáo đang sinh sống, học tập, làm việc tại Việt Nam; kể cả người Việt Nam ở nước ngoài trở về quê hương sinh sống. Bằng những hành động thiết thực cụ thể, chúng ta tiếp tục đưa chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống, đáp ứng được nguyện vọng của đồng bào các tôn giáo trong cả nước.

Bốn là, kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục cố tình xuyên tạc tình hình tôn giáo ở nước ta nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, kích động chiêu bài đòi “tự do tôn giáo”… Cần chủ động nắm bắt tình hình để phát hiện và xử lý kịp thời các tình huống liên quan đến tôn giáo một cách hài hòa, không để bị động bất ngờ và không để xảy ra các “điểm nóng”. Để tăng cường tính chủ động, hệ thống chính quyền ở cơ sở và cơ quan chức năng cần thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của đồng bào có đạo, nhất là những nơi có dấu hiệu bất ổn; từ đó tham mưu kịp thời và đưa ra những phương án xử lý phù hợp, hiệu quả. Mặt khác, cần chủ động quan tâm, lắng nghe và giải quyết kịp thời nguyện vọng chính đáng của đồng bào có đạo nhằm tranh thủ sự ủng hộ, đồng thời phát huy tối đa những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực và kiên quyết đấu tranh, xử lý các biểu hiện tiêu cực, những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá cách mạng nước ta.

Năm là, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo. Để phát huy những mặt tích cực, đóng góp của tôn giáo, đồng thời ngăn chặn kịp thời các hoạt động lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng, việc nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với các hoạt động liên quan đến tôn giáo là hết sức cần thiết, cấp bách. Các cơ quan quản lý hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo cần nắm vững những nhận thức mới của Đảng về tôn giáo để cụ thể hóa thành chính sách, thể chế hóa thành luật pháp của Nhà nước; nắm bắt kịp thời âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống phá chế độ để tham mưu với Đảng, Nhà nước có những đối sách cụ thể, phù hợp. Phát huy và phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.

Có thể nói, quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ liên quan đến tôn giáo và công tác tôn giáo trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng là toàn diện, có nhiều điểm mới. Đây chính là cơ sở cho những định hướng trong việc đề xuất và thực thi các chính sách tôn giáo, nhằm phát huy tối đa nguồn lực của các tôn giáo, hạn chế những tác động tiêu cực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại sự ổn định và sự phát triển đất nước.

                                          ______________________________________

1: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị khóa VI, ngày 16/10/1990, tr.2.

2: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 2, tr.45.

3: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.272.

4: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 2, tr.141.

PGS.TS. Bùi Thị Tỉnh - Học viện Chính trị CAND

Khái quát nội dung bảo vệ an ninh quốc gia

Những vấn đề cơ bản về bảo vệ an ninh quốc gia

Bảo vệ an ninh quốc gia là một bài học quan trọng trong giáo dục quốc phòng toàn dân nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia. Sau đây là những ý chính về nội dung bảo vệ an ninh quốc gia Hoatieu đã tổng hợp lại xin chia sẻ đến các bạn.

Nhiệm vụ bảo vệ An ninh quốc gia là một trong những nhiệm vụ quan tọng hàng đầu để bảo vệ sự ổn định và phát triển vững mạnh của xã hội về mọi mặt. Bảo vệ an ninh quốc gia chính là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm hại an ninh quốc gia. Mỗi công dân cần hiểu đúng và đủ về bảo vệ an ninh quốc gia để thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của mình và tích cực tham gia vào công tác bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

1. An ninh quốc gia là gì?

“An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”. An ninh quốc gia bao gồm an ninh trên các lĩnh vực : chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hoá, xã hội, quốc phòng, đối ngoại... trong đó ANCT là cốt lõi, xuyên suốt.

2. Bảo vệ an ninh quốc gia là gì?

- Bảo vệ an ninh quốc gia : là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm hại an ninh quốc gia.

- Hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia là những hành vi xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia là những đối tượng, địa điểm, công trình, cơ sở về chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, khoa học - kĩ thuật, văn hoá, xã hội thuộc danh mục cần được bảo vệ theo quy định của pháp luật. Bảo vệ an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. Cơ quan, tổ chức, công dân có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật.

3. Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia

+ Bảo vệ chế độ chính trị và Nhà nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

+ Bảo vệ an ninh về tư tưởng và văn hoá, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

+ Bảo vệ an ninh trong lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, đối ngoại và các lợi ích khác của quốc gia.

+ Bảo vệ bí mật nhà nước và các mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia.

+ Phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại và loại bỏ các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, nguy cơ đe doạ an ninh quốc gia.

4. Nguyên tắc bảo vệ an ninh quốc gia

+ Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

+ Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN, sự quản lí thống nhất của Nhà nước ; huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân tộc, lực lượng chuyên trách bảo vệ ANQG làm nòng cốt.

+ Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ bảo vệ ANQG với nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế - văn hoá, xã hội ; phối hợp có hiệu quả hoạt động an ninh, quốc phòng với hoạt động đối ngoại.

+ Chủ động phòng ngừa, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động xâm phạm ANQG.

5. Cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG bao gồm :

+ Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị an ninh, tình báo, cảnh sát, cảnh vệ CAND.

+ Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị bảo vệ an ninh quân đội, tình báo quân đội nhân dân.

+ Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển là cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia ở khu vực biên giới trên đất liền và trên biển.

6. Các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia bao gồm :

Vận động quần chúng, pháp luật, ngoại giao, kinh tế, khoa học kĩ thuật, nghiệp vụ, vũ trang.

Trật tự, an toàn xã hội : trạng thái xã hội bình yên trong đó mọi người được sống yên ổn trên cơ sở các quy phạm pháp luật, các quy tắc và chuẩn mực đạo đức, pháp lí xác định.

Đấu tranh giữ gìn trật tự an toàn xã hội bao gồm : Chống tội phạm ; giữ gìn trật tự nơi cộng cộng ; bảo đảm trật tự, an toàn giao thông ; phòng ngừa tai nạn ; bài trừ tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường... Bảo vệ trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, lực lượng Công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt và có chức năng tham mưu, hướng dẫn và trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự công cộng, đảm bảo trật tự an toàn giao thông, tham gia phòng ngừa tai nạn, bài trừ tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường.

+ Bảo vệ an ninh chính trị nội bộ. Đó là các hoạt động bảo vệ chế độ chính trị và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam; giữ gìn sự trong sạch, vững mạnh về mọi mặt của tổ chức Đảng, Nhà nước; bảo vệ các cơ quan đại diện, cán bộ, lưu học sinh và người lao động Việt Nam đang công tác, học tập và lao động ở nước ngoài. Phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá hệ thống chính trị, gây chia rẽ mất đoàn kết, làm tha hoá đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bảo vệ an ninh chính trị nội bộ luôn là nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu, thường xuyên và cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, của các ngành, các cấp.

+ Bảo vệ an ninh kinh tế. Đó là bảo vệ sự ổn định, phát triển vững mạnh của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chống các biểu hiện chệch hướng và các hoạt động phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phá hoại nền kinh tế, gây ảnh hưởng tác hại đến lợi ích của quốc gia. Bảo vệ đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, các nhà khoa học, các nhà kinh doanh không để nước ngoài lôi kéo mua chuộc gây tổn thất hoặc làm chuyển hướng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

+ Bảo vệ an ninh văn hoá, tư tưởng. An ninh văn hoá, tư tưởng là sự ổn định và phát triển bền vững của văn hoá, tư tưởng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bảo vệ an ninh văn hoá, tư tưởng là bảo vệ sự đúng đắn, vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống tinh thần của xã hội; bảo vệ những giá trị đạo đức truyền thống, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc; bảo vệ đội ngũ văn nghệ sĩ, những người làm công tác văn hoá, văn nghệ. Đấu tranh chống lại sự công kích, bôi nhọ, nói xấu của các thế lực thù địch đối với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, ngăn chặn các hoạt động truyền bá văn hoá phẩm phản động, đồi truỵ, thiếu lành mạnh, không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam.

+ Bảo vệ an ninh dân tộc. Đó là bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đảm bảo cho tất cả các thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam cùng phát triển theo đúng Hiến pháp, pháp luật của nhà nước; ngăn ngừa, phát triển, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng dân tộc ít người để làm việc trái pháp luật, kích động gây chia rẽ giữa các dân tộc, xâm hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

+ Bảo vệ an ninh tôn giáo. Bảo vệ an ninh tôn giáo là đảm bảo chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân nhưng đồng thời cũng kiên quyết đấu tranh với các đối tượng, thế lực lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá

+ Đấu tranh phòng, chống tội phạm là việc tiến hành các biện pháp loại trừ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm; phát hiện để ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội, hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại do tội phạm gây ra cho xã hội; điều tra khám phá tội phạm và người phạm tội để đưa ra xử lý trước pháp luật đảm bảo đúng người, đúng tội; giáo dục, cải tạo người phạm tội giúp họ nhận thức được lỗi lầm và cố gắng cải tạo tốt; có thể tái hòa nhập cộng đồng xã hội, trở thành người lương thiện, sống có ích cho xã hội.

+ Giữ gìn trật tự nơi công cộng. Trật tự công cộng là trạng thái xã hội có trật tự hình thành và điều chỉnh bởi các quy tắc, quy phạm nhất định ở những nơi công cộng mà mọi người phải tuân theo. Trật tự công cộng là một mặt của trật tự, an toàn xã hội và có nội dung bao gồm những quy định chung về trật tự, yên tĩnh, vệ sinh, nếp sống văn minh, sẽ tuân thủ những quy định của pháp luật và phong tục, tập quán, sinh hoạt được mọi người thừa nhận. Giữ gìn trật tự nơi công cộng chính là giữ gìn trật tự, yên tĩnh chung, giữ gìn vệ sinh chung, duy trì nếp sống văn minh ở những nơi công cộng - nơi diễn ra các hoạt động chung của nhiều người, đảm bảo sự tôn trọng lẫn nhau trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi của con người.

+ Đảm bảo trật tự, an toàn giao thông.Trật tự, an toàn giao thông là trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông, vận tải công cộng mà mọi người phải tuân theo khi tham gia giao thông, nhờ đó đảm bảo cho hoạt động giao thông thông suốt, có trật tự, an toàn, hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn giao thông gây thiệt hại về người và tài sản. Đảm bảo trật tự, an toàn giao thông không phải là nhiệm vụ của riêng các lực lượng chức năng [cảnh sát giao thông, thanh tra giao thông công chính...] mà là trách nhiệm của tất cả mọi người khi tham gia giao thông. Đó là việc nắm vững và tuân thủ nghiêm túc Luật Giao thông, mọi hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông phải được xử lý nghiêm khắc, những thiếu sót, yếu kém là nguyên nhân, điều kiện gây ra các tai nạn giao thông phải được khắc phục nhanh chóng.

+ Tham gia lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật.

+ Tố cáo hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, hành vi lợi dụng việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

+ Phát hiện, kiến nghị với chính quyền hoặc cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia khắc phục sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia.

+ Phát hiện, cung cấp kịp thời thông tin, tài liệu liên quan đến hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia cho chính quyền hoặc cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia nơi gần nhất.

+ Thực hiện yêu cầu của cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật.

+ Giúp đỡ, tạo điều kiện cho cơ quan và người có trách nhiệm tiến hành các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh với hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.

+ Giáo dục bảo vệ an ninh quốc gia là một nội dung giáo dục quốc dân. Cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo có trách nhiệm đưa nội dung giáo dục bảo vệ an ninh quốc gia và chương trình dạy học trong nhà trường và các cơ sở giáo dục khác phù hợp với ngành học, cấp học.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Video liên quan

Chủ Đề