Vì sao xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam được đặt ra như một tất yếu khách quan

Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế

Ngày phát hành: 05/08/2019 Lượt xem 19398

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển 2011] được thông qua tại Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu ra 8 phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó có nhiệm vụ “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Đây là nhiệm vụ xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế đòi hỏi phải giải đáp những vấn đề cơ bản sau:

1. Một số vấn đề lý luận chung về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

1.1. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan. Tính tất yếu khách quan này được quy định bởi đặc điểm của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Phù hợp với chế độ tư bản chủ nghĩa là nhà nước pháp quyền tư sản - bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản bằng pháp luật tư sản. Phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa nhất định phải là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động bằng pháp luật của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn xuất phát từ đặc điểm, điều kiện lịch sử của Nhà nước Việt Nam. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội không phải từ một nước tư bản phát triển mà từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, bỏ qua chế độ tư bản, xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân rồi nhà nước xã hội chủ nghĩa. Quá trình ấy đòi hỏi phải “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn”1. Do vậy, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan của quá trình hoàn thiện Nhà nước dân chủ nhân dân lên Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn thể hiện ở chỗ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là hình thức tối ưu để thực hiện quyền lực nhà nước thuộc nhân dân. Bởi lẽ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là phương thức tổ chức dân chủ, quyền lực nhà nước mà theo đó pháp luật là cơ sở cho việc thực hiện dân chủ, thực hiện quyền lực cũng như thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mọi chủ thể trong xã hội. Hơn nữa, trong thế kỷ XXI này việc xây dựng nhà nước pháp quyền đang trở thành một yêu cầu mang tính giá trị đặt ra cho các nhà nước; một xu thế khách quan tất yếu đối với các quốc gia dân chủ trong thế giới hiện đại. Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo chung đó.

1.2. Bản chất và đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Về bản chất, ngay từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng Cộng sản Việt Nam [1994] khi lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ nhà n­ước pháp quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định bản chất của Nhà nước pháp quyền Việt Nam: “Tiếp tục xây dựng và từng b­ước hoàn thiện Nhà nư­ớc pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật”2. Từ Đại hội IX trở đi, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khảng định bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - là nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân ủy quyền cho nhà nước quyền lực của mình. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do nhân dân nghĩa là do nhân dân trực tiếp phổ thông đầu phiếu, hoặc thông qua đại biểu của mình gián tiếp bầu lên cơ quan nhà nước và các đại biểu của mình tham gia quản lý quyền lực nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì nhân dân nghĩa là mọi chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải phục vụ nhân dân, nếu không phục vụ nhân dân, không vì nhân dân thì cần phải được thay đổi.

Từ bản chất trên của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từ lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời gian qua, có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:

Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Hai là, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam các cơ quan công quyền và công dân bình đẳng về quyền về quyền và nghĩa vụ, quan hệ đồng trách nhiệm; các quyền tự do, dân chủ và lợi ích chính đáng của con người được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng pháp luật.

Ba là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đề cao vai trò thượng tôn của pháp luật trong quản lý xã hội, trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.

Bốn là, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, các tổ chức đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện tập trung ở Nhà nước, được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động của Nhà nước3.

1.3. Cơ sở của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Một là, cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh””4. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng: [1] Có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; [2] Có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; [3] Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; [4] Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu giải phóng sức sản xuất; [5] Các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường5.

Hai là, cơ sở chính trị của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chế độ dân chủ nhất nguyên do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Chúng ta đều rõ, bản chất của một nền dân chủ không phụ thuộc vào chế độ nhiều đảng hay chế độ một đảng, mà phụ thuộc vào đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, giai cấp nào, sử dụng quyền lực nhà nước bảo vệ lợi ích của ai. Cả về mặt lý luận, cả về mặt thực tiễn Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam “không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống chính trị. Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Điều này ghi rõ trong Hiến Pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam[2].

Ba là, cơ sở xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ quan quyền lực của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa và của nhân dân lao động. Lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức không khác biệt, không mẫu thuẫn mà thống nhất với lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động khác và của cả dân tộc. Do vậy, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng cần tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí.

1.4. Chức năng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như mọi nhà nước khác đều thực hiện chức năng vốn có của Nhà nước. Đó là chức năng chính trị [giai cấp] và chức năng xã hội. Tuy nhiên, do bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do tình hình, điều kiện mới nên từng chức năng chính trị [giai cấp] và chức năng xã hội của nó cũng như mối quan hệ giữa hai chức năng này cũng có sự thay đổi. Chức năng chính trị hòa quện cùng chức năng xã hội và mở rộng hơn trong các nội dụng kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, v.v.. Chức năng xã hội cũng được mở rộng hơn so với thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc. Hơn nữa, chức năng xã hội ngày càng trở nên quan trọng và chủ yếu. Đồng thời, bảo đảm sự thống nhất giữa tính giai cấp với tính nhân dân và tính xã hội của Nhà nước. Bởi lẽ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Lợi ích của nhân dân thống nhất với lợi ích toàn xã hội. Do vậy, về nguyên tắc tính giai cấp đồng nhất với tính nhân dân và tính xã hội. Cũng vì vậy, thực hiện chức năng giai cấp cũng là thực hiện chức năng bảo vệ nhân dân và thực hiện chức năng xã hội. Đây là điểm khác biệt quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Nhà nước pháp quyền tư sản.

1.5. Cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Khoản 3, Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [2013] ghi rõ: “3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Từ Đại hội lần thứ VII của Đảng [1991], với “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phân công, phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước được khẳng định. Đến Hội nghị Trung ương tám khoá VII [1995], cơ chế vận hành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được điều chỉnh: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Từ Đại hội XI và Cương lĩnh xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011], Đại hội XII cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được hoàn thiện một bước quan trọng. Quan điểm về sự thống nhất quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp, kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo trong thiết kế mô hình tổ chức và cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Khác với cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền tư sản - tam quyền phân lập - cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phân công, phối hợp, kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bởi lẽ, quyền lực nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thống nhất và thuộc về nhân dân. Cho nên, về nguyên tắc và bản chất không chia sẻ cho cá nhân hay tổ chức nào khác. Các cơ quan nhà nước khi thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là thực hiện các quyền của nhân dân giao phó, ủy quyền. Ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều có mục đích duy nhất là phục vụ nhân dân.

1.6. Nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Một là, bảo đảm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là nguyên tắc căn bản không chỉ mang tính “nguyên tắc” được khẳng định từ lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, mà còn là kết quả tổng kết lý luận được rút ra từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Do vậy, bảo đảm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhằm bảo đảm cho Nhà nước Việt Nam thực sự mang bản chất của giai cấp công nhân; bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Bảo đảm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là cơ sở, điều kiện để bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân. Đồng thời cũng là cơ sở, điều kiện để phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, giúp nhà nước hoàn thành chức năng của mình và giữ vững bản chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước pháp quyền.

Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp, gắn với đổi mới đồng bộ hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Chúng ta đều rõ, để bảo đảm tính đồng bộ trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chúng ta đồng thời phải xây dựng cả lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nếu chỉ một trong ba bộ phận được xây dựng thì sẽ tạo ra sự khập khiễng, không đồng bộ. Khi ấy, hiệu lực quản lý của Nhà nước sẽ không hiệu quả. Hơn nữa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải gắn với đổi mới hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

2. Thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Thành tựu:

Một là, chức năng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được thay đổi phù hợp với cơ sở kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Quan hệ Nhà nước - công dân, Nhà nước - thị trường, Nhà nước -doanh nghiệp được nhận thức lại và thay đổi từ mang nặng quản lý sang theo hướng Nhà nước kiến tạo, phát triển.

Hai là, tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đại hội XII khẳng định: “Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng và cơ bản”[3]. “Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được quy định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013: … Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn và có những bước tiến trong hoạt động”[4]. “Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn và trong tổ chức thực hiện đã có những bước tiến nhất định”[5]. Quốc hội, Chính phủ và cơ quan tư pháp có nhiều đổi mới về tổ chức, nội dung, phương pháp hoạt động, vì vậy hiệu quả hoạt động được nâng lên. Nói khác đi, tổ chức và cơ chế hoạt động của các thiết chế trong bộ máy nhà nước có nhiều đổi mới trong thực hiện chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của mình[6].

Ba là, hệ thống pháp luật, các đạo luật trong quản lý nhà nước và xã hội ngày càng được coi trọng, được đổi mới, sửa đổi, bổ sung ngày càng đầy đủ, phù hợp hơn, nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính tối cao của Hiến pháp được bảo đảm, Hiến pháp giữ vị trí tối thượng trong hệ thống pháp luật, nguyên tắc mọi văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp và không được trái Hiến pháp được tôn trọng. Thể chế pháp luật về kinh tế tiếp tục cải cách sâu rộng. Nhiều văn bản pháp luật được sửa đổi, bổ sung và ban hành mới[7].

Bốn là, Quốc hội có những đổi mới quan trọng, hoạt động ngày càng dân chủ, thiết thực, hiệu quả. Chính phủ tiếp tục đổi mới và nâng cao hơn năng lực hành pháp, hoạch định chính sách, quản lý vĩ mô, tổ chức bộ máy của Chính phủ và chính quyền địa phương có những đổi mới tích cực và sắp xếp lại hợp lý hơn. Cải cách hành chính được đẩy mạnh. Các cơ quan tư pháp phân định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động. Tổ chức bộ máy của Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, các cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, hạn chế tình trạng oan, sai,v.v..

Hạn chế:

Một là, “chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp”[8]. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước còn chưa thật sự hợp lý. Chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế.

Hai là, “Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, còn chồng chéo; tính công khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế”[9]. Kỷ cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước còn bất cập; cải cách hành chính chậm, thiếu đồng bộ; thủ tục hành chính còn phức tạp. Vẫn còn tình trạng văn bản pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn. Một số luật được thông qua và ban hành nhưng chất lượng hạn chế, chưa sát thực tiễn cuộc sống, tính khả thi hạn chế, phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nhiều lần.

Ba là, hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước pháp quyền ở địa phương còn nhiều hạn chế, vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, oan sai trong hoạt động tư pháp. Cải cách tư pháp còn chậm. Việc thực hành dân chủ có lúc, có nơi còn mang tính hình thức. Cơ chế bảo đảm thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân vẫn chưa được tạo lập đầy đủ; khả năng kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân còn hạn chế.

Bốn là, tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp còn có những mặt hạn chế. Hiệu quả thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội chưa như mong muốn. Vẫn còn những Hội đồng nhân dân hoạt động có tính chất hình thức. Bộ máy của Chính phủ chưa thực sự tinh gọn; quản lý liên ngành và quản lý chuyên ngành còn có những hạn chế nhất định. Giữa các bộ, ngành vẫn còn một số nội dung quản lý trùng lặp hoặc phân công không rõ. Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa phương trên nhiều vấn đề chưa được phân định cụ thể, thiếu rõ ràng, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả chưa cao[10].

3. Phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Một là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị nói chung, đối với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng. Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực, lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Các tổ chức của Đảng và đảng viên phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hai là, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Có phát huy được dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mới giải quyết được mối quan hệ Nhà nước - công dân; Nhà nước - thị trường; Nhà nước - xã hội và quan hệ trong nội bộ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa một cách hiệu quả. Có phát huy được dân chủ xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm được nhà nước không quan liêu, không xa dân, không cồng kềnh, như vậy mới hiệu quả, hiệu lực được. Có phát huy được dân chủ xã hội chủ nghĩa mới phát huy được vai trò của nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc tham gia kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước, góp phần giữ gìn kỷ cương, kỷ luật, tính tối cao của pháp luật. Thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương, kỷ luật, trách nhiệm xã hội, trách nhiệm công dân của nhân dân của công chức nhà nước.

Ba là, từng bước hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trên cơ sở Hiến pháp 2013, cần từng bước hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả. Phát huy dân chủ tranh luận, phản biện, giám sát, đưa ra các quyết định dưới hình thức luật của Quốc hội. Nghiên cứu làm rõ hơn trách nhiệm của Chủ tịch nước theo yêu cầu Nhà nước pháp quyền. Từng bước kiện toàn tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hợp lý, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm tính độc lập của hoạt động tư pháp. Nghiên cứu các cơ chế kiểm soát quyền lực đồng thời với việc tiếp tục duy trì cơ chế giám sát, kiểm tra giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, giữa cơ quan trung ương và địa phương,v.v..

Bốn là, hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 và các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Đồng bộ hoàn thiện pháp luật về môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, pháp luật trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, an sinh xã hội, an ninh, quốc phòng. Đặc biệt, đổi mới hoàn thiện quy trình lập pháp theo hướng: chú trọng đến chất lượng và tính khả thi của các dự án luật./.

GS.TS. Trần Văn Phòng

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh


1 V.I.Lênin [1976]:Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ , Mát- xcơ- va; tr.97.

2 Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.55.

3 Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 30 năm đổi mới [1986-2016]; Nxb CTQG.H.2015; tr.141-143.

4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,H.2016; tr.102.

5 Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,H.2016; tr.102-103.

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG.H.2011; tr.66.

[2] Xem: Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam 2013.

[3] Văn kiện Đại hội XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016; tr.171.

[4] Văn kiện Đại hội XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016; tr.171.

[5] Văn kiện Đại hội XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016; tr.172.

[6] Xem thêm: Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 30 năm đổi mới [1986-2016]; Nxb CTQG.H.2015; tr.149.

[7] Như: Bộ Luật dân sự, Luật Quy hoạch, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư,... và nhiều đạo luật gắn với các lĩnh vực chuyên biệt [Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở, Luật Giao thông đường thủy nội địa, Luật Xây dựng...].

[8] Văn kiện Đại hội XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016; tr.173.

[9] Văn kiện Đại hội XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016; tr.173.

[10] Xem thêm: Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 30 năm đổi mới [1986-2016]; Nxb CTQG.H.2015; tr.154-155.

Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình

23/11/2020

GS.TS.PHAN TRUNG LÝ

Nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội,

NGUYỄN TRUNG THÀNH

Phó Viện trưởng Viện Khoa học Môi trường và Xã hội.

Từ viết tắt In trang Gửi tới bạn
Tóm tắt: Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa [XHCN] do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị...”[1]. Vì vậy, để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN, trước hết cần xây dựng bộ máy hành chính nhà nước liêm chính, hiệu lực, hiệu quả. Mục tiêu đó gắn liền với việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước [CQHCNN]. Trong phạm vi bài viết này, các tác giả tập trung phân tích những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; vị trí, vai trò và những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình nhằm đáp ứng yêu cầu của xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Từ khoá: Công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình.
Abstract: The Resolution of the XII Congress of the Party has emphasized: “Continuation of development and improvement of the socialist rule-of-law socialist state led by the Communist Party is the core task to reform the political system...”. Therefore, in order to successfully develop a rule-of-law socialist state, first of all, it is necessary to establish an effective and effective state administrative apparatus with high integrity. That goal is associated with the implementation of publicity, transparency and accountability of state administrative agencies [the State's administrative agencies]. Within the scope of this article, the authors focus on analysis of the basic characteristics of the Socialist State of Vietnam; positions, roles and issues for the implementation of publication, transparency and accountability to meet the requirements of development of a socialist rule of law in Vietnam
Keywords: Publication, transparency, accountability.
1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ở Việt Nam, khái niệm “Nhà nước pháp quyền XHCN” lần đầu tiên được nêu ra tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII [ngày 29/11/1991] và tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng năm 1994 cũng như trong các văn kiện khác của Đảng. Tiếp theo là tại các Đại hội lần thứ X và XI của Đảng đã có bước phát triển về chất trong nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
Thể chế hoá quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Đảng, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “1. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; 3. Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Xuất phát từ bản chất Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cần được xây dựng trên cơ sở đáp ứng các nguyên tắc sau: [1] Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; [2] Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, mọi chủ thể trong xã hội đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật mà Hiến pháp là đạo luật tối cao, bộ luật gốc mang tính nền tảng; [3] Khẳng định và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tôn trọng sự bình đẳng của mọi cá nhân trong thụ hưởng và phát triển quyền, không có sự phân biệt đối xử, trước tiên và chủ yếu trong việc tham gia vào công tác quản lý nhà nước và xã hội; [4] Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; [5] Bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân. Quyền và nghĩa vụ của công dân được pháp luật thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện, thúc đẩy trong khuôn khổ luật pháp.
Bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước đặt dưới sự điều chỉnh tối cao của pháp luật. Do đó, pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải bảo đảm tính công khai, minh bạch, khả thi và hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và bảo vệ quyền con người.
2. Vị trí, vai trò của công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong hoạt động của bộ máy nhà nước, “công khai” nghĩa là mọi hoạt động của Nhà nước phải được công bố hoặc phổ biến, truyền tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, làm cho mọi người dân có thể tiếp cận được các quyết định của Nhà nước một cách dễ dàng. “Minh bạch” nghĩa là không những phải công khai mà còn phải trong sáng, không khuất tất, không rắc rối, không gây khó khăn cho công dân trong tiếp cận thông tin. Minh bạch luôn phải gắn với trách nhiệm, đòi hỏi Chính phủ và đội ngũ cán bộ, công chức phải công khai quá trình thực hiện công việc cho các bên quan tâm. Ở góc độ này, minh bạch có mối quan hệ chặt chẽ với trách nhiệm, vì có trách nhiệm mới có xu hướng công khai và đảm bảo các điều kiện cho công khai.
Trách nhiệm giải trình được coi là một trong những yếu tố quan trọng của một nền chính trị dân chủ, giúp thiết lập và duy trì mối quan hệ giữa Nhà nước và người dân. Trong mô hình quản trị nhà nước, giải trình giúp người dân biết được “Nhà nước đang làm gì và đang làm như thế nào?”. Giải trình là một phần của quản trị nhà nước đồng thời là yếu tố giúp tăng tính hợp pháp cũng như độ tin cậy của Nhà nước trong mắt người dân. Do vậy, trách nhiệm giải trình được hiểu là nghĩa vụ cung cấp thông tin một cách đầy đủ, rõ ràng về những dữ liệu do mình tạo ra và phải chịu trách nhiệm về hoạt động đó. Với ý nghĩa đó, trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước bao gồm 2 nội dung cơ bản đó là nghĩa vụ cung cấp, lý giải thông tin và phải gắn với trách nhiệm pháp lý của tổ chức, cá nhân giải trình.
Nhà nước pháp quyền XHCN là một mô hình nhà nước mà Việt Nam đang hướng tới, trong đó kết hợp giữa một số yếu tố cơ bản của “xã hội pháp quyền” với đặc thù của hệ thống chính trị nước ra, đó là hệ thống chính trị nhất nguyên, do một đảng chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Tính nhất nguyên còn thể hiện ở chỗ, mặc dù có tiếp thu những yếu tố hợp lý của các học thuyết chính trị, pháp lý khác, song nền tảng tư tưởng về tổ chức, vận hành của bộ máy nhà nước và quản lý xã hội là chủ nghĩa Mác Lênin. Vì vậy, việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng và vận hành của một “xã hội pháp quyền” theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
“Xã hội pháp quyền” theo nghĩa hẹp thể hiện ở việc hạn chế sự tùy tiện trong việc sử dụng quyền lực nhà nước, mà điều này đòi hỏi phải “ràng buộc quyền lực vào các đạo luật được xây dựng rõ ràng và chặt chẽ”[2]. Đây chính là một đòi hỏi về sự công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực thi pháp luật, để có thể “buộc các quan chức chính quyền và công dân phải hành xử phù hợp với pháp luật”[3].
“Xã hội pháp quyền” theo nghĩa rộng được hiểu là “một hệ thống/cơ chế mà trong đó không có chủ đề nào, ngay cả nhà nước, đứng trên pháp luật; nơi mà pháp luật bảo vệ các quyền cơ bản và tất cả mọi người đều có thể tiếp cận với công lý”[4]. Hệ thông/cơ chế đó không thể xây dựng và vận hành được trong bối cảnh thiếu công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Để buộc mọi cá nhân, tổ chức, thiết chế, cả công và tư, đều phải tuân thủ pháp luật thì pháp luật phải được xây dựng một cách minh bạch, được công bố công khai, được áp dụng bình đẳng. Nguyên tắc thượng tôn pháp luật cũng đòi hỏi các chủ thể có liên quan chịu trách nhiệm trước pháp luật và trách nhiệm giải trình trước các chủ thể khác, từ đó mới có thể tạo lập sự tin cậy, tính công bằng trong áp dụng pháp luật, ngăn ngừa sự tùy tiện trong việc xây dựng và thực thi pháp luật.
Mặc dù không hoàn toàn đồng nhất với “xã hội pháp quyền”, nhưng do kết hợp nhiều yếu tố của “xã hội pháp quyền” nên công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình cũng có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và vận hành Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Cụ thể, vị trí, vai trò của công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình thể hiện rõ nhất qua việc những vấn đề này là cơ sở để hiện thực hoá hai đặc trưng cơ bản sau đây của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam:
Đặc trưng thứ nhất, Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của Nhân dân. Đặc trưng này có nghĩa là Nhà nước phải công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải trình trước Nhân dân; nó cũng có nghĩa Nhân dân-với tư cách là chủ thể lập nên Nhà nước-có quyền yêu cầu Nhà nước phải công khai, minh bạch cũng như phải báo cáo, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về tổ chức và hoạt động của mình.
Đặc trưng thứ hai, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước của Nhân dân thông qua các tổ chức xã hội. Trong đặc trưng này, việc các cơ quan nhà nước thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình vừa là một yêu cầu, vừa là một điều kiện để Nhân dân có thể thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của mình với hoạt động của các cơ quan.
3. Yêu cầu đặt ra đối với việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình đáp ứng yêu cầu của xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Thứ nhất,yêu cầu gắn vấn đề công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong tổ chức, hoạt động của các CQHCNN với việc kiểm soát quyền lực nhà nước.
Thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình có thể kiểm soát được việc sử dụng quyền lực nhà nước một cách hiệu quả nhất, vì thế phải xem công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình như là một yếu tố cấu thành cốt lõi trong mọi chiến lược, kế hoạch, chính sách, pháp luật về kiểm soát quyền lực của bộ máy CQHCNN.
Thứ hai, yêu cầu về xây dựng,áp dụng các quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệpcủa cán bộ, công chức, viên chức hành chính.
Quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp cần đưa ra những yêu cầu về thái độ, hành vi của cán bộ, công chức, viên chức hành chính khi thi hành công vụ. Đồng thời, các hình thức xử lý trách nhiệm cũng cần được quy định rõ và tương xứng nhằm đảm bảo thực hiện các quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp trên thực tế. Mặt khác, cần giáo dục, nâng cao ý thức của cán bộ, công chức hành chính về thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự liêm chính. Mỗi cán bộ, công chức hành chính phải coi công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong thi hành công vụ là trách nhiệm của mình. Tính liêm chính thể hiện phẩm chất của mỗi người và cần được coi như một yêu cầu bắt buộc đối với cán bộ, công chức - những người công bộc của nhân dân và phải gương mẫu trước Nhân dân.
Thứ ba, yêu cầu bảo đảm sự tuân thủ pháp luật về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của các CQHCNN.
Bảo đảm sự tuân thủ pháp luật về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải thực hiện nghiêm túc các quy định có liên quan của của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, đặc biệt là quy định tại Điều 9, trong đó việc công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình phải bảo đảm chính xác, rõ ràng, đầy đủ, kịp thời theo trình tự, thủ tục của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền và phù hợp với quy định của pháp luật. Tuân thủ pháp luật về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình đòi hỏi áp dụng nhiều hình thức công khai khác nhau để các chủ thể có thể theo dõi, giám sát bộ máy nhà nước nói chung, các CQHCNN nói riêng. Bảo đảm sự tuân thủ pháp luật về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình đòi hỏi phải nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong vấn đề này, thông qua việc chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc quyền quản lý thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với các trường hợp vi phạm pháp luật về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình.
Thứ tư, yêu cầu bảo đảm công khai, minh bạch trong xây dựng chính sách, pháp luật.
Cần thực hiện nghiêm túc, hiệu quả việc tham vấn ý kiến người dân và doanh nghiệp về các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; kết hợp với việc minhbạch hóa quá trình chuẩn bị, soạn thảo, trình, ban hành các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, cần chú trọng rà soát, hệ thống hóa, công bố danh mục tài liệu bí mật nhà nước để ngăn ngừa, hạn chế việc lợi dụng bí mật nhà nước theo nguyên tắc: Công khai là tối đa, bí mật là tối thiểu.
Quản lý nhà nước không tách rời thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quyết định đối với các chủ thể quản lý. Vì vậy, cần hoàn thiện khung khổ pháp luật để tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị hành chính, cũng như các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động của các ngành, các cơ quan, đơn vị hành chính nhằm đảm bảo sự công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình.
Thứ năm, yêu cầu về việc nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện công khai, minh bạch.
Các cơ quan nhà nước cần thực hiện nghiêm quy định về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong tổ chức và hoạt động, có trách nhiệm giải trình rõ những ý kiến, kiến nghị của người dân về các vấn đề liên quan, đem lại hiệu quả cao nhất trong vấn đề này. Đồng thời, Nhà nước cần đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng đơn giản hóa để tạo thuận lợi nhất cho các tổ chức, cá nhân khi có yêu cầu giải quyết công việc; tạo điều kiện để người dân có thể giám sát và kiểm soát được hoạt động của cơ quan công quyền với phương châm lấy sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp làm thước đo của hiệu quả hành chính công.
Thứ sáu, yêu cầu về nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức hành chính trong thực thi công vụ.
Việc này đòi hỏi phải tổ chức thực hiện tốt quy định của Luật Cán bộ, công chức; xây dựng và thực hiện chế độ, định mức công việc theo vị trí việc làm gắn với phân công rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cán bộ, công chức hành chính. Việc đảm bảo công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong đánh giá cán bộ, công chức hành chính và sự minh bạch trong quản trị nhà nước sẽ tạo thuận lợi cho người dân giám sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, trong đó, việc xây dựng, thực hiện định mức theo vị trí việc làm và trách nhiệm công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình là điều kiện để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính liêm chính, kỷ cương, trách nhiệm. Nhà nước cũng cần duy trì và nâng cao chất lượng quản lý hoạt động cơ quan hành chính theo tiêu chuẩn ISO hiện đã và đang áp dụng tại một số cơ quan, đơn vị. Ngoài ra, Nhà nước cần hoàn thiện và thực hiện các bộ quy tắc ứng xử, đạo đức công vụ để công dân có căn cứ giám sát hoạt động của cán bộ, công chức và cơ quan hành chính.
Thứ bảy, yêu cầu đảm bảo sự giám sát của người dân và quyền giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Sự tham gia của Nhân dân vào quản trị nhà nước không chỉ làm cho các quyết định của Nhà nước được ban hành sát với thực tế, mà còn là cơ sở tăng cường sự minh bạch hoạt động của cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ. Vì vậy, cần đảm bảo sự giám sát của người dân và quyền giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội trên thực tế. Ngoài ra, cần phát huy vai trò của báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng trong việc cung cấp thông tin về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, các CQHCNN nói riêng, tạo diễn đàn tranh luận cho công chúng và tạo dư luận để thúc đẩy tiến trình, nội dung minh bạch hóa hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, các CQHCNN nói riêng.
Kết luận: Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Yêu cầu đặt ra là Đảng phải luôn đảm bảo được tính chính đáng trong cầm quyền của mình thể hiện uy tín, sự tin tưởng, sự cuốn hút của Đảng đối với Nhân dân; tính hiệu quả trong lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, đáp ứng yêu cầu, lợi ích của Nhân dân. Do đó, việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các CQHCNN là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa to lớn đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2016.
2. Trần Ngọc Đường, Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Tuyên giáo, ngày 2/1/2016, //tuyengiao.vn/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/xay-dung-va-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-83808.
3. Lương Đình Hải, Xây dựng nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ hoá xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 1 [176], tháng 1-2006.
4. Trần Đại Quang, “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”,www.nhandan.com.vn, 2017.
5. Lưu Ngọc Tố Tâm, Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong xu thể hội nhập và phát triển, Tạp chí Tổ chức nhà nước, ngày đăng 12/04/2018.
6. Rule of Law, tại //www.lexico.com/en/definition/rule­­_of_law, truy cập ngày 25/10/2019.
7. Brian Tamanaha [2007], “A Concise Guide to the Rule of Law”, tại //ssrn.com/abstract=1012051, truy cập ngày 28/10/2019.
8. The World Justice Project, tại: //worldjusticeproject.org/about-us/overview/what-rule-law, truy cập ngày 25/10/2019.

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2016.
[2] Xem Rule of Law, tại //www.lexico.com/en/definition/rule­­_of_law, truy cập ngày 25/10/2019.
[3] Xem: Brian Tamanaha [2007], “A Concise Guide to the Rule of Law”, tr.3, tại //ssrn.com/abstract=1012051, truy cập ngày 28/10/2019.
[4] Xem: The World Justice Project, tại: //worldjusticeproject.org/about-us/overview/what-rule-law, truy cập ngày 25/10/2019.

[Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 15 [415], tháng 8/2020.]

Video liên quan

Chủ Đề