Ví dụ quan hệ nhân thân không gắn với tài sản

Cụm từ q.uan h.ệ nhân thân được sử dụng rất nhiều trong các văn bản pháp luật như Luật hôn nhân và gia đình, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự…. Tuy nhiên khi nhắc đến điều này, vẫn chưa có nhiều người được biết đến hoặc chưa hiểu rõ về nó.

Vậyq.uan h.ệ nhân thân là gì? Đặc điểm q.uan h.ệ nhân thân ra sao? Q.uan h.ệ nhân thân được phân loại như thế nào? Mời quý vị tham khảo bài viết dưới đây của chúng tôi để hiểu rõ.

Q.uan h.ệ nhân thân là q.uan h.ệ xã hội gắn liền với giá trị nhân thân của cá nhân, tổ chức. Q.uan h.ệ nhân thân không thể chuyển giao cho chủ thể khác như q.uan h.ệ tài sản.

Q.uan h.ệ nhân thân tiếng Anh là gì?

Q.uan h.ệ nhân thân tiếng Anh là Personal relations.

Đặc điểm của q.uan h.ệ nhân thân

Q.uan h.ệ nhân thân có những đặc điểm như sau:

+ Q.uan h.ệ xã hội gắn liền với một cá nhân, tổ chức

Q.uan h.ệ này luôn đi cùng một chủ thể xác định, có từ khi chủ thể được xác lập và chấm dứt khi chủ thể chấm dứt hoạt động.

+ Q.uan h.ệ nhân thân không thể trao đổi ngang giá

Đây là q.uan h.ệ xã hội gắn liền với giá trị nhân thân, có giá trị tinh thần nên không thể định giá, đem ra trao đổi mua bán như tài sản.

Phân loại q.uan h.ệ nhân thân

Q.uan h.ệ nhân thân được phân chia thành 2 loại:

– Q.uan h.ệ nhân thân gắn với tài sản: Q.uan h.ệ nhân thân gắn với tài sản là q.uan h.ệ về những giá trị nhân thân mà khi xác lập thì làm phát sinh q.uan h.ệ tài sản.

– Q.uan h.ệ nhân thân không gắn với tài sản: Q.uan h.ệ nhân thân không gắn liền với tài sản là q.uan h.ệ về những giá trị nhân thân không thể trao đổi ngang giá

Quy định của pháp luật về q.uan h.ệ nhân thân

Q.uan h.ệ nhân thân là đối tượng điều chỉnh của khá nhiều ngành luật. Ví dụ như Luật hôn nhân và gia đình, luật cán bộ công chức, luật viên chức, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Luật sở hữu trí tuệ,…

Q.uan h.ệ nhân thân được thể hiện rõ nhất là trong Bộ luật dân sự và Bộ luật hình sự. Bộ luật dân sự đã có những quy định riêng để bảo vệ quyền nhân thân của một cá nhân khi tham gia vào các q.uan h.ệ xã hội. Đây là quyền xuất phát từ q.uan h.ệ nhân thân của mỗi người. Ví dụ như quyền có họ tên, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền khai sinh, ….

Xuất phát từ đặc điểm của q.uan h.ệ nhân thân, Nhà nước đã ban hành quy định pháp luật để bảo vệ các giá trị xuất phát từ q.uan h.ệ nhân thân, gọi là quyền nhân thân. Quyền nhân thân được quy định cụ thể tại Bộ luật dân sự.

Trong đó, quyền nhân thân bao gồm: quyền có họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền của cá nhân đối với hình ảnh; quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự, uy tín; quyền đối với bí mật đời tư, quyền kết hôn, quyền ly hôn; quyền có quốc tịch; quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo; quyền tự do đi lại, cư trú; quyền lao động, quyền tự do sáng tạo; quyền của tác giả đối với tác phẩm; quyền đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp.

Bộ luật hình sự có quy định chế tài xử lý những cá nhân có hành vi xâm phạm đến q.uan h.ệ nhân thân của người khác ví dụ tội vu khống, tội giết người, tội xúc phạm danh dự nhân phẩm,…. Đây là chế tài xử phạt những người xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm mà mỗi cá nhân đều được hưởng theo quy định của Liên hợp quốc về quyền con người.

Mỗi người được pháp luật bảo vệ các quyền nhân thân của mình, khi bị xâm phạm, người bị hại có quyền yêu cầu người có hành vi vi phạm hoặc cơ quan tư pháp xử lý hành vi vi phạm dưới một trong các hình thức sau: buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm; xin lỗi công khai; tự mình cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng; tự mình yêu cầu hoặc yêu cầu Tòa án  buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại vật chất và tinh thần.

Trên đây là những thông tin cơ bản về q.uan h.ệ nhân thân mà chúng tôi muốn gửi tới bạn đọc. Chúng tôi hi vọng những thông tin mà chúng tôi cung cấp có thể giúp bạn đọc hiểu hơn như thế nào được gọi là “q.uan h.ệ nhân thân là gì?”.

Để phân biệt được quyền nhân thân và quan hệ nhân thân trước hết ta cần hiểu khái niệm, đặc điểm của quan hệ nhân thân và quyền nhân thân.

Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568

1. Quan hệ nhân thân là gì?

– Quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Khi nói tới quan hệ nhân thân, chúng ta có thể hiểu các quan hệ này xuất phát từ các giá trị tinh thần của chủ thể, giá trị tinh thần này có thể gắn liền với lợi ích về kinh tế hoặc có thể không gắn liền với lợi ích về kinh tế. Quan hệ nhân thân là một trong hai đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự.

– Quan hệ nhân thân phát sinh vì lợi ích tinh thần, luôn gắn liền với chủ thể nó không mang tính hàng hóa – tiền tệ và không thể tính được bằng trị giá. Nếu như ở quan hệ tài sản, có thể có sự dịch chuyển tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác thì trong quan hệ nhân thân, việc dịch chuyển các giá trị tinh thần là không thể thực hiện được.

2. Đặc điểm quan hệ nhân thân:

Các quyền nhân thân được nhiều ngành luật điều chỉnh. Luật hành chính quy định về trình tự, thủ tục để xác định các quyền nhân thân: phong các danh hiệu cao quý của Nhà nước; tặng thưởng các loại huân, huy chương; công nhận các chức danh… Luật hình sự bảo vệ các giá trị nhân thân bằng cách quy định: những hành vi nào khi xâm phạm đến những giá trị nhân thân nào được coi là tội phạm [như các tội: Vu khống, làm nhục người khác, làm hàng giả…]. Một trong những yếu tố thể hiện sự khác nhau trong quan hệ nhân thân do từng ngành luật điều chỉnh đó chính là đặc điểm của quan hệ nhân thân đó.

Quan hệ nhân thân do Luật dân sự điều chỉnh có những đặc điểm nỗi bật đó là:

– Thứ nhất, quan hệ nhân thân do Luật dân sự điều chỉnh luôn luôn liên quan đến một lợi ích tinh thần. Lợi ích tinh thần có thể là những giá trị tinh thần được pháp luật ghi nhận và mọi người tôn trọng như danh dự, nhân phẩm, uy tín… Nhưng lợi ích tinh thần đó cũng có thể là kết quả của hoạt động lao động sáng tạo của con người [các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, cây trồng]. Lợi ích tinh thần là yếu tố chi phối quan hệ nhân thân do Luật dân sự điều chỉnh – để phân biệt với quan hệ tài sản, luôn liên quan đến tài sản.

– Thứ hai, quan hệ nhân thân không xác định được bằng tiền – Giá trị nhân thân và tiền tệ không phải là những đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Trong quá trình tham gia vào các quan hệ xã hội, lợi ích tinh thần của cá nhân có thể do pháp luật quy định cho cá nhân, có thể do cá nhân có được liên quan đến hoạt động sáng tạo tinh thần, tuy nhiên các lợi ích tinh thần đó không thể định giá thành tiền hay nói cách khác về mặt pháp lí quan hệ nhân thân mang tính chất phi tài sản.

– Thứ ba, các lợi ích tinh thần luôn gắn liền với chủ thể. Pháp luật dân sự thừa nhận quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân mà không thể chuyển dịch cho chủ thể khác. Các quyền dân sự nói chung, quyền nhân thân nói riêng là do Nhà nước quy định cho các chủ thể dựa trên những điều kiện kinh tế – xã hội nhất định. Do vậy, về mặt nguyên tắc, cá nhân không thể dịch chuyển quyền nhân thân cho chủ thể khác, nói cách khác quyền nhân thân không thể là đối tượng trong các giao dịch dân sự giữa các cá nhân. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt pháp luật quy định thì quyền nhân thân có thể chuyển giao cho chủ thể khác. Ví dụ: Theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 738 Bộ luật dân sự năm  2005 thì quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm được coi là quyền nhân thân thuộc quyền tác giả. Tuy nhiên, quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm của tác giả có thể được chuyển giao cho người khác khi đảm bảo các điều kiện do pháp luật về sở hữu trí tuệ quy định [khoản 1, Điều 742 – Chuyển giao quyền tác giả]. Mặc dù vậy thì vẫn có những yếu tố gắn liền với chủ thể mà không thể thay đổi được.

– Thứ tư, các lợi ích tinh thần không thể bị hạn chế hoặc tước bỏ, trừ trường hợp pháp luật quy định. Mỗi chủ thể có những giá trị nhân thân khác nhau nhưng được bảo vệ như nhau khi các giá trị đó bị xâm phạm.

Xem thêm: Chủ thể là gì? Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự theo BLDS năm 2015?

3. Phân loại quan hệ nhân thân:

Luật Dân sự trong việc điều chỉnh các quan hệ nhân thân khằng định đây là những quyền tuyệt đối gắn liền với cá nhân.Quan hệ nhân thân trong Luật dân sự được chia làm 2 nhóm: Quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản

 + Nhóm các quan hệ nhân thân gắn với tài sản là nhóm các quan hệ xuất phát từ các giá trị tinh thần ban đầu, các chủ thế sẽ được hưởng các lợi ích vật chất từ việc chuyển quyền đối với kết quả của hoạt động sáng tạo. Đây là những quan hệ nhân thân do cá nhân tạo ra từ việc tạo ra một giá trị tinh thần bằng nhân thân và gắn với tài sản và nó có thể chuyển giao cho người khác.

+ Nhóm các quan hệ nhân thân không gắn với tài sản là nhóm các quan hệ được Nhà nước quy định trong Bộ luật dân sự 2005 cho các cá nhân. Các quan hệ nhân thân không gắn với tài sản đó là các quan hệ nhân thân xuất phát từ giá trị tinh thần và các giá trị tinh thần này không có nội dung kinh tế và hoàn toàn không thể chuyển giao được

4. Các quy định về quyền nhân thân theo Bộ luật dân sự 2015:

Điều 24 Bộ luật Dân sự năm 2015 định nghĩa quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Như vậy, có thể khái quát một số đặc điểm về quyền nhân thân như sau: Là một quyền dân sự do luật định và được pháp luật bảo vệ; mọi cá nhân đều có sự bình đẳng về quyền nhân thân; quyền nhân thân có tính chất phi tài sản và luôn gắn liền với cá nhân, không thể chuyển giao trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Bộ luật dân sự 2015 quy định quyền nhân thân từ Điều 24 đến Điều 51, trong đó quyền nhân thân bao gồm các nhóm quyền sau đây:

* Nhóm quyền nhân thân gắn liền với chủ thể trong quan hệ hôn nhân gia đình [quy định từ Điều 39 tới Điều 44 Bộ luật dân sự].

* Nhóm các quyền liên quan tới sự cá biệt hóa cá nhân[quy định từ Điều 26 tới Điều 31, Điều 36, Điều 45]

Xem thêm: Các đặc điểm của quan hệ tài sản thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự

* Nhóm các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân [quy định từ Điều 32 tới Điều 35]

* Nhóm các quyền liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể [quy định tại Điều 37, Điều 38, Điều 46 tới Điều 51]

* Nhóm các quyền nhân thân đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ [Gồm Quyền tác giả đối với tác phẩm; Quyền nhân thân của người biểu diễn; Quyền nhân thân của tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí; Quyền tác giả giống cây trồng].

5. Phân biệt quyền nhân thân và quan hệ nhân thân:

 Quyền nhân thân là tiền đề hình thành nên quan hệ nhân thân

+ Quyền nhân thân: Là một quyền dân sự do luật định và được pháp luật bảo vệ; Trong Bộ luật dân sự thì quyền nhân thân được quy định từ Điều 24 đến Điều 51.

+ Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người về một giá trị nhân thân của cá nhân, tổ chức. Quan hệ nhân thân phát sinh trên cơ sở quy phạm pháp luật – là các quy định về quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật dân sự, cùng với các sự kiện pháp lý và năng lực chủ thể. Có các quy định về quyền nhân thân mới có thể phát sinh quan hệ nhân thân.

– Cơ sở phát sinh

+ Quyền nhân thân là quyền được pháp luật ban hành hoặc thừa nhận cho các chủ thể. Do vậy quyền nhân thân có mối quan hệ hữu cơ đối với cá nhân từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi cá nhân chết. Mỗi cá nhân đều bình đẳng về quyền nhân thân.

Xem thêm: Trường hợp vay tiền, mượn tiền trong quan hệ dân sự

+ Không giống như quyền nhân thân để xác lập nên quan hệ nhân thân bên cạnh việc phải căn cứ xem đó có phải là các quyền nhân thân đã được quy định trong luật hay không thì nó còn đòi hỏi khi tham gia quan hệ phải có năng lực hành vi chủ thể cũng như là sự kiện pháp lý. Tức là trong quan hệ nhân thân thì bên cạnh chỉ có quyền nhân thân được đề cập tới mà các quy phạm pháp luật dân sự khác nói chung [ví dụ như độ tuổi, năng lực hành vi dân sự …] cũng được xem xét xem liệu có phát sinh quan hệ nhân thân hay không.

Video liên quan

Chủ Đề