Top 5 ngân hàng trung quốc năm 2022

Kinh doanh

Show
  • Thứ năm, 17/11/2022 19:00 (GMT+7)
  • 19:00 17/11/2022

Giới chức Trung Quốc yêu cầu các ngân hàng nước này báo cáo khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán ngắn hạn, khi đợt bán tháo trái phiếu khiến nhà đầu tư ồ ạt rút tiền.

Top 5 ngân hàng trung quốc năm 2022

Ít nhất 5 ngân hàng thương mại đã báo cáo tình hình thanh khoản và rủi ro tiềm ẩn cho các cơ quan quản lý. Ảnh: Reuters.

Theo nguồn tin của Bloomberg, yêu cầu bất thường của Bắc Kinh được đưa ra ngay sau cú giảm mạnh nhất trong hơn 2 năm của trái phiếu chính phủ ngắn hạn.

Xu hướng đi xuống của trái phiếu chính phủ một phần do sự chuyển hướng sang những tài sản rủi ro hơn như cổ phiếu đã thúc đẩy các nhà đầu tư nhỏ lẻ rút tiền khỏi các sản phẩm quản lý tài sản, khiến vòng xoáy giảm giá - rút tiền càng nghiêm trọng.

Ảnh hưởng tiêu cực đã lan sang các trái phiếu doanh nghiệp được xếp hạng cao, đẩy lợi suất lên mức kỷ lục vào tuần này.

Rủi ro mất cân đối nguồn vốn ngắn hạn

Một số nhà băng đang tìm cách trấn an các nhà đầu tư. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC) đã tăng gần gấp đôi quy mô bơm tiền vào hệ thống tài chính thông qua các nghiệp vụ thị trường mở.

Nguồn tin của Bloomberg cho biết các điều kiện thanh khoản khả năng cao sẽ ổn định trong vài ngày tới.

Các ngân hàng lớn nhất Trung Quốc có khả năng tiếp cận vốn dồi dào. Nhưng những biến động quá lớn về giá và làn sóng rút tiền đe dọa gây mất cân đối nguồn vốn ngắn hạn.

Trên thực tế, Bloomberg cho rằng tình trạng hỗn loạn này là "tác dụng phụ" khi sự lạc quan về triển vọng kinh tế gia tăng. Thị trường chứng khoán 10.000 tỷ USD của Trung Quốc đã tăng vọt trong những ngày qua.

Top 5 ngân hàng trung quốc năm 2022

Trung Quốc vừa ban hành các chính sách nới lỏng mạnh tay với lĩnh vực bất động sản. Ảnh: Reuters.

Đà tăng được thúc đẩy bởi việc Bắc Kinh nới lỏng các yêu cầu chống dịch, hạ nhiệt căng thẳng với Mỹ và đưa ra gói giải cứu đối với thị trường bất động sản. Khi dòng tiền chảy vào cổ phiếu và những công cụ đầu tư khác, các khoản đầu tư an toàn như trái phiếu chính phủ giảm sức hút.

Ít nhất 5 ngân hàng thương mại đã báo cáo tình hình thanh khoản và rủi ro tiềm ẩn cho PBoC và Ủy ban Quản lý Ngân hàng và Bảo hiểm Trung Quốc trong vài ngày qua.

Trong một tuyên bố, đơn vị quản lý tài sản của Bank of China cho rằng "đợt sụt giảm của thị trường trái phiếu khiến thị giá của một số sản phẩm quản lý tài sản đi xuống".

Bank of China cho biết sẽ kiểm soát lỗ và tăng cường theo đuổi những khoản đầu tư an toàn.

Industrial Bank và China Zheshang Bank cũng đưa ra các tuyên bố tương tự trên tài khoản WeChat chính thức. Họ khuyến khích nhà đầu tư "mua đáy" để kiếm lời về dài hạn.

Rút tiền khỏi các WMP

Ngày 16/11, PBoC đã bơm ròng 123 tỷ nhân dân tệ (tương đương 17,3 tỷ USD) trong 7 ngày thông qua các nghiệp vụ thị trường mở.

Cơ quan này cho biết đã bơm hơn 1.000 tỷ nhân dân tệ trong tháng này thông qua việc kết hợp các công cụ chính sách ngắn, trung và dài hạn. Động thái của PBoC tạo ra cú hích cho thị trường trái phiếu, nhưng tâm lý lạc quan không kéo dài.

Lợi suất trái phiếu kỳ hạn một năm của Trung Quốc đã tăng khoảng 40 điểm cơ bản trong 5 ngày qua lên 2,25%, mức cao nhất kể từ tháng 1.

Lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm tăng 10 điểm cơ bản trong một ngày vào tuần này.

Trong vài năm qua, các cơ quan quản lý Trung Quốc đã nhắm vào những sản phẩm quản lý tài sản của các nhà băng nước này. Họ lo ngại về một loạt rủi ro từ đòn bẩy tài chính và hoạt động bảo lãnh. Nguyên nhân là tình trạng thiếu minh bạch về thời hạn và mục đích sử dụng vốn.

Năm ngoái, Bắc Kinh đã trấn áp hơn 1.000 tỷ USD sản phẩm quản lý tài sản (WMP) thiếu minh bạch, cấm các bên cho vay và quản lý tài sản sử dụng tiền thu được từ WMP để mua trái phiếu dài hạn hoặc trái phiếu được xếp hạng dưới AA+.

Theo nghiên cứu từ Citi Securities, tính đến giữa tháng 10, tổng giá trị của những WMP chưa thanh toán tại các ngân hàng Trung Quốc đã lên tới 9.780 tỷ nhân dân tệ.

Độc giả Zing có thể tìm đọc thêm các cuốn sách hay về kinh tế tại Tủ sách kiến thức kinh tế. Các cuốn sách cung cấp cho độc giả nhiều kiến thức về kinh tế vĩ mô, chứng khoán, bất động sản, lạm phát, các cuộc suy thoái từng xảy ra, kinh nghiệm quản lý chi tiêu...

Thảo Phương

thanh khoản ngân hàng ngân hàng thanh khoản Trung Quốc

Bạn có thể quan tâm

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Ngân hàng Công Thương Trung Quốc
Top 5 ngân hàng trung quốc năm 2022

Loại hình

Công ty đại chúng
Mã niêm yết

  • SSE: 601398 (A thông thường)
  • SEHK: 1398 (H thông thường)
  • SSE: 360011 (CNY ưu tiên)
  • SEHK: 84602 (CNH Tùy chọn)
  • SEHK: 4603 (US$ Tùy chọn)
  • SEHK: 4604 (€ Tùy chọn)
  • Hang Seng Index

Mã ISINCNE1000003G1
Ngành nghềNgân hàng
Dịch vụ tài chính
Dịch vụ đầu tư
Thành lậpSố 55, Đại lộ Nội Phúc Hưng Môn, quận Tây Thành, Bắc Kinh, Trung Quốc
(1984; 38 năm trước)
Trụ sở chínhBắc Kinh, Trung Quốc

Thành viên chủ chốt

Dịch Hội Mãn (Chủ tịch)
Cốc Chú (Giám đốc điều hành)
Sản phẩmTài chính và bảo hiểm
Ngân hàng bán lẻ
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng đầu tư
Quản lý đầu tư
Quản lý tài sản toàn cầu
Cổ phần thương mại
Vay thế chấp
Thẻ tín dụng
Doanh thu
Top 5 ngân hàng trung quốc năm 2022
641,681 tỷ Nhân dân tệ(2016)[1]

Lợi nhuận kinh doanh

Top 5 ngân hàng trung quốc năm 2022
363,279 tỷ Nhân dân tệ(2016)[1]
Lợi nhuận ròng
Top 5 ngân hàng trung quốc năm 2022
279,106 tỷ Nhân dân tệ(2016)[1]
Tổng tài sản
Top 5 ngân hàng trung quốc năm 2022
24,137 nghìn tỷ Nhân dân tệ(2016)[1]
Tổng vốn
chủ sở hữu
Top 5 ngân hàng trung quốc năm 2022
1,970 nghìn tỷ Nhân dân tệ(2016)[1]
Chủ sở hữu

  • Chính quyền Trung ương Trung Quốc
  • (70,82% quyền biểu quyết)
  • – Hối kim Trung ương (35%)
  • – Bộ Tài chính (34,60%)
  • – Tổng công ty Tài chính Chứng khoán Trung Quốc (1,23%)
  • Temasek Holdings (2,44% quyền biểu quyết)
  • NSSF (2,43% quyền biểu quyết)
  • Khác (24,31% quyền biểu quyết)

Số nhân viên
Top 5 ngân hàng trung quốc năm 2022
461.749(2016)[1]
Tỷ suất vốn
Top 5 ngân hàng trung quốc năm 2022
12,87% (CET1)[1]
Websiteicbc.com.cn
Top 5 ngân hàng trung quốc năm 2022
Chi nhánh Bắc Kinh.
Top 5 ngân hàng trung quốc năm 2022
ICBC tại Tây An
Top 5 ngân hàng trung quốc năm 2022
ICBC Canada

Ngân hàng Công thương Trung Quốc (tên tiếng Trung Quốc: 中国工商银行股份有限公司, Hán-Việt: Trung Quốc Công Thương Ngân hàng Cổ phần hữu hạn công ty; tiếng Anh: Industrial and Commercial Bank of China, viết tắt ICBC) là một ngân hàng Trung Quốc. Trụ sở chính nằm tại số 55 Đại lộ Nội Phúc Hưng Môn, quận Tây Thành, thủ đô Bắc Kinh. Đây là ngân hàng lớn nhất Trung Quốc và cũng là lớn nhất thế giới xét về tổng tài sản. Nó cũng là một trong những ngân hàng thương mại quốc doanh thuộc Big Four, là nhóm bốn ngân hàng lớn nhất Trung Quốc cùng với Ngân hàng Trung Quốc, Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc và Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc. Nó được thành lập như một công ty trách nhiệm hữu hạn vào ngày 1 tháng 1 năm 1984. Tính đến tháng 12 năm 2017, nó có tổng tài sản trị giá 4.009 tỷ đôla Mỹ.[2] Nó được coi là ngân hàng lớn nhất thế giới và công ty đại chúng lớn nhất thế giới về tài sản,[3][4][5] trở thành doanh nghiệp đầu tiên tại Trung Quốc có được như vậy.[6][7][8] ICBC đứng đầu thế giới theo bảng xếp hạng The Banker thống kê 1.000 ngân hàng lớn nhất thế giới và cũng đứng số 1 thế giới trong danh sách Forbes Global 2000 nhiều năm trở lại đây.[9]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 9 năm 1983, Hội đồng Nhà nước đã quyết định thành lập ngân hàng thực hiện các nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước tách biệt với các ngân hàng khác. Chi nhánh văn phòng đầu tiên được mở vào ngày 1 tháng 1 năm 1984 tại Bắc Kinh với tư cách là một ngân hàng địa phương, với số vốn điều lệ là 20,8 tỷ nhân dân tệ, tổng tài sản ước tính 333,3 tỷ nhân dân tệ. Tháng 6 năm 1985, Ngân hàng Công thương Trung Quốc đã trở thành thành viên đầy đủ của Hiệp hội Ngân hàng Quốc tế. Đến ngày 27 tháng 10 năm 2006, ICBC chính thức chào bán cổ phiếu ra công chúng trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thượng Hải và Hồng Kông. Sau khi niêm yết, nó trở thành công ty lớn nhất trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thượng Hải và thứ ba ở Hồng Kông. Năm 1999, ICBC đã mở chi nhánh Luxembourg và trở thành trụ sở chính của ngân hàng tại châu Âu vào năm 2011.[10] ICBC Châu Âu điều hành một mạng lưới chi nhánh tại các thành phố lớn khắp châu Âu như Paris, Amsterdam, Brussels, Milan, Madrid, Barcelona, Warsawa và Lisbon.[11] Ở châu Á, các hoạt động tại Hồng Kông của ngân hàng được điều hành bởi ICBC châu Á. ICBC đã mua lại chi nhánh Hồng Kông của Fortis Bank và đổi tên nó vào ngày 10 tháng 10 năm 2005. Trong cuộc chạy đua dự kiến phát hành lần đầu ra công chúng, vào ngày 28 tháng 4 năm 2006, ba nhà đầu tư chiến lược đã bơm 3,7 tỷ USD vào ICBC. Đó là Goldman Sachs mua 5,75% cổ phần với 2,6 tỷ đôla Mỹ, đây là số tiền lớn nhất mà Goldman Sachs từng đầu tư.[12] Dresdner Bank (một công ty con của Commerzbank) đầu tư 1 tỷ đôla Mỹ[13] và American Express là 200 triệu đôla Mỹ.[13]

ICBC đã đồng loạt niêm yết trên cả hai sở giao dịch chứng khoán Hồng Kông và Thượng Hải vào ngày 27 tháng 10 năm 2006. Đó là lần phát hành ra công chúng lớn nhất thế giới với tổng giá trị lên tới 21,9 tỷ đôla Mỹ, vượt qua kỷ lục trước đó của NTT DoCoMo, một công ty của Nhật Bản với 18,4 tỷ vào năm 1998.[14] Năm 2010, Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc đã phá kỷ lục này của ICBC khi thu về 22,1 tỷ đôla Mỹ. ICBC nhanh chóng trở thành ngân hàng thương mại lớn nhất Trung Quốc cũng là công ty đầu tiên phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán Hồng Kông và Thượng Hải.

ICBC đã huy động được thêm ít nhất 14 tỷ đôla Mỹ ở Hồng Kông (cổ phiếu H) và 5 tỷ đôla Mỹ tại Thượng Hải (Cổ phiếu A). Giá trị của ICBC tăng lên 21,9 tỷ đôla Mỹ (17% giá trị thị trường so với đợt phát hành lần đầu), trong đó có 16 tỷ ở Hồng Kông và 5,9 tỷ ở Thượng Hải. Sau đợt chào bán toàn cầu, số lượng cổ phiếu lưu hành tự do là 22,14% tổng vốn hóa thị trường.

Vào cuối ngày giao dịch đầu tiên, cổ phiếu của ngân hàng đóng cửa ở mức tăng gần 15% tại 3,52 đôla Mỹ một cổ phiếu ở Hồng Kông, so với giá niêm yết trước đó là 3,07 đôla. Trong khi đó, cổ phiếu A niêm yết tại Thượng Hải của ICBC ghi nhận mức tăng khiêm tốn hơn và kết thúc tăng 5,1% so với giá chào bán là 3,12 đôla. Vào tháng 8 năm 2008, ICBC trở thành ngân hàng Trung Quốc thứ hai kể từ năm 1991 được sự chấp thuận của Chính phủ liên bang cho phép thành lập chi nhánh tại thành phố New York.[15]

Ngày 20 tháng 5 năm 2011, Ngân hàng Công thương Trung Quốc thành lập thêm hai chi nhánh ở Pakistan, một ở Karachi, một ở Islamabad. Đến ngày 18 tháng 8 năm 2011, ICBC đã vượt qua cuộc kiểm tra từ Ngân hàng Nhà nước Pakistan và bắt đầu hoạt động kinh doanh tại Pakistan. Tháng 11 năm 2012, ICBC đã chi 600 triệu đôla mua 80% cổ phần của Standard Bank (công ty ngân hàng lớn nhất châu Phi) Argentina, và kinh doanh tại 103 chi nhánh của ngân hàng tại Nam Mỹ. Đây là hoạt động mua bán lớn nhất của một ngân hàng Trung Quốc ở Mỹ Latinh. Tại Argentina, ICBC có 1.000.000 khách hàng cá nhân, 30.000 công ty thuộc tất cả các lĩnh vực và hơn 1600 công ty con. Trong cuộc khủng hoảng tại Bắc Triều Tiên năm 2013, Ngân hàng Công thương Trung Quốc ngừng hoạt động kinh doanh tại đây và cùng với một ngân hàng Bắc Triều Tiên đã bị Chính phủ Hoa Kỳ cáo buộc tài trợ cho chương trình tên lửa và hạt nhân của Bình Nhưỡng.[16] Cũng trong năm đó, ICBC công bố rằng họ đang đàm phán với Standard Bank để mua lại hoạt động kinh doanh tại Luân Đôn với hơn 500 triệu đôla.[17]

Ngày 24 tháng 9 năm 2014, ICBC chi nhánh Kuwait khai trương tại Thành phố Kuwait trở thành ngân hàng Trung Quốc đầu tiên có mặt tại quốc gia này. Đây cũng là chi nhánh thứ tư tại Trung Đông sau Dubai, Abu Dhabi và Doha. Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp Kuwait Abdulmohsen Al-Madaj, chủ tịch ICBC Khương Kiến Thanh và đại sứ Trung Quốc tại Kuwait cùng các quan chức và khách mời đã tham dự lễ khai trương. ICBC không chỉ là ngân hàng Trung Quốc đầu tiên thành lập chi nhánh hoạt động ở Trung Đông mà còn là ngân hàng Trung Quốc lớn nhất trong khu vực này xét về tổng số chi nhánh và quy mô kinh doanh. Việc thành lập ICBC Kuwait đã tối ưu hóa mạng lưới dịch vụ của ngân hàng này ở Trung Đông, là thành tựu quan trọng trong chiến lược hoạt động quốc tế của họ. Cuối năm 2014, ICBC trở thành ngân hàng số 1 thế giới tính theo vốn cấp 1 và được The Banker xếp hạng là Ngân hàng Toàn cầu của năm.[18]

Năm 2015, ICBC tiếp tục củng cố sự hiện diện của mình tại Trung Đông và Châu Âu bằng cách mua lại TekstilBank của Thổ Nhĩ Kỳ và thành lập chi nhánh ICBC Thổ Nhĩ Kỳ.[19] Ngày 18 tháng 11 năm 2016, ngân hàng đã nhận được giấy phép để nhận tiền gửi ở Nga.

Vào ngày 10 tháng 10 năm 2017, ICBC đã mở một văn phòng chi nhánh ở Houston, Hoa Kỳ, trở thành ngân hàng Trung Quốc đầu tiên mở một cơ sở ở Houston.[20] Lợi nhuận ròng báo cáo trong quý ba tăng 3,3%.[21]

Thống kê[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến năm 2006, ICBC có 2,5 triệu khách hàng doanh nghiệp và 150 triệu khách hàng cá nhân.[22] Năm 2005, lợi nhuận ròng tăng 12,4% lên 33,7 tỷ nhân dân tệ (NDT) với tổng dư nợ cho vay là 3.289,5 tỷ NDT. Tổng nợ phải trả là 6.196,2 tỷ NDT, tăng 11,2%. Tổng các khoản vay không hiệu quả và quá hạn (NPL) là 154,4 tỷ NDT, giảm đáng kể. Mặc dù các con số thực tế được coi là cao hơn so với báo cáo chính thức. Tỷ lệ nợ xấu là 4,69% và hệ số an toàn vốn là 9,89%.

Vào ngày 2 tháng 12 năm 2014, ICBC được xếp hạng là ngân hàng lớn nhất thế giới theo tổng tài sản và vốn cơ bản.[23] Vào tháng 7 năm 2007, nó được xếp hạng thứ 30 trên thế giới về doanh thu.[24]

Chính sách[sửa | sửa mã nguồn]

ICBC là ngân hàng đầu tiên áp dụng nguyên tắc xích đạo, một bộ tiêu chuẩn quốc tế về môi trường và xã hội cho các tổ chức tài chính ra đời vào năm 2003[25] và cũng thông qua Chính sách tín dụng xanh do Bộ Bảo vệ môi trường Trung Quốc đưa ra vào năm 2007.[26] Các tổ chức môi trường quốc tế đã chỉ trích ICBC đạo đức giả và không tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường xã hội vì đã tham gia tài trợ cho hoạt động xây dựng đập Gilgel Gibe III gây tranh cãi ở Ethiopia.[25]

Tổ chức[sửa | sửa mã nguồn]

Thành viên chủ chốt[sửa | sửa mã nguồn]

  • Lưu Đình Hoán (tháng 1 năm 1997 - tháng 2 năm 2000)
  • Khương Kiến Thanh (tháng 2 năm 2000 - tháng 10 năm 2005)
  • Dương Khải Sinh (tháng 10 năm 2005 - tháng 5 năm 2013)
  • Di Hội Mãn (tháng 5 năm 2013 - tháng 9 năm 2016)
  • Cốc Chú (tháng 9 năm 2016 - nay)

Công ty con[sửa | sửa mã nguồn]

  • Ngân hàng Công thương Trung Quốc châu Á
  • Ngân hàng Công thương Trung Quốc Canada
  • Ngân hàng Công thương Trung Quốc Macao
  • Ngân hàng Công thương Trung Quốc Thổ Nhĩ Kỳ

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g “ICBC Annual Report 2016” (PDF). ICBC.
  2. ^ “Top Banks in the World 2017”. Banks around the World. ngày 31 tháng 12 năm 2017.
  3. ^ “ICBC”. Forbes. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2018.
  4. ^ “The World's Biggest Public Companies”. Forbes. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2011.
  5. ^ JahanZaib Mehmood và Saqib Chaudhry (ngày 6 tháng 4 năm 2018). “The world's 100 largest banks EXCLUSIVE”. S&P Global Market Intelligence. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2018.
  6. ^ “Chinese bank tops global 1,000 ranking for first time”. BBC. ngày 1 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2013.
  7. ^ “Bigger big banks”. The Economist. ngày 30 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2014.
  8. ^ “Top 1000 World Banks 2014”. The Banker. ngày 30 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2014.
  9. ^ “The World's Biggest Public Companies List - Forbes”. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2016.
  10. ^ “Gateway to Europe-Business-chinadaily.com.cn”. usa.chinadaily.com.cn. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2017.
  11. ^ “ICBC's Five Branches in Europe Start Operation”. Icbc.com.cn. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2017.
  12. ^ “A dragon stirs”. The Economist. ngày 12 tháng 10 năm 2006.
  13. ^ a b “VRL KnowledgeBank”. Web.archive.org. ngày 29 tháng 9 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2017.
  14. ^ [1][liên kết hỏng]
  15. ^ “Order Approving Establishment of a Branch-Industrial and Commercial Bank of China Limited” (PDF). Federalreserve.gov. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2017.
  16. ^ “More Chinese banks stop transactions with N.Korea - Mubasher”. English.mubasher.info. ngày 11 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2013.
  17. ^ Standard Bank to sell London business to ICBC for over $500 mln, International: Reuters, ngày 31 tháng 7 năm 2013, Bản gốc lưu trữ ngày 24 Tháng 9 năm 2015, truy cập ngày 6 Tháng 8 năm 2018
  18. ^ ICBC Sets up Kuwait Branch, International: www.icbc.com, ngày 22 tháng 10 năm 2014, Bản gốc lưu trữ ngày 28 Tháng 10 năm 2014, truy cập ngày 6 Tháng 8 năm 2018
  19. ^ “ICBC becomes active in Turkey”. Hurriyet Daily News. ngày 25 tháng 5 năm 2015.
  20. ^ “工商银行在美国休斯敦开设分支机构-新华网”. news.xinhuanet.com. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2017.
  21. ^ “UPDATE 1-China's top bank ICBC Q3 profit rises 3.3 pct, above estimates”. Reuters. 2017. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2017.
  22. ^ “Nation's largest commercial bank launches IPO”. Chinadaily.com.cn. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2017.
  23. ^ [2][liên kết hỏng]
  24. ^ “HITC Business - News”. News.hereisthecity.com. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2017.
  25. ^ a b “Ethiopia Dam Blot on China's Aid Record”. South China Morning Post, Hong Kong. ngày 7 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ 28 Tháng 3 2014. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2012.
  26. ^ Motoko Aizawa, Sustainability Advisor, International Finance Corporation. “China s Green Credit Policy” (PDF). tr. ngày 24 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2012.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • 中国工商银行中国网站
  • Home-ICBC China
  • Financial Reports 23/4/2018

Ngành ngân hàng của Trung Quốc có ¥ 319,7 nghìn tỷ & NBSP; RMB (49,5 nghìn tỷ USD) trong tài sản vào cuối năm 2020. [1]Các ngân hàng thương mại nhà nước "Big Four/Five" là Ngân hàng Trung Quốc, Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc, Ngân hàng Công nghiệp và Thương mại Trung Quốc và Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc, tất cả đều là một trong những ngân hàng lớn nhất thế giới làcủa năm 2018. Ngân hàng truyền thông đôi khi được bao gồm.Các ngân hàng lớn đáng chú ý khác và cũng là các ngân hàng lớn nhất thế giới là Ngân hàng Thương gia Trung Quốc và Ping An Bank.¥319.7 trillion RMB (US$49.5 trillion) in assets at the end of 2020.[1] The "big four/five" state-owned commercial banks are the Bank of China, the China Construction Bank, the Industrial and Commercial Bank of China, and the Agricultural Bank of China, all of which are among the largest banks in the world as of 2018. The Bank of Communications is sometimes included. Other notable big and also the largest banks in the world are China Merchants Bank and Ping An Bank.

History[edit][edit]

Các tổ chức tài chính Trung Quốc đã tiến hành tất cả các chức năng ngân hàng lớn, bao gồm việc chấp nhận tiền gửi, thực hiện các khoản vay, phát hành ghi chú, trao đổi tiền và chuyển tiền từ lâu của Triều đại (960-1279).Năm 1024, loại tiền giấy đầu tiên được nhà nước phát hành ở Tứ Xuyên.Hai loại chính của các tổ chức tài chính bản địa Trung Quốc, piàohào (票號) và qiánzhuāng (), thường được hợp tác hơn so với cạnh tranh trong thị trường tài chính của Trung Quốc.piàohào (票號) and qiánzhuāng (錢莊), more often cooperated than competed in China's financial market.

Do những điểm yếu về cấu trúc của luật truyền thống Trung Quốc, các tổ chức tài chính Trung Quốc tập trung chủ yếu vào ngân hàng thương mại dựa trên các mối quan hệ gia đình và cá nhân gần gũi, và vốn lưu động của họ chủ yếu dựa trên sự nổi từ chuyển tiền ngắn hạn thay vì tiền gửi nhu cầu dài hạn.Các khái niệm hiện đại về ngân hàng ngân hàng tiêu dùng và ngân hàng dự trữ phân đoạn không bao giờ phát triển giữa các ngân hàng truyền thống của Trung Quốc và được giới thiệu đến Trung Quốc bởi các ngân hàng châu Âu trong thế kỷ 19.

Piaohao[edit][edit]

Một tổ chức ngân hàng đầu tiên của Trung Quốc được gọi là Piaohao, còn được gọi là Ngân hàng Shanxi vì họ được sở hữu chủ yếu bởi người bản địa của Shanxi.Piaohao đầu tiên có nguồn gốc từ Công ty Dye Xiyuecheng của Pingyao. [2]Để đối phó với việc chuyển khoản tiền mặt lớn từ chi nhánh này sang chi nhánh khác, công ty đã giới thiệu các bản nháp, có thể rút tiền trong nhiều chi nhánh của công ty trên khắp Trung Quốc.Mặc dù phương pháp mới này ban đầu được thiết kế cho các giao dịch kinh doanh trong Công ty Xiyuecheng, nhưng nó trở nên phổ biến đến mức vào năm 1823, chủ sở hữu đã từ bỏ doanh nghiệp thuốc nhuộm hoàn toàn và tổ chức lại công ty như một công ty chuyển tiền đặc biệt, Rishengchang Piaohao.Trong ba mươi năm tiếp theo, mười một Piaohao đã được thành lập tại tỉnh Shanxi, tại các quận của Qixian, Taigu và Pingyao.Đến cuối thế kỷ XIX, ba mươi hai Piaohao với 475 chi nhánh đã được kinh doanh bao gồm hầu hết Trung Quốc. [3]

Tất cả Piaohao được tổ chức như những người sở hữu đơn lẻ hoặc quan hệ đối tác, nơi các chủ sở hữu mang trách nhiệm không giới hạn.Họ tập trung vào kiều hối liên tục, và sau đó tiến hành các dịch vụ của chính phủ.Từ thời điểm cuộc nổi loạn của Taiping, khi các tuyến giao thông vận chuyển giữa thủ đô và các tỉnh đã bị cắt đứt, Piaohao bắt đầu liên quan đến việc cung cấp doanh thu thuế của chính phủ.Piaohao đã phát triển bằng cách đảm nhận một vai trò trong việc thúc đẩy các quỹ và sắp xếp các khoản vay nước ngoài cho chính quyền tỉnh, phát hành ghi chú và điều hành Kho bạc khu vực. [4]

Qianzhuang[edit][edit]

Không phụ thuộc vào mạng lưới Piaohao trên toàn quốc, có một số lượng lớn các ngân hàng bản địa nhỏ, thường được gọi là Qianzhuang.Các tổ chức này lần đầu tiên xuất hiện ở vùng đồng bằng Yangzi, ở Thượng Hải, Ningpo và Shaoxing.Qianzhuang đầu tiên có thể được truy tìm đến ít nhất là giữa thế kỷ thứ mười tám.Năm 1776, một số ngân hàng Thượng Hải này đã tự tổ chức thành một bang hội dưới tên Qianye Gongsuo. [5]Trái ngược với Piaohao, hầu hết Qianzhuang đều là người địa phương và có chức năng như các ngân hàng thương mại bằng cách tiến hành trao đổi tiền địa phương, phát hành ghi chú tiền mặt, trao đổi hóa đơn và ghi chú và giảm giá cho cộng đồng doanh nghiệp địa phương.

Qianzhuang duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các thương nhân Trung Quốc và phát triển với sự mở rộng của thương mại nước ngoài của Trung Quốc.Khi các ngân hàng phương Tây lần đầu tiên vào Trung Quốc, họ đã cấp "Cho vay Cho vay" (Caipiao) cho Qianzhuang, người sau đó sẽ cho các thương nhân Trung Quốc sử dụng nó để mua hàng từ các công ty nước ngoài.Qianzhuang cũng cung cấp các khoản vay cho các ngân hàng nước ngoài. [2] [3]Người ta ước tính rằng có khoảng 10.000 Qianzhuang ở Trung Quốc vào đầu những năm 1890. [6]

Nhập cảnh các ngân hàng nước ngoài [chỉnh sửa][edit]

Các ngân hàng Anh và các ngân hàng châu Âu khác gia nhập Trung Quốc vào khoảng giữa thế kỷ XIX để phục vụ số lượng ngày càng tăng của các công ty thương mại phương Tây.Người Trung Quốc đã đặt ra thuật ngữ Yinhang (銀行), có nghĩa là "tổ chức bạc", cho từ "Ngân hàng" tiếng Anh.Ngân hàng nước ngoài đầu tiên ở Trung Quốc là Ngân hàng Phương Đông Anh có trụ sở tại Bombay (東藩 銀行), đã mở các chi nhánh ở Hồng Kông, Quảng Châu và Thượng Hải vào những năm 1840.Các ngân hàng khác của Anh theo sau và thiết lập các chi nhánh của họ ở Trung Quốc từng người khác.Người Anh thích độc quyền ảo trong ngân hàng hiện đại trong bốn mươi năm.Tập đoàn Ngân hàng Hồng Kông và Thượng Hải (香港 上海 銀行 銀行), hiện là HSBC, được thành lập vào năm 1865 tại Hồng Kông, sau này trở thành ngân hàng nước ngoài lớn nhất ở Trung Quốc.

Đầu những năm 1890, Ngân hàng Deutsch-Asiatische của Đức (德華 銀行), Ngân hàng Yokohama của Nhật Bản (橫濱 正金 銀行 銀行), Banque de l'drochine của Pháp (東方 匯理 銀行 銀行 銀行 銀行 銀行 銀行) và Ngân hàng Russo-Asiatic của Nga (華俄道 華俄道 華俄道 華俄道勝 銀行) đã mở các chi nhánh ở Trung Quốc và thách thức sự lên ngôi của Anh trong thị trường tài chính của Trung Quốc.Vào cuối thế kỷ XIX, có chín ngân hàng nước ngoài với bốn mươi lăm chi nhánh trong các cảng hiệp ước của Trung Quốc. [7]

Vào thời điểm đó do các hiệp ước không công bằng, các ngân hàng nước ngoài được hưởng các quyền ngoài lãnh thổ.Họ cũng được hưởng quyền kiểm soát hoàn toàn đối với việc chuyển tiền quốc tế và tài chính ngoại thương của Trung Quốc.Được chính phủ Trung Quốc không được kiểm soát, họ được tự do phát hành tiền giấy để lưu hành, chấp nhận tiền gửi từ công dân Trung Quốc và cho vay đối với Qianzhuang.

Các ngân hàng chính phủ [chỉnh sửa][edit]

Sau khi ra mắt phong trào tự tăng cường, chính phủ Thanh bắt đầu khởi xướng các dự án công nghiệp lớn đòi hỏi một lượng vốn lớn.Mặc dù các tổ chức tài chính trong nước hiện tại cung cấp đủ các cơ sở tín dụng và chuyển nhượng để hỗ trợ thương mại trong nước và làm việc tốt với các doanh nghiệp quy mô nhỏ, họ không thể đáp ứng nhu cầu tài chính mới của Trung Quốc.Trung Quốc đã chuyển sang các ngân hàng nước ngoài cho quy mô lớn và tài chính dài hạn.Sau một loạt các thất bại quân sự, chính phủ Thanh đã buộc phải vay từ các ngân hàng nước ngoài và các nhà cung cấp để tài trợ cho các khoản thanh toán bồi thường cho các cường quốc nước ngoài.

Một số đề xuất đã được đưa ra bởi một tổ chức ngân hàng hiện đại của Trung Quốc từ những năm 1860 trở đi.Li Hongzhang, một trong những nhà lãnh đạo của phong trào tự tăng cường, đã nỗ lực nghiêm túc để tạo ra một ngân hàng chung của Trung Quốc vào năm 1885, và một lần nữa vào năm 1887.

Ngân hàng Hoàng gia Trung Quốc (中國 銀行 銀行), Ngân hàng hiện đại đầu tiên của Trung Quốc, đã mở cửa kinh doanh vào năm 1897. Ngân hàng được tổ chức như một công ty cổ phần chung.Nó đã thông qua các quy định nội bộ của HSBC và các nhà quản lý cấp cao của nó là các chuyên gia nước ngoài.Sau khi Tuyên bố Cộng hòa Trung Quốc, ngân hàng đã đổi tên tiếng Anh thành Ngân hàng Thương mại Trung Quốc vào năm 1912. Tên chính xác hơn đã dịch tên Trung Quốc và xóa bất kỳ liên kết nào đến triều đại nhà Thanh.

Năm 1905, Ngân hàng Trung ương đầu tiên của Trung Quốc được thành lập như là Ngân hàng của Hội đồng Doanh thu (大淸戶部).Ba năm sau, tên của nó đã được đổi thành Ngân hàng Chính phủ Qing lớn (大淸).Dự định như là một sự thay thế cho tất cả các ngân hàng hiện có, ghi chú của Ngân hàng Da Qing đã được cấp đặc quyền độc quyền được sử dụng trong tất cả các khoản chuyển khoản công cộng và tư nhân, bao gồm các khoản thanh toán thuế và giải quyết nợ.Ngân hàng Da Qing cũng được trao đặc quyền độc quyền để điều hành Kho bạc nhà nước.Hội đồng Doanh thu kiểm soát hầu hết doanh thu của Chính phủ Trung ương đã chuyển hầu hết các khoản chuyển thuế của mình thông qua ngân hàng và các chi nhánh của nó.Chính phủ giao cho Ngân hàng chuyển khoản thuế thặng dư muối, chi tiêu ngoại giao, quản lý các khoản vay nước ngoài, thanh toán các khoản bồi thường nước ngoài, và tiền gửi và chuyển thuế hải quan ở nhiều cảng hiệp ước.

Sau cuộc cách mạng Tân Hoa năm 1911, Ngân hàng Da Khánh đã được đổi tên thành Ngân hàng Trung Quốc.Ngân hàng này tiếp tục tồn tại ngày hôm nay.

Một ngân hàng khác của chính phủ, Ngân hàng Truyền thông (交通 銀行), được Bộ Bưu chính và Truyền thông tổ chức vào năm 1908 để quyên góp tiền cho việc mua lại Đường sắt Bắc Kinh-Hankou từ các nhà thầu Bỉ.Mục đích của ngân hàng là thống nhất tài trợ cho các tuyến tàu hơi nước, đường sắt, cũng như điện báo và các cơ sở bưu chính.

Ngân hàng tư nhân [Chỉnh sửa][edit]

Ngân hàng tư nhân đầu tiên có từ năm 1897, lịch sự của doanh nhân của Shen Xuanhui. [8]Ba ngân hàng tư nhân xuất hiện trong giai đoạn cuối Qing, tất cả được tạo ra bởi các doanh nhân tư nhân mà không cần tài trợ nhà nước.Ngân hàng Xincheng được thành lập tại Thượng Hải vào năm 1906, tiếp theo là Ngân hàng Thương mại Quốc gia ở Hàng Châu năm sau và Ngân hàng Tiết kiệm và Thương mại Ningpo (四明) vào năm 1908. Trong năm đó, các quy định đăng ký ngân hàng đã được ban hành bởiBộ Doanh thu, tiếp tục có hiệu lực tốt sau khi triều đại Thanh sụp đổ. [Cites cần]]citation needed]

Một phần của một con sư tử về doanh nghiệp chuyển tiền chính thức có lợi nhuận đã được Ngân hàng Da Khánh từ Piaohao đưa ra.Piaohao tất cả đã biến mất sau Cách mạng Tân Hoa năm 1911. [Cites cần thiết]citation needed]

Thời kỳ tương tự chứng kiến sức mạnh ngày càng tăng của lợi ích tư nhân trong ngân hàng hiện đại của Trung Quốc và sự tập trung của vốn ngân hàng.Ở Thượng Hải, cái gọi là "ba ngân hàng miền Nam" (南 三 行) đã được thành lập.Họ là ngân hàng thương mại và tiết kiệm Thượng Hải (上海 儲蓄 銀行 銀行 銀行 銀行), Ngân hàng Thương mại Quốc gia (浙江 銀行 銀行) và Ngân hàng Công nghiệp Chiết Giang (浙江 銀行).Bốn ngân hàng khác, được gọi là "Bốn ngân hàng phía bắc" (北 四 行) xuất hiện sau đó.Họ là Ngân hàng Thương mại Yien Yieh (鹽業 銀行), Tập đoàn Ngân hàng Kincheng (金城 銀行), Ngân hàng lục địa (大陸 銀行 銀行) và Ngân hàng Trung Quốc & South Sea (中南).Ba người đầu tiên được khởi xướng bởi các quan chức hiện tại và đã nghỉ hưu của chính phủ Bắc Kinh, trong khi lần cuối cùng được tạo ra bởi một người Trung Quốc ở nước ngoài. [Cần trích dẫn]]citation needed]

Lưu ý sự cố đình chỉ [Chỉnh sửa][edit]

Năm 1916, chính phủ Cộng hòa ở Bắc Kinh đã ra lệnh đình chỉ chuyển đổi ghi chú giấy sang bạc.Với sự ủng hộ của tòa án hỗn hợp, chi nhánh Thượng Hải của Ngân hàng Trung Quốc đã chống lại thành công lệnh. [Trích dẫn cần thiết]]citation needed]

Các quy định của Ngân hàng Trung Quốc đã được sửa đổi vào năm 1917 để hạn chế sự can thiệp của chính phủ. [9]

Thời đại vàng của Ngân hàng Trung Quốc [chỉnh sửa][edit]

Thập kỷ từ cuộc thám hiểm phía bắc đến Chiến tranh Trung-Nhật thứ hai năm 1937 đã được mô tả là một "thập kỷ vàng" cho hiện đại hóa của Trung Quốc, cũng như cho ngành công nghiệp ngân hàng của mình. [10]Các ngân hàng hiện đại của Trung Quốc đã mở rộng kinh doanh của họ trong phạm vi, thực hiện các khoản vay công nghiệp được cung cấp và cung cấp các khoản vay cho các khu vực nông thôn.

Chính phủ dân tộc đã tạo ra Ngân hàng Trung ương Trung Quốc vào năm 1928, với T.V. Soong là chủ tịch đầu tiên.Ngân hàng Trung Quốc được tổ chức lại như một ngân hàng chuyên quản lý ngoại hối trong khi Ngân hàng Truyền thông tập trung vào ngành công nghiệp đang phát triển.

Cục Giám sát tài chính được thành lập thuộc Bộ Tài chính để giám sát các vấn đề tài chính.

Đối mặt với chiến tranh sắp xảy ra với Nhật Bản, chính phủ Trung Quốc nắm quyền kiểm soát hơn 70 % tài sản của các ngân hàng hiện đại của Trung Quốc thông qua cuộc đảo chính ngân hàng khét tiếng.

Sau năm 1949 [Chỉnh sửa][edit]

Lịch sử của hệ thống ngân hàng Trung Quốc đã có phần bị xáo trộn.Quốc hữu hóa và hợp nhất các ngân hàng của đất nước đã nhận được ưu tiên cao nhất trong những năm đầu tiên của Cộng hòa Nhân dân, và ngân hàng là khu vực đầu tiên được xã hội hóa hoàn toàn.Trong giai đoạn phục hồi sau Nội chiến Trung Quốc (1949, 52), Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã di chuyển rất hiệu quả để ngăn chặn lạm phát hoành hành và đưa tài chính của quốc gia dưới sự kiểm soát trung tâm.Trong suốt thời gian, tổ chức ngân hàng đã được sửa đổi nhiều lần để phù hợp với điều kiện thay đổi và chính sách mới.

Hệ thống ngân hàng đã được tập trung sớm dưới thời của Bộ Tài chính, nơi thực hiện quyền kiểm soát của công ty đối với tất cả các dịch vụ tài chính, tín dụng và cung tiền.Trong những năm 1980, hệ thống ngân hàng đã được mở rộng và đa dạng để đáp ứng nhu cầu của chương trình cải cách và quy mô hoạt động ngân hàng tăng mạnh.Các thủ tục ngân sách mới yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước phải nộp cho nhà nước chỉ là thuế đối với thu nhập và tìm kiếm các quỹ đầu tư dưới dạng các khoản vay ngân hàng.Từ năm 1979 đến 1985, khối lượng tiền gửi gần gấp ba lần và giá trị của các khoản vay ngân hàng đã tăng 260 %.Đến năm 1987, hệ thống ngân hàng bao gồm Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc, Ngân hàng Trung Quốc (xử lý các vấn đề ngoại hối), Ngân hàng Đầu tư Trung Quốc, Ngân hàng Công nghiệp Trung Quốc, Ngân hàng Xây dựng Nhân dân, Ngân hàng Truyền thông, Công ty Bảo hiểm Nhân dân Trung Quốc, Hợp tác xã tín dụng nông thôn và hợp tác xã tín dụng đô thị.

Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc là ngân hàng trung ương và là nền tảng của hệ thống ngân hàng.Mặc dù ngân hàng chồng chéo về chức năng với Bộ Tài chính và mất nhiều trách nhiệm trong Cách mạng văn hóa, vào những năm 1970, nó đã được khôi phục lại vị trí hàng đầu.Là ngân hàng trung ương, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc có trách nhiệm duy nhất trong việc cấp tiền và kiểm soát cung tiền.Nó cũng đóng vai trò là Kho bạc của Chính phủ, nguồn tín dụng chính cho các đơn vị kinh tế, Trung tâm thanh toán bù trừ giao dịch tài chính, chủ sở hữu tiền gửi doanh nghiệp, Ngân hàng Tiết kiệm Quốc gia và giám sát có mặt khắp nơi về các hoạt động kinh tế.

Một tổ chức tài chính khác, Ngân hàng Trung Quốc, đã xử lý tất cả các giao dịch ngoại hối.Nó chịu trách nhiệm phân bổ dự trữ ngoại hối của đất nước, sắp xếp các khoản vay nước ngoài, thiết lập tỷ giá hối đoái cho tiền tệ của Trung Quốc, phát hành thư tín dụng và thường thực hiện tất cả các giao dịch tài chính với các công ty và cá nhân nước ngoài.Ngân hàng Trung Quốc có các văn phòng tại Bắc Kinh và các thành phố khác tham gia vào ngoại thương và duy trì các văn phòng ở nước ngoài tại các trung tâm tài chính quốc tế lớn, bao gồm Hồng Kông, London, Thành phố New York, Singapore và Luxemburg.

Ngân hàng Nông nghiệp được thành lập vào những năm 1950 để tạo điều kiện cho các hoạt động tài chính ở khu vực nông thôn.Ngân hàng Nông nghiệp cung cấp hỗ trợ tài chính cho các đơn vị nông nghiệp.Nó đã ban hành các khoản vay, xử lý các khoản chiếm dụng nhà nước cho nông nghiệp, chỉ đạo các hoạt động của các hợp tác xã tín dụng nông thôn và thực hiện giám sát tổng thể các vấn đề tài chính nông thôn.Ngân hàng Nông nghiệp có trụ sở tại Bắc Kinh và có một mạng lưới các chi nhánh trong cả nước.Nó phát triển mạnh mẽ vào cuối những năm 1950 và giữa những năm 1960 nhưng sau đó đã suy yếu cho đến cuối những năm 1970, khi các chức năng và quyền tự chủ của Ngân hàng Nông nghiệp đã được tăng lên đáng kể để giúp thúc đẩy sản xuất nông nghiệp cao hơn.Vào những năm 1980, nó đã được cơ cấu lại và có thẩm quyền lớn hơn để hỗ trợ sự tăng trưởng và đa dạng hóa nông nghiệp theo hệ thống trách nhiệm.

Ngân hàng Xây dựng Nhân dân quản lý các khoản chiếm dụng nhà nước và các khoản vay để xây dựng vốn.Nó đã kiểm tra các hoạt động của người nhận cho vay để đảm bảo rằng các quỹ được sử dụng cho mục đích xây dựng được chỉ định của họ.Tiền được giải ngân trong các giai đoạn như một dự án tiến triển.Chính sách cải cách đã chuyển nguồn tài trợ đầu tư chính từ ngân sách chính phủ sang các khoản vay ngân hàng và tăng trách nhiệm và hoạt động của Ngân hàng Xây dựng Nhân dân.

Các hợp tác xã tín dụng nông thôn là những tổ chức tiết kiệm và cho vay thuộc sở hữu chung, là nguồn chính của các dịch vụ tài chính quy mô nhỏ ở cấp địa phương ở nông thôn.Họ đã xử lý tiền gửi và các khoản vay ngắn hạn cho các gia đình, làng mạc và tổ chức hợp tác.Theo hướng của Ngân hàng Nông nghiệp, họ tuân theo các chính sách ngân hàng nhà nước thống nhất nhưng đóng vai trò là đơn vị độc lập cho mục đích kế toán.Năm 1985, các hợp tác xã tín dụng nông thôn đã tổ chức tổng số tiền gửi là 72,5 tỷ đồng.

Các hợp tác xã tín dụng đô thị là một bổ sung tương đối mới cho hệ thống ngân hàng vào giữa những năm 1980, khi họ mới bắt đầu hoạt động rộng rãi.Khi các cơ hội thương mại tăng trưởng trong thời kỳ cải cách, hàng ngàn doanh nghiệp cá nhân và tập thể mọc lên ở các khu vực đô thị đã tạo ra nhu cầu về các dịch vụ tài chính quy mô nhỏ mà các ngân hàng chính thức không được chuẩn bị để đáp ứng.Do đó, các quan chức ngân hàng khuyến khích việc mở rộng các hợp tác xã tín dụng đô thị như là một bổ sung có giá trị cho hệ thống ngân hàng.Năm 1986, có hơn 1.100 hợp tác xã tín dụng đô thị, đã nắm giữ tổng cộng 3,7 tỷ ¥ tiền gửi và thực hiện các khoản vay trị giá 1,9 tỷ ¥.

Vào giữa những năm 1980, hệ thống ngân hàng vẫn thiếu một số dịch vụ và đặc điểm được coi là cơ bản ở hầu hết các quốc gia.Quan hệ giữa các ngân hàng rất hạn chế, và việc vay và cho vay giữa các ngân hàng hầu như không được biết đến.Kiểm tra tài khoản được sử dụng bởi rất ít cá nhân và thẻ tín dụng ngân hàng không tồn tại.Năm 1986, các bước ban đầu đã được thực hiện ở một số lĩnh vực này.Mạng lưới vay và cho vay liên ngân hàng đã được tạo ra giữa hai mươi bảy thành phố dọc theo sông Dương Tử và giữa mười bốn thành phố ở Bắc Trung Quốc.Mạng lưới tài chính liên vùng đã được tạo ra để liên kết các ngân hàng ở mười một thành phố hàng đầu trên khắp Trung Quốc, bao gồm Thẩm Dương, Quảng Châu, Wuhan, Trùng Khánh và Xi'an và cũng để liên kết các chi nhánh của Ngân hàng Nông nghiệp.Thẻ tín dụng đầu tiên của Trung Quốc, Great Wall Thẻ, được giới thiệu vào tháng 6 năm 1986 sẽ được sử dụng cho các giao dịch ngoại hối.Một đổi mới tài chính khác vào năm 1986 là việc khai trương các sàn giao dịch chứng khoán đầu tiên của Trung Quốc kể từ năm 1949. Các sàn giao dịch chứng khoán nhỏ bắt đầu hoạt động có phần dự kiến tại Thẩm Dương, tỉnh Liêu Ninh, vào tháng 8 năm 1986 và tại Thượng Hải vào tháng 9 năm 1986.

Trong suốt lịch sử của Cộng hòa Nhân dân, hệ thống ngân hàng đã kiểm soát chặt chẽ các giao dịch tài chính và cung tiền.Tất cả các cơ quan chính phủ, các đơn vị kinh tế thuộc sở hữu công khai và tập thể, và các tổ chức xã hội, chính trị, quân sự và giáo dục được yêu cầu giữ số dư tài chính của họ như là tiền gửi ngân hàng.Họ cũng được hướng dẫn để giữ đủ tiền mặt để đáp ứng chi phí hàng ngày;Tất cả các giao dịch tài chính lớn đã được thực hiện thông qua các ngân hàng.Thanh toán cho hàng hóa và dịch vụ được trao đổi bởi các đơn vị kinh tế đã được thực hiện bằng cách ghi nhớ tài khoản của đơn vị mua hàng và ghi có vào đơn vị bán hàng theo số tiền thích hợp.Thực hành này có hiệu quả giúp giảm thiểu nhu cầu về tiền tệ.

Kể từ năm 1949, các nhà lãnh đạo của Trung Quốc đã kêu gọi người dân Trung Quốc xây dựng các tài khoản tiết kiệm cá nhân để giảm nhu cầu về hàng tiêu dùng và tăng số lượng vốn có sẵn để đầu tư.Các văn phòng chi nhánh nhỏ của các ngân hàng tiết kiệm được đặt thuận tiện trên khắp các khu vực đô thị.Ở vùng nông thôn tiết kiệm được gửi với các hợp tác xã tín dụng nông thôn, có thể được tìm thấy ở hầu hết các thị trấn và làng mạc.Năm 1986 tiền gửi tiết kiệm cho cả nước có tổng cộng hơn 223,7 tỷ.

Vào năm 2020, kế hoạch làm việc năm 2020 đã khiến cư dân Hồng Kông, theo chương trình thí điểm, sẽ có thể mở tài khoản ngân hàng cá nhân ở tỉnh Quảng Đông. [4]Các tài khoản có thể được mở mà không cần rời khỏi Hồng Kông. [5]

Các cơ quan giám sát [chỉnh sửa][edit]

Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) là Ngân hàng Trung ương Trung Quốc, nơi xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ.PBOC duy trì hệ thống thanh toán, thanh toán bù trừ và thanh toán của ngành ngân hàng, và quản lý dự trữ ngoại hối và vàng chính thức.Nó giám sát việc quản lý ngoại hối của tiểu bang (SAFE) để thiết lập các chính sách trao đổi nước ngoài.

According to the 1995 Central Bank law, PBOC has full autonomy in applying the monetary instruments, including setting interest rate for commercial banks and trading in government bonds. The State Council maintains oversight of PBOC policies.

China Banking Regulatory Commission (CBRC) was officially launched on April 28, 2003, to take over the supervisory role of the PBOC. The goal of the landmark reform is to improve the efficiency of bank supervision and to help the PBOC to further focus on the macroeconomy and monetary policy.

According to the official Announcement by CBRC posted on its website, the CBRC is responsible for "the regulation and supervision of banks, asset management companies, trust and investment companies as well as other deposit-taking financial institutions. Its mission is to maintain a safe and sound banking system in China."

Domestic key players[edit]

The Big Four and others[edit]

In 1995, the Chinese Government introduced the Commercial Bank Law to commercialize the operations of the four state-owned banks, the Bank of China (BOC), the China Construction Bank (CCB), the Agricultural Bank of China (ABC), and the Industrial and Commercial Bank of China (ICBC).

The Industrial & Commercial Bank of China (ICBC) is the largest bank in China by total assets, total employees and total customers. ICBC differentiates itself from the other State Owned Commercial Banks by being second in foreign exchange business and 1st in RMB clearing business. It used to be the major supplier of funds to China's urban areas and manufacturing sector.

The Bank of China (BOC) specializes in foreign-exchange transactions and trade finance. In 2002, BOC Hong Kong (Holdings) was successfully listed on the Hong Kong Stock Exchange. The USD2.8 billion offering was over-subscribed by 7.5 times. The deal was a significant move in the reform of China's banking industry.

The China Construction Bank (CCB) specializes in medium to long-term credit for long term specialized projects, such as infrastructure projects and urban housing development.

The Agriculture Bank of China (ABC) specializes in providing financing to China's agricultural sector and offers wholesale and retail banking services to farmers, township and village enterprises (TVEs) and other rural institutions.

China Merchants Bank specializes in providing Personal Banking Business and Corporate & Investment Banking Business.

Ping An Bank specializes in providing services in retail and corporate banking, including investment banking services.

Policy banks[edit]

Three new "policy" banks, the Agricultural Development Bank of China (ADBC), China Development Bank (CDB), and the Export-Import Bank of China (Chexim), were established in 1994 to take over the government-directed spending functions of the four state-owned commercial banks. These banks are responsible for financing economic and trade development and state-invested projects.

ADBC provides funds for agricultural development projects in rural areas; the CDB specializes in infrastructure financing, and Chexim specializes in trade financing.

[edit]edit]

Due to massive debt problems facing the Chinese economy, the People's Bank of China (PBC) introduced the Foreign Country Sponsored State Banks in late 2016. This type of financial institution is formed when a bank from a different country is allowed to set up retail commercial operations in a joint venture with the PBC. The idea is that foreign players with a large appetite for risk will be incentivized to start operations in China, and the PBC will retain supervision of the bank and possibly remove leverage from the Chinese banking system. Central banks from Egypt and Switzerland are the first banks to be approved for operations, and they will begin those operations as soon as February 2017.

City commercial banks[edit]

The third significant group in Chinese banking market is the city commercial banks. Many of them were founded on the basis of urban credit cooperatives. The first one was Shenzhen City Commercial Bank in 1995. In 1998, PBOC announced that all urban cooperative banks change their name to city commercial bank. And there are 69 city commercial banks set up from 1995 to 1998. In 2005 there were 112 city commercial banks in all of China.[6] This number has increased through additional transformations to 140 in 2009. Most city commercial banks have strong ties to their local government and are majority or wholly state owned. Since 2005 some city commercial banks diversify their shareholders, inviting Chinese and international private companies to take minority shares, merging and cross-shareholding. Some of the banks have listed their shares. While the market for city commercial banks is oriented towards supporting the regional economy, it also finances local infrastructure and other government projects. Since 2008, a strong trend has emerged for city commercial banks to extend business beyond their home region. They are also often the main shareholder behind village and township banks (VTB). Some have founded so-called small loans units to serve smaller business clients better. Taizhou City Commercial Bank, Bank of Beijing, Bank of Tianjin and Bank of Ningbo are examples for city commercial banks.

Trust and investment corporations[edit]

In the midst of the reforms of the 1990s, the government established some new investment banks that engaged in various forms of merchant and investment banking activities. However, many of the 240 or so international trust and investment corporations (ITICs) established by government agencies and provincial authorities experienced severe liquidity problems after the bankruptcy of the Guangdong International Trust and Investment Corporation (GITIC) in late 1998. The largest surviving ITIC is China International Trust and Investment Corporation (CITIC), which has a banking subsidiary known as China CITIC Bank.

County banks[edit]

A County Bank is a kind of financial institution with the purpose of boosting rural economic development, which has developed in China since 2005.

Reforms in the banking industry[edit]

Years of government-directed lending has presented Chinese banks with large amounts of non-performing loans. According to the Central Bank's report, non-performing loans account for 21.4% to 26.1% of total lending of China's four big banks in 2002. In 1999, four asset management companies (AMC) were established to transfer the non-performing assets from the banks. The AMCs plan to repackage the non-performing loans into viable assets and sell them off to the investors.

PBOC has encouraged banks to diversify their portfolios by increasing their services to the private sector and individual consumers. In July 2000, a personal credit rating system was launched in Shanghai to be used to assess consumer credit risk and set ratings standards. This is an important move in developing China's consumer credit industry, and increase bank loans to individuals.

The central government has allowed several small banks to raise capital through bonds or stock issues. Followed the listing of Shenzhen Development Bank and Pudong Development Bank, China Minsheng Bank, then the only private bank in China, was listed on the Shanghai Stock Exchange (A-Share) in December 2000. More Chinese banks are expected to list in the next two years in order to raise capital.

The reform of the banking system has been accompanied by PBOC's decision to decontrol interest rates. Market-based interest rate reform is intended to establish the pricing mechanism of the deposit and lending rates based on market supply and demand. The central bank would continue to adjust and guide the interest rate development, which allows the market mechanism to play a dominant role in financial resource allocation.

The sequence of the reform is to liberalize the interest rate of foreign currency before that of domestic currency, lending before deposit, large amount and long term before small amount and short term. As a first step, the PBOC liberalized the interest rates for foreign currency loans and large deposits (US$3 million and over) in September 2000. Rate for deposits below US$3 million remain subject to PBOC control. In March 2002, the PBOC unified foreign currency interest rate policies for Chinese and foreign financial institutions in China. Small foreign exchange deposits of Chinese residents with foreign banks in China were included in the PBOC interest rate administration of small foreign exchange deposits, so that domestic and foreign financial institutions are treated fairly with regard to the interest rate policy of foreign exchange deposits.

As interest rate liberalization progressed, the PPOC liberalized, simplified, or abandoned 114 categories of interest rates initially under control since 1996. At present, 34 categories of interest rates remain subject to PBOC control. The full liberalization of interest rates on other deposit accounts, including checking and saving accounts, is expected to take much longer. On the lending side, market-determined interest rates on loans will first be introduced in rural areas and then followed by rate liberalization in cities.

Deposit insurance[edit]

According to a confidential informant privy to the agenda at the closed meeting, creating a system of deposit insurance was expected to be discussed at the annual Central Economic Work Conference in December, 2012; studying deposit insurance was included in the 5 year plan for 2011–2015. The government's practice, in the absence of formal provisions for deposit insurance or bank failure, has been to reimburse all depositors, large or small, at small banks and rural cooperatives which fail; this is done to avoid the social unrest which might accompany a bank run. Large banks which might have failed without government support have been propped up. Introduction of deposit insurance is part of a projected general reform of the banking system which would wean banks from their close relationship to state-owned enterprises; banks strongly prefer to lend to state-owned enterprises because payment is seen to be guaranteed. Loans to private firms and individuals are seen as risky; consequently, the private sector is starved for credit.[7]

Nếu phí bảo hiểm tiền gửi dựa trên khối lượng tiền gửi của Big Four Big Four, điều này sẽ không được phép thất bại trong bất kỳ trường hợp nào, sẽ trả phí bảo hiểm khổng lồ, do đó trợ cấp cho các ngân hàng nhỏ hơn.Nếu được thông qua, dự đoán rằng việc soạn thảo các quy định và giới thiệu một hệ thống bảo hiểm tiền gửi sẽ mất ít nhất một năm.Để thu hút người gửi tiền, một số ngân hàng ở Trung Quốc đã giới thiệu các tài khoản tiền gửi sử dụng tiền gửi để thực hiện các khoản vay rủi ro hơn và cung cấp lãi suất cao hơn.Giới thiệu một kế hoạch bảo hiểm tiền gửi chỉ đảm bảo các tài khoản lãi suất thấp tiêu chuẩn có thể phục vụ để làm rõ tình hình, loại trừ rõ ràng các quỹ ủy thác đó khỏi bảo lãnh tiền gửi. [7]

Thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ [Chỉnh sửa][edit]

Vào cuối quý đầu tiên của năm 2009, khoảng 1.888.374.100 (1,89 tỷ) thẻ ngân hàng đã được phát hành tại Trung Quốc.Trong số các thẻ này, 1.737.901.000 (1,74 tỷ) hoặc 92% là thẻ ghi nợ, trong khi phần còn lại (150.473.100, hoặc 150,5 triệu) là thẻ tín dụng. [8]Năm 2010, Trung Quốc có hơn 2,4 tỷ ngân hàng lưu hành tăng khoảng 16% so với cuối năm 2009. [9]Vào cuối năm 2008, Trung Quốc có khoảng 1,84 triệu máy POS và 167.500 máy ATM.Khoảng 1,18 triệu thương gia ở Trung Quốc chấp nhận thẻ ngân hàng. [10]

Vào cuối năm 2008, có 196 nhà phát hành tại Trung Quốc phát hành thẻ thương hiệu Trung Quốc Unionpay. [10]Những nhà phát hành này bao gồm các ngân hàng 'Big Four' (Ngân hàng Công nghiệp và Thương mại Trung Quốc, Ngân hàng Trung Quốc, Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc và Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc), cũng như các ngân hàng cấp hai phát triển nhanh chóng và các ngân hàng thương mại thành phố như thương nhân Trung QuốcNgân hàng và ping một ngân hàng, và thậm chí một số ngân hàng nước ngoài có hoạt động địa phương.

Hầu hết các ngân hàng thương mại thuộc sở hữu nhà nước của Trung Quốc hiện đang phát hành thẻ tiền tệ kép, cho phép chủ thẻ mua hàng ở Trung Quốc tại RMB và nước ngoài bằng đô la Mỹ (Visa/Mastercard/Amex/JCB), Euros (Visa/Mastercard), đô la Úc (MasterCard), hoặc đồng yên Nhật (JCB).Tuy nhiên, chỉ có Ngân hàng Trung Quốc cung cấp đồng yên và thẻ tín dụng bằng đồng đô la Úc.

Theo một nghiên cứu năm 2003 của Visa, việc mua mỗi lần giao dịch trung bình với thẻ là $ 253.Người tiêu dùng đã sử dụng thẻ tín dụng của họ chủ yếu để mua nhà, xe và thiết bị gia dụng, cũng như thanh toán hóa đơn tiện ích.

Một vấn đề lớn là thiếu một Cục Tín dụng Quốc gia để cung cấp thông tin tín dụng cho các ngân hàng để đánh giá các ứng viên cho vay cá nhân.Năm 2002, Văn phòng Thông tin Thượng Hải và Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc Thượng Hải đã thành lập tổ chức dữ liệu tín dụng cá nhân đầu tiên liên quan đến 15 ngân hàng thương mại.Chính phủ Trung Quốc, nhằm mục đích thúc đẩy một hệ thống tín dụng toàn quốc, cũng đã thành lập một nhóm nghiên cứu hệ thống tín dụng.Hiện tại, các thành phố lớn, như Bắc Kinh, Quảng Châu, Thâm Quyến, Trùng Khánh và Thành Đô, đang kêu gọi một hệ thống dữ liệu tín dụng đáng tin cậy.PBOC hiện đang đánh giá tính khả thi của việc thành lập một văn phòng tín dụng toàn quốc.

Những trở ngại khác bao gồm thiếu sự chấp nhận của thương gia và cơ sở hạ tầng yếu để xử lý thẻ.Hiện tại, chỉ có 2% thương nhân ở Trung Quốc được trang bị để xử lý các giao dịch thẻ, mặc dù ở một số thành phố lớn như Thượng Hải, tỷ lệ phần trăm là hơn 30%.Trung Quốc Unionpay được thành lập để thành lập một mạng lưới xử lý quốc gia kết nối các thương nhân và ngân hàng.Trung Quốc Unionpay đã thành lập các trung tâm dịch vụ mạng ngân hàng tại 18 thành phố ngoài một trung tâm chuyển đổi thông tin ngân hàng quốc gia.

Các sản phẩm và dịch vụ trong hệ thống thẻ tín dụng mà chính phủ Trung Quốc muốn phát triển là phần cứng liên quan đến thẻ tín dụng, bao gồm POS và ATM, phần mềm liên quan đến thẻ tín dụng cho các ngân hàng và thương nhân;và các chương trình đào tạo tín dụng và quản lý rủi ro.

Các ngân hàng nước ngoài [chỉnh sửa][edit]

Trung Quốc vào WTO dự kiến sẽ tạo cơ hội cho các ngân hàng nước ngoài.Là một động thái quan trọng nhằm tôn vinh các cam kết của WTO, Trung Quốc đã đưa ra các quy tắc thực hiện các quy định điều chỉnh các tổ chức tài chính nước ngoài tại Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc vào tháng 1 năm 2002., Trình độ chuyên môn, giám sát, giải thể và thanh lý các tổ chức tài chính nước ngoài.Họ cũng quy định rằng các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tiến hành các khía cạnh đầy đủ của kinh doanh ngoại tệ và các khía cạnh đầy đủ của doanh nghiệp RMB đối với tất cả các loại khách hàng được yêu cầu phải có vốn hoạt động ít nhất 600 triệu RMB (72,3 triệu USD), trong đó ít nhất 400 triệuRMB (48,2 triệu đô la Mỹ) phải được giữ bằng RMB và ít nhất 200 triệu RMB (24,1 triệu đô la Mỹ) bằng tiền tệ tự do.

Hạn chế của khách hàng đối với kinh doanh ngoại tệ đã được dỡ bỏ ngay sau khi Trung Quốc vào WTO vào ngày 11 tháng 12 năm 2001. Kể từ đó, các tổ chức tài chính nước ngoài đã được phép cung cấp dịch vụ ngoại tệ cho các doanh nghiệp và cá nhân Trung Quốc và được phép cung cấp kinh doanh tiền tệ địa phươngcho tất cả các khách hàng Trung Quốc vào cuối năm 2006. Năm 2007, năm ngân hàng không phải đất liền được phép phát hành thẻ ngân hàng ở Trung Quốc, với Ngân hàng Đông Á cũng được phép phát hành thẻ tín dụng Unionchỉ được cấp thẻ ở nước họ; họ chưa được phép phát hành thẻ trong đại lục).Vào tháng 5 năm 2009, Ngân hàng Woori đã trở thành Ngân hàng Hàn Quốc đầu tiên được phép phát hành thẻ ghi nợ Unionpay (nó chỉ phát hành thẻ tín dụng Unionpay tại Hàn Quốc).

Hơn nữa, khi Trung Quốc bước vào WTO, các hạn chế về địa lý được đặt ra đối với doanh nghiệp bằng RMB đã bị loại bỏ ở bốn thành phố lớn, Thượng Hải, Thâm Quyến, Thiên Tân và Dalian.Sau đó, vào ngày 1 tháng 12 năm 2002, các ngân hàng do nước ngoài tài trợ được phép bắt đầu kinh doanh bằng RMB tại Quảng Châu, Zhuhai, Qingdao, Nam Kinh và Vũ Hán.

Ngân hàng điện tử [Chỉnh sửa][edit]

Năm 1994, Trung Quốc bắt đầu "Dự án thẻ vàng", cho phép các thẻ do các ngân hàng phát hành để sử dụng trên toàn quốc thông qua một mạng lưới.Việc thành lập Hiệp hội các ngân hàng Trung Quốc đã nhanh chóng quảng bá mạng lưới thẻ liên ngân hàng và vào cuối năm 2004, mạng lưới ngân hàng liên khu vực đã đến 600 thành phố, bao gồm tất cả các thành phố cấp quận và hơn 300 thành phố phát triển kinh tế-Các thành phố.

Top 5 ngân hàng trung quốc năm 2022

Bài viết này cần được cập nhật.Vui lòng giúp cập nhật điều này để phản ánh các sự kiện gần đây hoặc thông tin mới có sẵn. (Tháng 12 năm 2018)updated. Please help update this to reflect recent events or newly available information. (December 2018)

Xem thêm [sửa][edit]

  • Lịch sử ngân hàng ở Trung Quốc
  • Danh sách các ngân hàng ở Trung Quốc
  • Tạp chí Chứng khoán Trung Quốc

References[edit][edit]

  1. ^Tjan, Sie Tek (ngày 25 tháng 1 năm 2021)."Tài sản ngành ngân hàng Trung Quốc tăng 10,1% vào năm 2020".Trung Quốc.org.cn.Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2021. Tjan, Sie Tek (January 25, 2021). "Chinese banking sector assets up 10.1% in 2020". China.org.cn. Retrieved June 5, 2021.
  2. ^Nishimura, Shizuya (tháng 2 năm 2005)."Các ngân hàng nước ngoài và bản địa ở Trung Quốc: Cho vay tại Thượng Hải và Hankow trước năm 1914".Các nghiên cứu hiện đại châu Á.39 (1): 109 Từ132.doi: 10.1017/s0026749x04001404.ISSN & NBSP; 1469-8099.S2CID & NBSP; 144623926. Nishimura, Shizuya (February 2005). "The Foreign and Native Banks in China: Chop Loans in Shanghai and Hankow before 1914". Modern Asian Studies. 39 (1): 109–132. doi:10.1017/S0026749X04001404. ISSN 1469-8099. S2CID 144623926.
  3. ^Moazzin, Ghassan (2019)."Mạng lưới kinh doanh của Sino-Ofterign: Các ngân hàng nước ngoài và Trung Quốc trong lĩnh vực ngân hàng Trung Quốc, 1890 Từ1911".Các nghiên cứu hiện đại châu Á.54 (3): 970 Từ1004.doi: 10.1017/s0026749x18000318.ISSN & NBSP; 0026-749X.S2CID & NBSP; 210377688. Moazzin, Ghassan (2019). "Sino-Foreign Business Networks: Foreign and Chinese banks in the Chinese banking sector, 1890–1911". Modern Asian Studies. 54 (3): 970–1004. doi:10.1017/S0026749X18000318. ISSN 0026-749X. S2CID 210377688.
  4. ^"Cư dân Hồng Kông có thể sớm mở tài khoản ngân hàng ở Trung Quốc".Ngày 30 tháng 10 năm 2020. "Hong Kong residents can soon open bank accounts in China". October 30, 2020.
  5. ^"Thỏa thuận để giúp người Hồng Kông mua nhà, giáo dục trẻ em dễ dàng ở khu vực Vịnh lớn hơn".Ngày 30 tháng 10 năm 2020. "Deal to help Hongkongers buy homes, educate children with ease in Greater Bay Area". October 30, 2020.
  6. ^"Ngân hàng thương mại thành phố Trung Quốc & NBSP ;: Cơ hội gõ?"(PDF).Kpmg.com.cn.Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2017. "China's city commercial banks : Opportunity knocks?" (PDF). Kpmg.com.cn. Retrieved December 4, 2017.
  7. ^ Abbradsher, Keith (ngày 13 tháng 12 năm 2012)."Trung Quốc thúc đẩy bảo hiểm tiền gửi trong đại tu ngân hàng".Thời báo New York.Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2012.a b Bradsher, Keith (December 13, 2012). "China Pushes Deposit Insurance in Bank Overhaul". The New York Times. Retrieved December 14, 2012.
  8. ^"Bản sao lưu trữ".Được lưu trữ từ bản gốc vào ngày 8 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2009. "Archived copy". Archived from the original on August 8, 2009. Retrieved July 9, 2009.{{cite web}}: CS1 maint: archived copy as title (link)
  9. ^"Bản sao lưu trữ".Được lưu trữ từ bản gốc vào ngày 16 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2011. "Archived copy". Archived from the original on July 16, 2011. Retrieved February 10, 2011.{{cite web}}: CS1 maint: archived copy as title (link)
  10. ^ ab "中国 银行".Được lưu trữ từ bản gốc vào ngày 14 tháng 7 năm 2007, lấy ngày 9 tháng 7 năm 2009.a b "中国人民银行". Archived from the original on July 14, 2007. Retrieved July 9, 2009.

  • [1]
  • https://www.rba.gov.au/publications/bulletin/2012/sep/pdf/bu-0912-7.pdf

Top 5 ngân hàng trung quốc năm 2022
& nbsp; Bài viết này kết hợp tài liệu phạm vi công cộng từ Thư viện nghiên cứu quốc gia của Quốc hội.

Liên kết bên ngoài [Chỉnh sửa][edit]

  • Hiệp hội Ngân hàng Trung Quốc (Trang web chính thức)

4 ngân hàng lớn ở Trung Quốc là gì?

Key Takeaways..
Bốn ngân hàng lớn nhất thế giới đều là người Trung Quốc ..
Bốn ngân hàng lớn của Trung Quốc, theo quy định tài sản, là Ngân hàng Công nghiệp & Thương mại Trung Quốc, Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc, Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc và Ngân hàng Trung Quốc ..

Ngân hàng phổ biến nhất ở Trung Quốc là gì?

Các ngân hàng hàng đầu ở Trung Quốc.

Ngân hàng chính của Trung Quốc là gì?

Ngân hàng Trung Quốc vận hành kinh doanh thị trường tài chính chủ yếu thông qua năm trung tâm giao dịch lớn của mình tại Bắc Kinh, Thượng Hải, Hồng Kông, London và New York.Đầu tư toàn cầu của Ngân hàng Trung Quốc bao gồm đầu tư ngoại tệ và đầu tư RMB. operates financial market business mainly via its five major trading centers in Beijing, Shanghai, Hong Kong, London and New York. Bank of China global investment consists of foreign currency investment and RMB investment.

Ngân hàng số 1 trên thế giới là gì?

50 ngân hàng hàng đầu trên thế giới.