Thế nào là vi phạm bản quyền bài hát

Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả được quy định tại Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 [được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sở hữu trí tuệ số 36/2009/QH12 như sau:

Điều 14. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả

1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:

a] Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;

b] Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;

c] Tác phẩm báo chí;

d] Tác phẩm âm nhạc;

đ] Tác phẩm sân khấu;

e] Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự [sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh];

g] Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;

h] Tác phẩm nhiếp ảnh;

i] Tác phẩm kiến trúc;

k] Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học;

l] Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;

m] Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.

2. Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.

Theo đó, tác phẩm âm nhạc là đối tượng được bảo hộ quyền tác giả theo quy định nêu trên.

Theo hướng dẫn tại Điều 10 Nghị định 22/2018/NĐ-CP, tác phẩm âm nhạc là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn.

Chế lời bài hát xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ không? [Ảnh minh họa]
 

Viết lại lời bài hát có vi phạm bản quyền không?

Quyền tác giả được bảo hộ bao gồm quyền tài sản và quyền nhân thân. Việc viết lại lời bài hát dựa trên tác phẩm âm nhạc đã công bố là việc sử dụng quyền tài sản của chủ sở hữu quyền tác giả, cụ thể là khai thác tác phẩm âm nhạc này làm tác phẩm phái sinh.

Thời hạn bảo hộ đối với quyền tác giả của tác phẩm âm nhạc theo điểm b khoản 2 Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009 là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết.

Trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ 50 năm sau năm đồng tác giả cuối cùng chết.

Theo khoản 8 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi 2009, tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn.

Có thể thấy, viết lại lời bài hát là việc sử dụng tác phẩm âm nhạc đã có để phóng tác - phỏng theo nội dung của một tác phẩm mà viết lại thành một tác phẩm khác theo một yêu cầu nhất định.

Khi tổ chức, cá nhân muốn sử dụng một tác phẩm âm nhạc đang trong thời hạn bảo hộ để viết lại lời mới mà không xin phép chủ sở hữu quyền tác giả và trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả. 

Nếu làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả thì đây là hành vi xâm phạm quyền tác giả theo Khoản 7 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ:

Điều 28. Hành vi xâm phạm quyền tác giả

[...]

7. Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh, trừ trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 25 của Luật này.

Còn nếu thời hạn bảo hộ tác phẩm đã hết, tổ chức, cá nhân khác có thể sử dụng tác phẩm này mà không cần phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao đối với chủ sở  hữu quyền tác giả.

Do đó, khi có nhu cầu viết lại lời bài hát thì các tổ chức, cá nhân nên liên hệ với tác giả để xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao [nếu cần].

Trên đây là giải đáp về việc chế lời bài hát có vi phạm bản quyền không, nếu còn vấn đề thắc mắc, bạn đọc liên hệ: 1900 6192 để được hỗ trợ.

Mục lục bài viết

  • 1. Hành vi nào bị coi là xâm phạm bản quyền tác giả ?
  • 2. Căn cứ xem xét hành vi xâm phạm quyền tác giả
  • 3. Yếu tố được coi là xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan
  • Lưu ý:
  • 4. Hướng dẫn thủ tục đăng ký bản quyền tác phẩm viết, kịch bản phim, bản quyền ý tưởng ?
  • 5. Thách thức về vấn dề bản quyền trong thời đại kỹ thuật số

1. Hành vi nào bị coi là xâm phạm bản quyền tác giả ?

Thưa luật sư, xin hỏi: Những hành vi nào bị coi là xâm phạm bản quyền và các quyền liên quan? Cho xin một ví dụ cụ thể về hành vi này được không ạ ? Cảm ơn!

Trả lời:

Theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 [Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2009] thì những hành vi sau bị coi là xâm phạm quyền liên quan:

>> Xem thêm: Hành vi nào bị coi là xâm phạm bản quyền và các quyền liên quan ?

1. Chiếm đoạt quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.

2. Mạo danh người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.

3. Công bố, sản xuất và phân phối cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng mà không được phép của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.

4. Sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào đối với cuộc biểu diễn gây phương hại đến danh dự và uy tín của người biểu diễn.

5. Sao chép, trích ghép đối với cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng mà không được phép của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.

6. Dỡ bỏ hoặc thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử mà không được phép của chủ sở hữu quyền liên quan.

7. Cố ý huỷ bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền liên quan thực hiện để bảo vệ quyền liên quan của mình.

8. Phát sóng, phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng cuộc biểu diễn, bản sao cuộc biểu diễn đã được định hình hoặc bản ghi âm, ghi hình khi biết hoặc có cơ sở để biết thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử đã bị dỡ bỏ hoặc đã bị thay đổi mà không được phép của chủ sở hữu quyền liên quan.

9. Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó giải mã trái phép một tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá.

10. Cố ý thu hoặc tiếp tục phân phối một tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá khi tín hiệu đã được giải mã mà không được phép của người phân phối hợp pháp.

>> Xem thêm: Nội dung, thời gian bảo hộ quyền tác giả và thời gian bảo hộ quyền liên quan

Ví dụ: Các trang web phát sóng lại các trận đấu thể thao [Ngoại hạng Anh, Laliga, WCup...]

Mọi vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ Luật sư tư vấn pháp luật sở hữu trí tuệ trực tuyến qua tổng đài điện thoại, gọi số: 1900.6162 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác! Trân trọng./.

2. Căn cứ xem xét hành vi xâm phạm quyền tác giả

Theo quy định tại Điều 5 Nghị định 105/2006/NĐ-CP, các hành vi trên chỉ bị xem xét bị coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ khi có đủ các căn cứ sau:

– Đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đối tượng bị xem xét là đối tượng bị nghi ngờ và bị xem xét nhằm đưa ra kết luận đó có phải là đối tượng xâm phạm hay không.

– Có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét.

+ Yếu tố xâm phạm là yếu tố được tạo ra từ hành vi xâm phạm.

+ Việc xác định đối tượng được bảo hộ được thực hiện bằng cách xem xét các tài liệu, chứng cứ chứng minh căn cứ phát sinh, xác lập quyền theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.

+ Đối với các quyền đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền, đối tượng được bảo hộ được xác định theo giấy chứng nhận đăng ký, văn bằng bảo hộ và các tài liệu kèm theo giấy chứng nhận đăng ký, văn bằng bảo hộ đó.

>> Xem thêm: Các đối tượng quyền liên quan được bảo hộ ? Thời hạn bảo hộ quyền liên quan

+ Đối với quyền tác giả, quyền của người biểu diễn, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, quyền của tổ chức phát sóng không đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền thì các quyền này được xác định trên cơ sở bản gốc tác phẩm, bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng và các tài liệu liên quan [nếu có].

Trong trường hợp bản gốc tác phẩm, bản định hình đầu tiên của cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng và các tài liệu liên quan không còn tồn tại, quyền tác giả, quyền của người biểu diễn, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, quyền của tổ chức phát sóng được xem là có thực trên cơ sở các thông tin về tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng và về đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan tương ứng, được thể hiện thông thường trên các bản sao được công bố hợp pháp.

– Người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép.

– Hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam. Hành vi bị xem xét cũng bị coi là xảy ra tại Việt Nam nếu hành vi đó xảy ra trên mạng internet nhưng nhằm vào người tiêu dùng hoặc người dùng tin tại Việt Nam. Theo đó, nếu hành vi xâm phạm không xảy ra tại Việt Nam thì pháp luật Việt Nam không thể điều chỉnh và không được coi là hành vi xâm phạm.

3. Yếu tố được coi là xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan

Yếu tố xâm phạm quyền tác giả có thể thuộc một trong các dạng sau đây:

– Bản sao tác phẩm được tạo ra một cách trái phép;

– Tác phẩm phái sinh được tạo ra một cách trái phép;

– Tác phẩm giả mạo tên, chữ ký của tác giả, mạo danh hoặc chiếm đoạt quyền tác giả;

– Phần tác phẩm bị trích đoạn, sao chép, lắp ghép trái phép;

>> Xem thêm: Những bất cập trong quy định của pháp luật Sở Hữu Trí Tuệ Việt Nam hiện hành về quyền tác giả, quyền liên quan

– Sản phẩm có gắn thiết bị kỹ thuật bảo vệ quyền tác giả bị vô hiệu hoá trái phép.

Sản phẩm có yếu tố xâm phạm quy định nêu trên bị coi là sản phẩm xâm phạm quyền tác giả.

Căn cứ xác định yếu tố xâm phạm quyền tác giả là phạm vi bảo hộ quyền tác giả được xác định theo hình thức thể hiện bản gốc tác phẩm; được xác định theo nhân vật, hình tượng, cách thể hiện tính cách nhân vật, hình tượng, tình tiết của tác phẩm gốc trong trường hợp xác định yếu tố xâm phạm đối với tác phẩm phái sinh.

Yếu tố xâm phạm quyền liên quan có thể thuộc một trong các dạng sau đây:

– Bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn được tạo ra một cách trái phép;

– Bản sao bản định hình cuộc biểu diễn, bản sao bản ghi âm, ghi hình, bản sao chương trình phát sóng được tạo ra một cách trái phép;

– Một phần hoặc toàn bộ cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng bị sao chép, trích ghép trái phép; một phần hoặc toàn bộ chương trình phát sóng bị thu, giải mã và phân phối trái phép;

– Sản phẩm có gắn thiết bị kỹ thuật bảo vệ quyền liên quan bị vô hiệu hoá trái phép; bản định hình cuộc biểu diễn bị dỡ bỏ hoặc bị thay đổi một cách trái phép thông tin về quản lý quyền liên quan.

Sản phẩm có chứa yếu tố xâm phạm nêu trên bị coi là sản phẩm xâm phạm quyền liên quan.

Căn cứ xác định yếu tố xâm phạm quyền liên quan là phạm vi bảo hộ quyền liên quan đã được xác định theo hình thức thể hiện bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng.

>> Xem thêm: Hợp đồng sử dụng quyền tác giả và quyền liên quan

Lưu ý:

Để xác định một bản sao hoặc tác phẩm [hoặc bản định hình cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng] có phải là yếu tố xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan hay không, cần so sánh bản sao hoặc tác phẩm đó với bản gốc tác phẩm [bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng] hoặc tác phẩm gốc.

Bản sao tác phẩm, bản định hình cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng bị coi là yếu tố xâm phạm trong các trường hợp sau đây:

– Bản sao là bản sao chép một phần hoặc toàn bộ tác phẩm, bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đang được bảo hộ của người khác;

– Tác phẩm [phần tác phẩm] là một phần hoặc toàn bộ tác phẩm, bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đang được bảo hộ của người khác;

– Tác phẩm, phần tác phẩm có nhân vật, hình tượng, cách thể hiện tính cách nhân vật, hình tượng, tình tiết của tác phẩm đang được bảo hộ của người khác.

4. Hướng dẫn thủ tục đăng ký bản quyền tác phẩm viết, kịch bản phim, bản quyền ý tưởng ?

Bản quyền tác phẩm được chia thành nhiều dạng khác nhau như: Bản quyền tác phẩm viết, bản quyền phần mềm, tác phẩm nhiếp ảnh... Luật Minh Khuê tư vấn thủ tục và quy trình đăng ký bản quyền để bảo vệ tài sản sở hữu trí tuệ của mình:

>> Xem thêm: Quyền tác giả, quyền liên quan là gì? Người hỗ trợ có phải là tác giả?

Theo quy định luật sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi bổ sung năm 2009 thì thẩm quyền đăng ký bản quyền thuộc Cục bản quyền tác giả.

Bản quyền được chia thành nhiều loại khác nhau như:

Bản quyền tác phẩm viết: Bài báo, tiểu thuyết, thơ...

Bản quyền phầm mềm: Phần mềm máy tính và các dạng phầm mềm, chương trình ứng dụng máy tính khác;

Bản quyền nhiếp ảnh: Ảnh chụp...

Bản quyến tác phẩm mỹ thuật ứng dụng:Vỏ bao bì và các bản vẽ, thiết kế dụng dụng khác;

Bản quyền chương trình truyền hình: Phim, phóng sự, ký sự dưới dạng hình ảnh...

Các dạng bản quyền trên khi đăng ký tại cục bản quyền đều phải tuân thủ các hồ sơ đăng ký bản quyền như sau:

1.Tờ khai đăng ký bản quyền tác giả;

>> Xem thêm: Khái niệm quyền liên quan và đối tượng nào được bảo hộ dưới hình thức quyền liên quan ?

Hướng dẫn: Mẫu này được sử dụng để đăng ký các thông tin cơ bản về chủ sở hữu, hình thức sở hữu, ngày công bố đối với tác phẩm thuộc bản quyền của mình.

2. Mẫu giấy cam đoan;

Mẫu giấy cam đoan là văn bản mang tính các nhân của tác giả/hoặc nhóm tác giả cam kết rằng đây là tác phẩm do mình sáng tạo ra không phụ thuộc hoặc sao chép tác phẩm khác;

3. Mẫu giấy xác nhận;

Mẫu giấy xác nhận [hoặc Quyết đinh/giấy giao nhiệm vụ] là văn bản thỏa thuận giữa tác giả và đối tượng sở hữu về quyền và nghĩa vụ của các bên qua đó biết được ai là chủ sở hữu thực sự của tác phẩm.

4. Mẫu giấy ủy quyền;

Mẫu giấy ủy quyền áp dụng trong trường hợp tác giả hoặc người sở hữu tác phẩm không đăng ký trực tiếp mà đăng ký qua các đơn vị trung gian như các Công ty luật hoặc tổ chức đại diện sở hữu trí tuệ

5. Mẫu hợp đồng dịch vụ tư vấn đăng ký bảo hộ bản quyền phần mềm máy tính;

Mẫu hợp đồng trên để quý khách tham khảo và áp dụng khi mong muốn ký kết hợp đồng với các đơn vị tư vấn.

Ngoài ra, khi đăng ký bản quyền cần bổ sung:

>> Xem thêm: Quy định mới về chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan ?

- Chứng minh thư nhân dân của tác giả;

- Bản giao giấy phép kinh doanh của tổ chức nếu là đơn vị sở hữu tác phẩm;

- 02 bộ tài liệu thể hiện hình thức thể hiện của tác phẩm. Đối với phần mềm là đĩa CD; đối tác phẩm viết là tác phẩm được đóng quyền...

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.

Rất mong nhận được sự hợp tác! Trân trọng./.

5. Thách thức về vấn dề bản quyền trong thời đại kỹ thuật số

Kể từ khi ra đời đến nay, luật bản quyền đã thích ứng với những thay đổi về công nghệ. Ngày nay, những thay đổi được nói đến nhiều nhất đều liên quan đến lĩnh vực kỹ thuật số, mạng truyền thông số hóa như mạng Internet và máy tính cá nhân.

Những công nghệ ấy, giống như nhiều phát minh khác, bên cạnh nhiều ích lợi cũng tiềm tàng rất nhiều rủi ro cho những ai sử dụng và khai thác quyền tác giả của các cuốn sách, bản nhạc, kịch bản phim hay các trang web. Rõ ràng những văn bản luật gần đây liên quan tới việc cân đối quyền lợi giữa các bên trong việc sử dụng các phát minh mới còn gây nhiều thất vọng và có thể được coi là “mới” hay “độc nhất”...

Tuy nhiên, chúng cũng đơn thuần chỉ là một bước đi trong quá trình thích nghi liên tục và thể hiện lịch sử hình thành và phát triển của luật bản quyền. Bài báo này sẽ xem xét một số vấn đề liên quan tới công nghệ số hóa được điều chỉnh bởi luật bản quyền ngày nay.

Những nét đặc trưng của công nghệ số hóa với hàm ý về bản quyền:

Những công nghệ cần được điều chỉnh bởi luật bản quyền đều là những ứng dụng kỹ thuật liên quan tới việc lưu trữ và chuyển giao quyền tác giả. Những công nghệ này liên quan tới luật bản quyền dưới nhiều phương diện được liệt kê dưới đây:

Dễ dàng sao chép: Một tác phẩm khi đã được số hóa có thể sao chép một cách dễ dàng, nhanh chóng, chi phí thấp mà chất lượng vẫn đảm bảo. Mỗi bản copy lại tiếp tục được sao thành nhiều bản khác mà vẫn giữ nguyên chất lượng ban đầu. Như vậy chỉ cần một bản copy thôi cũng có thể đáp ứng được nhu cầu của hàng triệu người. Chúng ta đã từng được chứng kiến những đĩa nhạc CD từ những năm 80, 90 được sao chép thành hàng tỉ bản và trở nên phổ biến như thế nào trên mạng Internet trong những năm gần đây.

Dễ dàng phổ biến: Mạng số hóa toàn cầu cho phép phổ biến tác phẩm dưới dạng số một cách nhanh chóng trên toàn thế giới. Giống như phát thanh truyền hình, mạng kỹ thuật số cho phép từ một trung tâm có thể truyền phát tới hàng triệu cá nhân [mặc dù có điểm khác biệt ở đây là các tác phẩm số hóa không nhất thiết phải đến tay người nhận cùng một lúc]. Tuy nhiên, mạng số hóa còn cho phép mỗi cá nhân có thể trở thành chủ thể truyền phát, khiến cho số luợng phân phối tăng theo theo cấp số nhân, đôi khi gọi là hiệu ứng virus. Điều này cùng với khả năng dễ dàng sao chép cũng có nghĩa là một bản copy số hóa của một tác phẩm có thể được tái bản hàng chục nghìn lần chỉ trong vài tiếng đồng hồ. Khi được phân phát bằng đường truyền tốc độ cao như mạng lưới cáp đồng trục hoặc thậm chí đường dây cáp quang thì quá trình đó sẽ nhanh hơn rất nhiều, đồng thời khả năng truyền tải các tác phẩm cũng tăng lên.

Dễ dàng lưu trữ: Có thể lưu trữ một dung lượng lớn các thông tin số hóa, và mỗi năm giới hạn dung lượng đó lại được mở rộng ra rất nhiều. Chưa bao giờ một khối lượng lớn thông tin lại có thể được lưu trữ trong một không gian ngày càng nhỏ như ngày nay. Đầu thập kỷ 90, những chiếc đĩa CD với dung lượng trên 600 megabytes đã được những kẻ làm băng đĩa giả sử dụng tràn lan và thu được lợi nhuận lên đến hàng triệu đô-la. Giờ đây, một thiết bị nghe nhạc di động chỉ to bằng hộp thuốc lá cũng có thể chứa được một khối lượng thông tin lớn gấp 70 lần [khoảng 10.000 bài hát].

Các hình thức khai thác và cạnh tranh bất hợp pháp mới:

>> Xem thêm: Giới hạn quyền tác giả, quyền liên quan.

Cuộc cách mạng kỹ thuật trong phương thức tái bản, sao chép, lưu trữ thông tin số hóa bao gồm các tác phẩm được cấp bản quyền rõ ràng là một con dao hai lưỡi đối với tác giả và đối với cả người nắm giữ bản quyền. Một mặt, nó giúp cho tác giả có thể quảng bá tác phẩm của mình tới đông đảo khán giả một cách thuận tiện và tiết kiệm hơn nhiều so với trước đây. Ví dụ một ca sĩ có thể tải các bài hát của mình lên các trang web để các fan hâm mộ trên khắp thế giới có thể vào nghe mà không phải tốn tiền đầu tư cho sản xuất, đóng gói, chuyển phát những chiếc đĩa CD tới những nơi xa xôi theo cách thông thường. Mặt khác, tiến bộ công nghệ này cũng tạo cơ hội cho nhiều kẻ gian, nhiều kẻ cạnh tranh bất hợp pháp với tác giả sao chép và tiêu thụ trái phép những tác phẩm này.


Thách thức trong vấn đề bản quyền ở kỷ nguyên số hóa là làm sao có thể bảo vệ quyền lợi của tác giả cũng như người nắm giữ bản quyền trong việc sản xuất và sử dụng công nghệ mới để tiêu thụ các tác phẩm đó khi phải đối mặt với nạn ăn cắp và cạnh tranh bất hợp pháp ở khắp mọi nơi. Đồng thời, cũng phải đảm bảo rằng việc sử dụng hữu ích các tác phẩm không bị kiểm soát một cách không cần thiết bởi hệ thống bản quyền không hiệu quả do công nghệ mới gây ra. Bài viết này đề cập đến việc Hoa Kỳ đã phải đối mặt với thách thức này như thế nào và liệu trong tương lai có thể sẽ gặp lại thách thức đó ra sao.


Những chủ điểm chung:


Bài viết này đề cập tới một vài chủ điểm chung trong cách tiếp cận cho rằng luật bản quyền của Mỹ liên quan tới những tiến bộ công nghệ trong quá khứ và làm thế nào nước Mỹ đã vượt qua được những thách thức do những công nghệ hoàn toàn mới đó đặt ra.

Tìm đến những hình thức thể hiện mới:

Suốt hai thế kỷ qua, không biết bao nhiêu lần chủ đề bản quyền liên quan tới những hình thức mới của quyền tác giả được đưa ra thảo luận. Nghề nhiếp ảnh, kỹ thuật quay phim, các dữ liệu điện tử, và các chương trình máy tính là một số ví dụ điển hình. Về mặt cơ bản, trong mỗi trường hợp các nhà hoạch định chính sách đều có thể xem xét vấn đề một cách tổng quát hơn là chỉ dừng lại ở những kỹ thuật và phương thức biểu đạt cụ thể, để có thể thừa nhận sợi chỉ chung xuyên suốt về quyền sáng tạo liên quan tới bản quyền tác giả.

Duy trì cơ cấu các đặc quyền:

Một nguyên tắc cơ bản của hệ thống bản quyền trong nước cũng như quốc tế đó là các tác giả được trao cho những quyền lợi đặc biệt trong các lĩnh vực cụ thể liên quan tới hoạt động sáng tạo của họ [ví dụ như tái bản, phân phối hay trình chiếu]. Những quyền này cho phép các tác giả đảm bảo được những lợi kinh tế cũng như lợi ích phi kinh tế của họ, do đó sẽ thúc đẩy các hoạt động sáng tác văn chương và nghệ thuật, đồng thời đem lại nhiều lợi ích cho xã hội. Nguyên tắc này được nói đến trong một điều của Hiến pháp Mỹ trao những quyền đặc biệt cho các tác giả “nhằm thúc đẩy Tiến bộ Khoa học và các Tác phẩm Nghệ thuật hữu ích”. Vì cách mạng công nghệ đã tạo ra nhiều phương thức mới trong việc khai thác các công trình sáng tạo nên các nhà hoạch định chính sách phải thường xuyên kiểm tra những đặc quyền của các tác giả để đảm bảo rằng các tác giả và những người sở hữu giấy chứng nhận bản quyền luôn có quyền kiểm soát đặc biệt đối với các sáng tác của họ.

Đôi khi, mở rộng phạm vi các quyền lợi hiện có cũng là một giải pháp. Ví dụ, ở Mỹ, quyền được tự do trình diễn trước công chúng còn được hiểu là quyền phát thanh truyền hình. Trong nhiều trường hợp khác, người ta lại bổ sung các quyền mới vào luật bản quyền, ví dụ như khi truyền hình phát triển, người ta đã thêm một số quyền liên quan tới thông tin liên lạc vào hiệp định về bản quyền quốc tế đầu tiên là Công ước Berne.

Đồng thời các nhà lập pháp cũng phải nghiên cứu bản chất và phạm vi của những trường hợp không được hưởng đặc quyền. Ví dụ, các trường hợp miễn trừ hạn chế đối với việc tái bản các phần mềm máy tính được quy định ở khoản 17 trong Luật Bản quyền của Mỹ đã tính đến những phương thức thích hợp đối với việc điều chỉnh những đặc quyền cho phù hợp với nhu cầu về công nghệ đó, cụ thể là nhu cầu sao chép trong quá trình sử dụng và nhu cầu sản xuất những phần mềm hỗ trợ khi có lỗi kỹ thuật. Tương tự như vậy, năm 2002, Mỹ đã xem xét và sửa đổi các điều khoản miễn trừ trong trường hợp sử dụng các công trình sáng tạo trong lĩnh vực giáo dục nhằm tạo điều kiện cho chương trình “giáo dục từ xa” cho phép các giáo viên và học sinh giao tiếp thông qua mạng viễn thông như Internet.

Tóm lại, công nghệ mới ra đời thường gây nhiều tranh cãi xung quanh vấn đề liệu có nên điều chỉnh các đặc quyền của tác giả và người nắm giữ bản quyền hay không, nên mở rộng hay thu hẹp các quyền hạn đó để phục vụ mục tiêu bảo vệ bản quyền.

>> Xem thêm: Kinh doanh dịch vụ karaoke cẩn trọng xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan.

Giải pháp để thị trường tác động:

Một trong những lý do tại sao hệ thống đặc quyền như quyền tác giả từ trước tới nay lại thành công vang dội trong việc khuyến khích sức sáng tạo đó là nó cho phép những người sở hữu bản quyền tự tìm kiếm nguồn tài chính cho hoạt động của họ trên thị trường. Cụ thể là ở nơi nào mà công nghệ phát triển nhanh chóng thì ở đó tính linh hoạt của thị trường thường là phương thức tốt nhất để có thể đảm bảo rằng công trình sáng tạo vẫn liên tục được tạo ra và quảng bá đến công chúng.

Tuy nhiên bất kì thị trường nào cũng có những mặt trái và thách thức đặt ra đối với các chính phủ là làm sao khắc phục được những mặt hạn chế đó. Ví dụ, một đặc quyền sẽ trở nên vô ích đối với người sở hữu nó nếu thị trường ngăn trở việc thực thi quyền lợi ấy. Việc khai thác quyền được trình diễn ca nhạc trước công chúng chính là một ví dụ điển hình ở nước Mỹ. Giá trị của việc trình diễn đơn lẻ trước công chúng thì rất thấp nhưng lượng người sử dụng tác phẩm âm nhạc đó bao gồm các đài truyền hình, các quán bar, các nhà hàng, siêu thị, v.v. thì vô cùng đông đảo. Tóm lại giá trị của việc khai thác một tác phẩm là vô cùng to lớn và chi phí quản lý quyền tác giả trước một lượng người sử dụng đông đáo đó cũng vô cùng tốn kém.

Ở Mỹ, tính không hiệu quả đó của thị trường nói chung đã được khắc phục bằng giải pháp quen thuộc là để cho chính thị trường tác động: quản lý chung quyền trình chiếu. Trong hệ thống này, các hiệp hội thu phí cấp phép từ mỗi người sử dụng và trả cho tác giả cũng như nhà xuất bản. Ví dụ như ở Mỹ, Hiệp hội Các nhà soạn nhạc, nhà văn, nhà xuất bản [ASCAP] và Tập đoàn Truyền phát Nhạc [BMI] sẽ cấp hàng loạt giấy phép trình chiếu phổ thông cho các địa điểm và dùng khoản tiền cấp phép thu được trả cho các thành viên.

Cách tiếp cận tương tự cũng đang được sử dụng để quản lý quyền tái bản, sao chép điện tử và đã đạt được một số thành công nhất định. Ví dụ trong lĩnh vực này, Trung tâm Cấp phép Sử dụng Bản quyền đã đi đầu và hoạt động như một trung tâm cấp giấy phép cho đông đảo người sử dụng. Việc cấp phép bắt buộc, trong đó nhà nước in ấn và quản lý các giấy phép cũng là một giải pháp để khắc phục hạn chế của thị trường. Ví dụ, điều 111 và 119 trong Luật Bản quyền Mỹ đã quy định việc tái chuyển giao các tín hiệu truyển hình bắt buộc phải có giấy phép do chi phí giao dịch cao cùng với việc phải xin giấy phép cần thiết.

Kinh nghiệm của Hoa Kỳ trong lĩnh vực này cho thấy những hình thức quản lý tập thể vấn đề bản quyền hữu hiệu nhất đó là những hình thức giữ được càng nhiều đặc tính của các đặc quyền thị trường càng tốt. Điều này đòi hỏi hệ thống quản lý tập thể phải luôn chủ động, thừa nhận và linh hoạt trước các tác động của thị trường [bao gồm các các tác động được tạo ra bởi những thay đổi của công nghệ]. Tất cả ba nhân tố trên đều hướng tới những cá thể hoạt động trong môi trường có tính cạnh tranh cao để tập trung quản lý quyền. Ngoài ra nhân tố thứ ba còn cho rằng quá trình quản lý các quyền lợi không nên tập trung vì điều kiện thị trường ở mỗi nước là khác nhau.

Hơn nữa việc quy định giấy phép bắt buộc phải được quản lý bởi nhà nước cũng gây tốn kém cho xã hội. Trước hết, quy định giấy phép bắt buộc vi phạm nghiêm trọng đến quy phạm về đặc quyền. Thứ hai, giấy phép bắt buộc có thể bóp méo thị trường bởi vì nó kiểm soát giá cả một cách trực tiếp thông qua cơ chế ấn định mức tiền bản quyền tác giả và một cách gián tiếp thông qua việc kiểm soát nguồn cung. Thứ ba, một khi giấy phép bắt buộc được hình thành, nó sẽ kéo theo cả mạng lưới những kẻ ăn theo rất khó xóa bỏ ngay cả khi không còn những điều kiện nuôi dưỡng mạng lưới đó.

Vì những lý do trên, việc cấp giấy phép bắt buộc chỉ được cho phép sử dụng một cách hạn chế bởi các hiệp định bản quyền quốc tế và nên áp dụng một cách thận trọng ở mức độ quốc gia. Thất bại của thị trường, như thị trường tái chuyển giao vệ tinh và cáp trong đó chi phí giao dịch quá đắt đỏ chính là một minh chứng cho việc ứng dụng cấp giấy phép bắt buộc đó.

Những thách thức đầu tiên

Công nghệ số hóa phát triển đã đặt ra hàng loạt thách thức cho vấn đề bản quyền quốc tế.

>> Xem thêm: Chủ sở hữu quyền tác giả là gì ? Chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan có những dạng nào ?

Duy trì cơ cấu các đặc quyền

Bởi vì những tiến bộ trong công nghệ số hóa đã giúp cho việc tái bản và phân phối các tác phẩm trở nên nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới, những năm gần đây cộng đồng quốc tế đã phải chú ý rất nhiều đến việc điều chính các đặc quyền để giải quyết những vấn đề phát sinh từ công nghệ mới. Một kết luận mang tầm quốc tế được đưa ra đó là: vì luật bản quyền hiện tại đã tương đối đầy đủ để có thể điều chỉnh các quan hệ phát sinh liên quan tới công nghệ mới, cho nên chỉ cần sửa đổi bổ sung chứ không cần thay đổi hoàn toàn. Điều này được phản ánh trong các quy định vừa phải nhưng quan trọng của Hiệp định về Bản quyền WIPO [WCT] được kí kết một thời gian ngắn trước khi công nghệ số hóa trở nên thịnh hành.


WCT đòi hỏi các nước thành viên công nhận những đặc quyền cụ thể dành cho các hoạt động diễn ra trong mạng lưới viễn thông số hóa mới như mạng Internet. Hiệp ước này cũng trao cho các tác giả quyền được giao dịch với công chúng, bao gồm quyền rao bán sản phẩm của mình như cung cấp phần mềm tải các tác phẩm xuống từ các website. Trong khi nhiều bộ luật về bản quyền lồng ghép đặc quyền đó trong những quyền mang tính chất truyền thống hơn như quyền tái bản hay quyền trình chiếu thì WCT lại quy định rõ ràng thành một điều khoản rằng quyền rao bán, dưới bất cứ hình thức nào đều thuộc về tác giả.

Những biện pháp kỹ thuật hỗ trợ để bảo hộ bản quyền

Trong khi hầu như không sửa đổi gì đến nội dụng các đặc quyền, WCT đã bổ sung một số điều khoản khá mới mẻ đối với các hiệp định bản quyền quốc tế, đó là về các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ để bảo hộ bản quyền. Những biện pháp đó nhằm thúc đẩy sự phát triển của cách mạng kỹ thuật số bằng cách đảm bảo rằng giấy chứng nhận bản quyền có thể được cấp và sử dụng trực tuyến.

WCT quy định các quốc gia thành viên phải triển khai các giải pháp pháp lý hữu hiệu nhằm ngăn chặn những người sở hữu bản quyền sử dụng thủ đoạn kỹ thuật để bảo vệ quyền lợi của họ, đồng thời cũng ngăn chặn các cá nhân tẩy xóa hay sửa chữa thông tin quản lý quyền lợi được người sở hữu bản quyền cung cấp trong tác phẩm. Mục đầu tiên trong Hiệp định Bản quyền Kỷ nguyên Kỹ thuật Số [DMCA] đã quy định một hình thức trách nhiệm pháp lý mới đối với việc sử dụng các tiểu xảo kỹ thuật nhằm ngăn cản việc tiếp cận các công trình sáng tác đã được bảo hộ hay nhằm kiểm soát việc tái bản, phân phối, trình diễn, trình chiếu các tác phẩm đã được bảo hộ.

Vì vậy, WCT đã thừa nhận là các cá nhân sở hữu bản quyền nếu chỉ đơn phương sử dụng các biện pháp kỹ thuật thì khó có thể bảo vệ được tác phẩm của họ, bởi vì mọi thiết bị kỹ thuật đều có thể bị vô hiệu hóa bởi những kẻ tìm mọi cách ăn cắp tác phẩm đó. Nói cách khác, trong khi luật sở hữu trí tuệ hiện hành đang tiếp tục được điều chỉnh thì việc thực thi những quyền hạn đó trong bối cảnh có nhiều ứng dụng công nghệ mới như mạng Internet đòi hỏi phải bổ sung những điều luật mới ngăn cấm việc xâm hại đến các thiết bị kỹ thuật của các ứng dụng ấy.

Các thị trường và việc quản lý quyền lợi

Như đã đề cập ở trên, quản lý chung các đặc quyền chính là một giải pháp đối với tính không hiệu quả của quyền cấp phép sử dụng một số lượng lớn tác phẩm cho đông đảo người sử dụng khi mà giá trị sử dụng đơn lẻ tương đối thấp. Từ trước tới nay, việc cấp phép sử dụng đơn lẻ các tác phẩm thường làm cho chi phí giao dịch vượt quá giá trị của giấy phép.

Thoạt nhìn, quản lý chung nghe có vẻ là một cách tiếp cận hợp lý đối với việc quản lý quyền lợi, ít nhất là đối với một số tác phẩm trên mạng số hóa. Tuy nhiên, mức độ ứng dụng như thế nào thì chưa được đề cập rõ ràng. Cơ sở hạ tầng thông tin cho phép phân phối các tác phẩm một cách nhanh chóng với chi phí thấp cũng có thể tăng cường khả năng của những người được hưởng đặc quyền để họ có thể tự mình quản lý quyền lợi đó. Các doanh nghiệp tư nhân đang rất nỗ lực để đưa ra các thiết bị giúp đơn giản hóa quá trình giao dịch riêng lẻ giữa người sở hữu bản quyền với người sử dụng. Việc ứng dụng rộng rãi công nghệ tự động hóa có thể giúp cắt giảm chi phí giao dịch thấp đến mức cho phép các cá nhân có thể tự quản lý quyền lợi của mình. Ngoài ra, các công nghệ như vậy còn có thể ứng dụng trong quản lý tổng hợp như là sự bổ sung cho việc cấp giấy phép phổ thông truyền thống.

>> Xem thêm: Những hành vi nào bị coi là xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan ?

Để những kỹ thuật này phát huy được tối đa tác dụng trên thị trường, vai trò của nhà nước ở đây phải là rất nhỏ. Chính các lực lượng thị trường chứ không phải nhà nước là yếu tố quyết định sự thắng thế của cơ chế quản lý quyền lợi chung, cơ chế quản lý quyền lợi đơn lẻ hay là kết hợp của cả hai cơ chế ấy.


Những thách thức trong tương lai

Quy định trách nhiệm liên đới thích hợp trong kỷ nguyên kỹ thuật số

Một khía cạnh thú vị khác từ sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số hóa trong thập kỷ qua là tính chất cá nhân của công nghệ mới. Một người, hầu như không mất vốn liếng gì cũng có thể sao chép, phân phối hàng triệu bản copy các tác phẩm thông qua mạng Internet, đặc biệt là những tác phẩm dễ dàng chuyển về dạng số như ca nhạc, phim, ảnh. Ở Mỹ, chúng ta đã từng chứng kiến rất nhiều công ty triển khai mạng lưới bán hàng cá nhân-đến-cá nhân để tận dụng được ích lợi trên, mà cụ thể là tiếp nhận hàng triệu khách hàng vào mạng lưới vi phạm bản quyền quy mô lớn chưa từng thấy. Trước thực tế hoạt động của nhiều cá nhân có thể dẫn đến tình trạng vi phạm luật pháp hàng loạt, các câu hỏi nghiêm túc về việc thực thi pháp luật đã được đặt ra. Thật khó cho những ai sở hữu bản quyền để có thể xác định và tiến hành những biện pháp pháp lý để chống lại hiện tượng ăn cắp bản quyền tràn lan. Và ngay cả khi họ có thể thực thi các biện pháp ấy thì những người vi phạm nhiều khi cũng không có khả năng bồi thường cho những thiệt hại mà họ gây ra.

Nhằm cố gắng giải quyết có hiệu quả tình trạng ăn cắp bản quyền ngày nay, những người sở hữu bản quyền Mỹ đã phải sử dụng các học thuyết về trách nhiệm liên đới để quy trách nhiệm cho những kẻ tạo điều kiện cho những mạng lưới này vi phạm bản quyền. Các công ty này như công ty Napster trước đây, Aimster, Grokster, Morpheus, và Kazaa đã cung cấp phần mềm và các dịch vụ cho người sử dụng, đồng thời thu tiền quảng cáo dựa trên số lượng khán giả truy cập. Các quy định về Trách nhiệm Liên đới từ lâu đã là một phần của luật chung về bản quyền của Mỹ. Theo đó trách nhiệm sẽ thuộc về những ai thu được lợi từ các hoạt động phạm pháp và những ai kiểm soát hay ngăn cản nó. Những điều luật này có thể sẽ đóng vai trò quan trọng hơn trong tương lai, khi mà ngày càng có nhiều tiến bộ kỹ thuật cho phép các công ty lợi dụng các hoạt động phạm pháp của khách hàng.


Một loạt các vụ kiện chống lại các công ty như trên khiến cho các tòa án phải đau đầu để đưa ra được phán quyết thích hợp về trách nhiệm liên đới trong kỷ nguyên kỹ thuật số. Ở Mỹ, quy định về trách nhiệm liên đới trong trường hợp ăn cắp bản quyền từ trước tới nay vẫn được xem là biện pháp có thể hạn chế tình trạng các công ty sử dụng tác phẩm được bảo hộ để thu hút khách hàng mà không được phép. Tuy nhiên, tòa án cũng đã phải can thiệp để cân đối trách nhiệm này với quyền được tự do tham gia vào các lĩnh vực không liên quan của thương mại.

Tòa án Tối cao Mỹ đã giải quyết những vấn đề này hơn 20 năm về trước khi vụ kiện giữa Tập đoàn Sony Mỹ và Tập đoàn Universal Studios xảy ra. Kể từ đó, vụ kiện này đã trở thành bài học cho các tòa án trong việc ứng dụng quy định về đồng lõa vi phạm. Sony đã bán đầu máy Video Betamax, và người mua đã sử dụng để ghi lại các chương trình truyền hình phát trên tivi để có thể xem lại sau. Khi đó tòa án đã không tìm thấy trách nhiệm tiếp tay cho kẻ vi phạm và kết luận rằng Sony không phải chịu trách nhiệm, miễn là các cuốn băng sao chép đó “không có ý nghĩa thương mại” và “không bị sử dụng một cách bất hợp pháp”. Vì Tòa án thấy rằng việc sử dụng phổ biến sản phẩm Betamax đó không bất hợp pháp nên Tòa án đã không cần phải giải thích gì thêm về cụm từ “sử dụng bất hợp pháp” nữa. Tuy nhiên, Tòa án cũng thừa nhận rằng những người sở hữu bản quyền có quyền được bảo hộ thực sự chứ không chỉ là danh nghĩa.

Gần đây nhất là trong vụ kiện giữa MGM Studios và Grokster, Tòa án Tối cao Mỹ đã giải quyết được câu hỏi là liệu các nhà cung cấp phần mềm bán hàng cá nhân-tới-cá nhân có phải chịu trách nhiệm liên đới hay không. Tòa án đã nhất trí rằng các nhà cung cấp như thế có thể sẽ chịu trách nhiệm liên đới nếu họ “cung cấp thiết bị với mục đích để khách hàng ăn cắp bản quyền, bộc lộ trong những biểu hiện rõ ràng hay việc dung túng cho hành động ăn cắp đó”. Nói cách khác, nếu nhà cung cấp khuyến khích khách hàng phạm pháp thì nhà cung cấp ấy cũng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với những hậu quả do hành động phạm pháp đó gây ra. Tòa án Tối cao đã chỉ thị cho tòa án các bang phải luôn xem xét kỹ càng mọi tình huống mới có thể quyết định liệu có xảy ra tình trạng khuyến khích phạm pháp hay không, và phán quyết trong vụ kiện Sony không có nghĩa là bên bị đơn sẽ được miễn trách khi bị phát hiện có hành vi xúi giục khách hàng phạm pháp. Quy định này cho phép những người sở hữu bản quyền có thể khai thác hiệu quả bản quyền của họ mà không phải sợ các nhà cung cấp phần mềm và dịch vụ khuyến khích và thu lợi từ các hoạt động phạm pháp nữa. Nhiều bình luận viên đã gọi vụ kiện này là vụ kiện có ý nghĩa quan trọng nhất trong lịch sử luật bản quyền của Mỹ.

Mặc dù là vấn đề quốc tế nhưng có rất ít điểm tương đồng giữa luật của các quốc gia về trách nhiệm liên đới, liệu có được quy trách nhiệm cho một công ty triển khai công nghệ bán hàng cá nhân-tới-cá nhân để khuyến khích phạm pháp hoặc, như trong mục II của DMCA của Mỹ đã đề cập, một nhà cung cấp dịch vụ Internet cung cấp các thiết bị mà khách hàng sử dụng để phạm pháp hay không. Có lẽ đây là lĩnh vực đòi hỏi phải cân nhắc đến các chuẩn mực quốc tế về trách nhiệm liên đới, đặc biệt là khi phải đối mặt với bản chất toàn cầu của mạng Internet, nơi mà một công ty ở một nước có thể cung cấp các thiết bị có thể sử dụng dễ dàng để phạm pháp cho khách hàng ở nhiều nước trên toàn thế giới. Để có thể duy trì việc bảo hộ hiệu quả bản quyền trong kỷ nguyên số hóa đòi hỏi những chuẩn mực quốc tế đó.

Giảm tính không hiệu quả cho những người sử dụng tiếp theo

>> Xem thêm: Tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan là gì ?

Như chúng ta đã thấy trong thập kỷ qua, mạng Internet đã cung cấp cho mọi người một kho thông tin khổng lồ dưới mọi hình thức, từ dạng văn bản đến dạng tranh ảnh, nhạc và phim. Ngoài ra, công nghệ số hóa còn đem lại cho mỗi cá nhân khả năng trở thành tác giả tự sáng tác và quảng bá tác phẩm của mình. Thường thì tác giả đó luôn muốn sáng tạo theo cách riêng của mình nhưng lại không chắc chắn về vấn đề bản quyền hoặc không biết xin cấp phép ở đâu. Như đã mô tả ở trên, việc cấp phép hàng loạt có thể hỗ trợ cho những tác giả như vậy bằng cách cung cấp cho họ những cơ chế hiệu quả trong việc xin cấp phép sử dụng các tác phẩm.

Tuy nhiên, sẽ có một số hay thậm chí là nhiều trường hợp các tác giả không tìm được người khai thác tác phẩm hay cơ quan quản lý chung, và tác giả đó không thể trả lời được câu hỏi là liệu luật bản quyền cho phép hay ngăn cấm khai thác các tác phẩm đó. Một thách thức đặt ra trong tương lai là luật bản quyền nên giải quyết thế nào với những “tác phẩm mồ côi” đó. Nếu quả thực có trường hợp người sở hữu bản quyền không còn quan tâm tới việc sử dụng sản phẩm ấy nữa thì cũng không nên ngăn cấm việc sử dụng sản phẩm đó, đơn giản vì không có gì chắc chắn về tình trạng của tác phẩm đó. Kết quả là sẽ làm giảm lượng người tiếp cận việc khai thác mới và hiệu quả của tác phẩm đó. Đây là mục tiêu cuối cùng của bất kì hệ thống bản quyền hiệu quả nào.

Tại Mỹ, cơ quan về bản quyền đã bắt đầu tìm hiểu vấn đề của các “tác phẩm mồ côi” để xem xét bản chất và quy mô của vấn đề cũng như tìm ra giải pháp pháp lý cho vấn đề đó. Còn các quốc gia khác như Canada đã phát triển những cơ chế giải quyết các vấn đề liên quan tới các “tác phẩm mồ côi”. Một phần của thách thức đặt ra là phải đảm bảo rằng các giải pháp sẽ luôn trung thành và không làm tổn hại đến lợi ích của tác giả cũng như của người nắm giữ bản quyền và rằng chúng sẽ luôn tuân thủ luật bản quyền quốc tế - bộ luật ngăn cấm việc áp đặt các điều kiện cho việc thực thi và khai thác bản quyền.

Marybeth Peters [Theo maxreading]

___________________________________________
Marybeth Peters là người tiếp nhận đăng ký bản quyền tại Cục Bản quyền Hoa Kỳ, Thư viện Quốc hội Mỹ

[MKLAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.]

>> Xem thêm: Quy định chung về chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan được thực hiện như thế nào?

Video liên quan

Chủ Đề