Tâm lý học hành vi ra đời ở đầu

“Chúng tôi cần bắt đầu làm việc trong những lĩnh vực tâm lý học và đặt ra mục đích khách quan cho cuộc đấu tranh của chúng tôi không phải là ý thức mà là hành vi”.

Tâm lý học là ngành khoa học nghiên cứu hành vi, tinh thần và tư tưởng của con người [cụ thể đó là những cảm xúc, ý chí và hành động].

Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hình thành hai xu hướng triết học là ‘duy tâm chủ quan’ và ‘duy tâm khách quan’, cuộc chiến giữa hai xu hướng này đã bất phân thắng bại, tạo nên sự khủng hoảng trong khoa học về ‘tâm lý học’. Trước đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống [sự công bằng xã hội mà con người nhìn thấy được] và tiến bộ của khoa học, tâm lý học duy tâm gập khó khăn khi giải thích thực hàng loạt các vấn đề của tâm lý học. Chính vì thế, đã xuất sinh sự cần thiết tìm ra một con đường mới về nguyên tắc xây dựng khoa học tâm lý.

Dựa trên quan điểm triết học duy vật thực chứng của Comte [1798 – 1857] quan niệm rắng mọi lập luận phải được xây dựng trên cơ sở những chứng cứ khách quan, quan sát được, những thành tựu của các nhà sinh lý học thần kinh và tâm lý học động vật, John B. Watson [1878 – 1958] – một nhà tâm lý học người Mỹ đã khởi xướng một phương pháp làm việc mới mang tên gọi chung là “tâm lý học hành vi” [behaviorism] – một phương pháp khoa học nghiên cứu hành vi – tức những gì con người khả thi cảm nhận thấy được.

Các nhà nghiên cứu có xu hướng duy vật trong tâm lý học đã đi theo con đường này, và nhờ thế ‘tâm lý học hành vi’ cùng hệ phương pháp làm việc dựa theo nghiên cứu hành vi đã ra đời. Những công trình nghiên cứu tiếp theo của các nhà tâm lý học tên tuổi như Edward Thorndike, Clark L. Hull, Edward C. Tolman, B. F. Skinner … đã góp phần quan trọng tạo tcơ sở lý thuyết cho tâm lý học hành vi.

Tâm lý học hành vi lấy đối tượng nghiên cứu là “tổ hợp các trạng thái mà ta nghiệm thấy, các trạng thái được trực tiếp thể nghiệm trong vòng ý thức khép kín” bằng phương pháp nội quan, tâm lý học hành vi cổ điển loại bỏ ý thức ra khỏi đối tượng nghiên cứu của mình để chỉ nghiên cứu hành vi của con người và của con vật, là cái có thể quan sát trực tiếp được thông qua thực nghiệm như khoa học tự nhiên, chứ không phải là nghiên cứu mang tính nội quan về ý thức.

Tuyên ngôn của Tâm lý học hành vi, như Watson đã nhấn mạnh: “chúng tôi cần bắt đầu làm việc trong những lĩnh vực tâm lý học và đặt ra mục đích khách quan cho cuộc đấu tranh của chúng tôi không phải là ý thức mà là hành vi.”

Trong tâm lý học hành vi, tất cả những gì nói về dạy và học ở con người đều chủ yếu đựợc rút ra trên cơ sở những thực nghiệm trên con vật [chuột bạch và bồ câu]. Ngay những khi tiến hành thực nghiệm trên con người, các nhà tâm lý học hành vi cũng chủ trương: trong các tình huống thực nghiệm như thế, con người và động vật cần phải được đặt trong các tình huống thực nghiệm càng giống nhau càng tốt.

Và họ trình bày kết quả của cả hai loại thực nghiệm đó bằng các thuật ngữ thống nhất. Vì theo họ, không có bất kì sự thay đổi nhỏ nào, về quan điểm, khi tiến hành thực nghiệm trên cả động vật và con người. Skinner khẳng định: dường như không có sự khác biệt cơ bản giữa học tập ở người và ở động vật có xương sống. Vậy là, theo các nhà hành vi, thì hành vi của con người và hành vi của con vật có cùng một bản chất.

Theo Skinner, cả động vật và con người đều có ba dạng hành vi: hành vi không điều kiện, hành vi có điều kiện và hành vi tạo tác.

Trong nhiều năm, Skiner cùng với cộng sự kiên trì thực hiện thực nghiệm trên động vật và ở người nhằm hình thành những hành vi tạo tác. Về hành vi tạo tác, Skiner nhấn mạnh: nếu hành vi có điều kiện xuất hiện nhằm đón nhận một kích thích củng cố thì hành vi tạo tác xuất hiện nhằm tạo ra một kích thích củng cố.

Trong thực nghiệm của Paplop, hành vi có điều kiện xuất hiện khi con chó đang bị nhốt ở trong cũi nên nó hoàn toàn thụ động, thức ăn do nghiệm viên đưa tới. Còn trong thực nghiệm của Skinner, hành vi tạo tác xuất hiện khi chuột bạch đang “tích cực” tìm kíêm thức ăn trong môi trường xung quanh.

Nói cách khác, trong khi chuột bạch tự phóng ra những hành vi ngẫu nhiên tác động tới môi trường thì có hành vi đúng [dẫm chân lên đòn bẩy và thức ăn được bật ra] được củng cố, và hành vi tạo tác được thành lập.

Ở đây, dù phản ứng được thành lập nhưng sự tác động của cá thể lên môi trường nổi lên rất rõ ràng. Ở phản xạ có điều kiện tạo tác [hành vi tạo tác] tính chất của kích thich củng cố có vai trò quan trọng làm cho con vật chủ động tạo ra các phản ứng [hành vi tạo tác] một cách phù hợp.

Vì vậy, nếu kiểm soát được kích thích củng cố thì sẽ kiểm soát được hành vi. Từ thực nghiệm trên, Skiner rút ra kết luận: hành vi tạo tác đặc trưng cho việc học tập. Ông đưa ra định luận lĩnh hội, cường độ của hành vi tạo tác tăng lên, nếu hành vi được kèm theo kích thích củng cố.

Củng cố – đó là vấn đề then chốt trong dạy học của Skinner. Qua các công trình nghiên cứu, ông khẳng định, xác suất xuất hiện, tần số và cường độ của phản ứng tạo tác hoàn toàn tuỳ thuộc và củng cố và cách củng cố. Theo ông, có thể phân loại các hình thức củng cố khác nhau thành hai loại: tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, về phương diện chức năng, cả củng cố tích cực và củng cố tiêu cực đều nhằm tăng cường hành vi mong muốn.

S.T

Tags: Tâm lý học

Các nhà tâm lý học hành vi tin rằng phản ứng của con người đối với kích thích từ môi trường chính là cái tạo nên hành vi. hành vi có thể được học tập một cách có hệ thống và được quan sát một cách rõ ràng từ bên ngoài, không đi sâu vào diễn biến tâm lý nội tâm.

Về cơ bản, người ta chỉ xét đến những hành vi quan sát được – những thứ như nhận thức, cảm xúc và tâm trạng, đều khó được xem xét.

Những nhà tâm lý học hành vi thuần túy tin rằng bất kỳ ai cũng có khả năng được đào tạo để thực hiện một công việc nào đó dù nền tảng di truyền, đặc trưng tính cách và những suy nghĩ nội tâm có như thế nào chăng nữa [tất nhiên là xét trong điều kiện thể chất tối thiểu]. Yêu cầu duy nhất ở đây là đưa ra một điều kiện phù hợp.

Lược sử hình thành và phát triển.

Thuyết hành vi được chính thức thiết lập vào năm 1913 với sự xuất bản bài phân tích của John B. Watson có tên “Psychology as the Behaviorist Views It.” [Tâm lý học qua cái nhìn của nhà hành vi học]. Toàn bộ bài phân tích được Watson, người được xem là “cha đẻ” của thuyết hành vi, tóm gọn lại như sau:

“Giả sử tôi có khoảng 10 đứa bé khỏe mạnh, bình thường, tôi sẽ dùng điều kiện của riêng mình mà nuôi chúng lớn, tôi đảm bảo rằng mình sẽ chọn ngẫu nhiên một đứa và huấn luyện nó trở thành một chuyên gia trong một lĩnh vực nào đó – bác sĩ, luật sư, nghệ sĩ, thương gia và, thậm chí là cả một người chuyên xin ăn và kẻ trộm, dù tài năng, thiên hướng, khuynh hướng, khả năng, năng khiếu, và chủng tộc của tổ tiên nó là gì đi chăng nữa.”

Nói một cách đơn giản, những nhà tâm lý học hành vi thuần túy tin rằng tất cả các hành vi đều là kết quả của trải nghiệm.

Bất kỳ ai, dù nền tảng xuất thân học vấn có là gì đi nữa, vẫn có thể được đào tạo theo một cách thức nào đó với các điều kiện tác động phù hợp.

Từ khoảng năm 1920 đến giữa những năm 1950, thuyết hành vi bắt đầu trở thành trường phái tư tưởng thống trị trong tâm lý học. Một số người cho rằng sự phổ biến của tâm lý học hành vi đã vượt ra khỏi khuôn khổ mong muốn đơn thuần là xây dựng tâm lý học như một ngành học khách quan và có thể đo lường được. Các nhà nghiên cứu chú trọng vào việc tạo ra các học thuyết có thể mô tả được một cách rõ ràng và đo lường được dựa trên thực nghiệm nhưng vẫn phải tạo được nhiều đóng góp mang sức ảnh hưởng lên cuộc sống thường ngày của con người.

Có 2 loại điều kiện hóa chính:

Điều kiện hóa cổ điển là một kỹ thuật thường được sử dụng trong huấn luyện hành vi. Tại đây, một kích thích trung tính được thực hiện kết hợp với kích thích tự nhiên xuất hiện trước đó. Kết quả là kích thích trung tính sẽ đưa đến phản ứng tương tự như cách kích thích tự nhiên làm được trước đó, thậm chí nó đưa đến phản ứng ngay cả khi không có mặt kích thích tự nhiên cói từ trước. Kích thích kết hợp này nay được gọi là kích thích có điều kiện và hành vi có được được biết đến với tên gọi phản ứng có điều kiện.

Điều kiện hóa từ kết quả [đôi khi còn được gọi là điệu kiện hóa phương tiện] là một phương thức học tập có được thông qua các tác nhân củng cố và trừng phạt. Với điều kiện hóa từ kết quả, một liên kết được hình thành giữa một hành vi và kết quả của hành vi đó. Khi một kết quả tích cực có được sau khi thực hiện một hành động, hành động đó có khả năng xuất hiện trở lại trong tương lai. Ngược lại, các phản ứng theo sau bởi kết quả tiêu cực sẽ ít có khả năng lặp lại trong tương lai.

Những điều quan trọng cần biết.

Học tập có thể xuất hiện qua các liên tưởng đó. Điều kiện hóa cổ điển hoạt động dựa trên việc phát triển một liên tưởng giữa kích thích từ môi trường và kích thích tự nhiên có sẵn. Trong thí nghiệm cổ điển của nhà sinh lý học Ivan Pavlov, con chó liên tưởng sự có mặt của thức ăn [được xem là một kích thích tự nhiên khiến chó phản ứng nhỏ dãi] với tiếng rung chuông, sau đó là hình ảnh cái áo khoác trắng của nhân viên phòng lab. Cuối cùng, chỉ cần thấy áo khoác trắng thôi cũng đủ để chó nhỏ dãi.

Nhiều yếu tố khác nhau có thể ảnh hưởng đến quá trình điều kiện hóa cổ điển. Trong suốt giai đoạn đầu của thí nghiệm, còn được gọi là giai đoạn lĩnh hội, một phản ứng được hình thành và củng cố. Các yếu tố như cường độ của kích thích và thời gian xuất hiện kích thích có thể đóng vai trò quan trọng quyết định tốc độ hình thành của liên tưởng.

Khi một liên tưởng biến mất, còn được gọi là giai đoạn dập tắt, nó sẽ làm hành vi trở nên yếu đi dần hoặc biến mất. Các yếu tố như cường độ của phản ứng ban đầu có thể đóng vai trò quan trọng quyết định tốc độ biến mất của liên tưởng. Ví dụ, phản ứng có được qua quá trình kích thích càng lâu thì càng tốn nhiều thời gian để biến mất hơn.

Học tập cũng có thể xuất hiện thông qua các hình thức thưởng phạt. Nhà tâm lý học hành vi B. F. Skinner đã mô tả điều kiện hóa từ kết quả là một quá trình mà việc học tập có thể xuất hiện qua các tác nhân củng cố và trừng phạt. Cụ thể, bằng cách hình thành liên tưởng giữa một hành vi nhất định và kết quả của hành vi đó, bạn sẽ bắt đầu học cách thực hiện hành vi của mình. Ví dụ, nếu bố mẹ khen thưởng con mỗi lần chúng nhặt đồ chơi vào đúng chỗ, hành vi tốt này sẽ tiếp tục được củng cố. Kết quả là, những đứa trẻ sẽ thường xuyên dọn dẹp đỗ chơi hơn.

Khung thời gian củng cố là rất quan tọng trong điều kiện hóa từ kết quả. Quá trình này trông có vẻ khá đơn giản và ít lắt léo – đơn giản là quan sát một hành vi rồi đưa ra hình thức thưởng phạt. Tuy nhiên, Skinner phát hiện ra rằng khung thời gian đưa ra những hình thức thưởng phạt này có ảnh hưởng lớn lên tốc độ đối tượng tạo lập được hành vi mới và cường độ của các phản ứng hành vi này.

Củng cố liên tục là hình thức khen thưởng mỗi giai đoạn của hành vi. Hình thức cũng cố này thường được áp dụng vào giai đoạn đầu của quá trình. Nhưng một khi hành vi được hình thành, lịch củng cố cần đổi sang một trong những hình thức củng cố từng phần. Củng cố từng phần là khen thưởng sau một số lần phản ứng nào đó hoặc sau một khoảng thời gian nào đó trôi qua. Đôi lúc, củng cố từng phần xuất hiện theo một khung thời gian cố định và bất biến. Trong một số trường hợp khác, một số phản ứng hoặc thời gian mang tính biến đổi và bất ngờ cần xuất hiện trước khi tiến hành củng cố.

Một vài nhà tư tưởng có sức ảnh hưởng trong ngành tâm lý học hành vi. Several thinkers influenced behavioral psychology.

Bên cạnh những người đã đề cập ở trên, ta có một số nhà tư tưởng và nhà tâm lý học có tầm ảnh hưởng lớn, để lại những dấu mốc không thể chối cãi trong tâm lý học hành vi như Edward Thorndike – một nhà tâm lý học tiên phong mô tả luật hiệu quả, và Clark Hull – người đề xuất học thuyết động lực về học tập.

Có khá nhiều kỹ thuật trị liệu có gốc rễ từ tâm lý học hành vi. Mặc dù tâm lý học hành vi giữ vai trò là học thuyết nền tảng, không còn phát triển mạnh mẽ sau năm 1950 nhưng những nguyên lý của nó vẫn còn rất quan trọng. Thậm chí ngày nay, phân tích hành vi vẫn thường được sử dụng như một kỹ thuật trị liệu giúp trẻ bị tự kỷ và chậm phát triển trí tuệ học những kỹ năng mới. Nó thường gắn liền với các quá trình định hình [khen thưởng để đạt được hành vi mong muốn] và xâu chuỗi [chia công việc thành các phần nhỏ hơn rồi dạy và xâu chuỗi các bước kế tiếp lại với nhau]. Các kỹ thuật liệu pháp hành vi khác bao gồm liệu pháp ác cảm, phương pháp làm mất cảm thụ có hệ thống, phương pháp tặng thưởng có giá trị kinh tế, tạo mô hình mẫu và quản lý hành vi tích cực.

Tâm lý học hành vi có khá nhiều điểm mạnh. Thuyết hành vi có nền tảng dựa trên những hành vi quan sát được, vì vậy đôi khi chúng ta sẽ cảm thấy khá dễ dàng trong việc định lượng và thu thập số liệu khi tiến hành nghiên cứu. Các kỹ thuật điều trị có hiệu quả như can thiệp sâu vào hành vi, phân tích hành vi, phương pháp tặng thưởng có giá trị kinh tế và huấn luyện tập sự riêng biệt đều có gốc rễ từ thuyết hành vi.

Bên cạnh đó nó cũng có một số hạn chế. Nhiều người phê bình thuyết hành vi, cho rằng đây chỉ là cách tiếp cận một chiều khi tìm hiểu về hành vi con người. Theo họ, các học thuyết về hành vi không bao hàm được tự do ý chí và sự tác động mang tính nội tại như tâm trạng, suy nghĩ và cảm nghĩ. Mặt khác, nó cũng không nói lên được những dạng học tập khác xuất hiện mà không cần đến các yếu tố củng cố và trừng phạt. Hơn nữa, con người và động vật có thể thích nghi hành vi khi có thông tin mới xuất hiện dù là hành vi đó được thiết lập thông qua các yếu tố củng cố đi chăng nữa.

Tâm lý học hành vi khá khác biệt so với các nhóm ngành khác. Một trong những lợi ích của thuyết hành vi là nó cho phép các nhà khoa học kiểm tra được các hành vi quan sát được theo một cách thức khoa học và có hệ thống. Tuy nhiên, nhiều người nghĩ rằng nó không đầy đủ vì không chú ý đến một số thứ ảnh hưởng quan trọng lên hành vi. Ví dụ, Freud thấy thuyết hành vi không thành công vì nó không nói lên được những suy nghĩ, cảm xúc và ham muốn của con trường trong trạng thái tâm trí vô thức, tất cả đều gây ảnh hưởng lên các hành vi của con người. Một số nhà tư tưởng khác, như Carl Rogers và những nhà tâm lý học nhân văn khác lại tin rằng thuyết hành vi quá cứng nhắc và bị nhiều hạn chế, không xem xét đến các yếu tố mang tính đặc trưng cá nhân.

Gần đây, tâm lý sinh học đã nhấn mạnh sức mạnh của não bộ và di truyền trong việc xác định hành vi và gây ảnh hưởng lên chúng. Các tiếp cận về mặt nhận thức trong tâm lý học lại tập trung vào các quá trình tâm thần như suy nghĩ, đưa ra quyết định, ngôn ngữ và giải quyết vấn đề. Dù là nội dung nào thì thuyết hành vi đã bỏ qua các quá trình và sự ảnh hưởng của các quá trình này vàà chỉ dành thời gian đi sâu phân tích các hành vi quan sát được.

Kết luận.

Một trong số những thế mạnh đáng gườm nhất của tâm lý học hành vi là khả năng quan sát và đo lường hành vi một cách rõ ràng. Những hạn chế của cách tiếp cận này là nó không thể phân tích được những quá trình nhận thức và sinh lý bên trong ảnh hưởng lên hành vi. Mặc dù hiện nay thuyết hành vi không còn giữuđược vị thế thống trị như trước đây nhưng nó vẫn có một tác động lớn giúp ta hiểu rõ thêm về tâm lý học con người. Bản thân quá trình điều kiện hóa đã giúp chúng ta hiểu được nhiều loại hành vi khác nhau, từ cách con người học tập đến quá trình phát triển của ngôn ngữ.

Nhưng có lẽ đóng góp lớn nhất của tâm lý học hành vi nằm ở khả năng áp dụng thực tiễn của nó. Những kỹ thuật của nó có thể đóng một vai trò mạnh mẽ trong việc điều chỉnh các hành vi có vấn đề và khuyến khích các hành vi tích cực và có ích hơn. Ngoài tâm lý học, các bậc cha mẹ, giáo viên, những nhà huấn luyện thú vật và nhiều người khác có thể sử dụng những nguyên lý cơ bản của tâm lý học hành vi để giúp huấn luyện các hành vi tích cực mới và hạn chế những hành vi không mong muốn.

Nguồn: //www.verywell.com/behavioral-psychology-4013681

Dịch bởi //trangtamly.wordpress.com

Video liên quan

Chủ Đề