Tại sao học về tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính
nội dung ôn tập môn tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính Show
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.5 KB, 55 trang ) NỘI DUNG ÔN TẬP MÔN TIỀN TỆ, NGÂN HÀNG một cách trôi chảy hơn. - Nhờ chức năng phương tiện cất trữ của tiền tệ, việc hạch toán và tính toán hiệu quả kinh doanh trở nên thuận tiện và đầy đủ; quá tŕnh tích luỹ tiền tệ được thực hiện để mở rộng qui mô sản xuất và kinh doanh. -Thứ hai: Tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ hợp tác quốc tế Trong điều kiện nền KTTT, tiền tệ không chỉ là phương tiện để mở rộng và phát triển quá tŕnh sản xuất và trao đổi hàng hóa ở trong và ngoài nước mà nó cc̣n là phương tiện quan trọng để thực hiện và mở rộng các quan hệ hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác như chính trị, văn hóa, xă hội,… Nhờ có tiền, mối quan hệ nhiều mặt giữa các quốc gia trên thế giới sẽ được hv́nh thành và phát triển, làm cho xu thế ḥa nhập trong các lĩnh vực kinh tế - xă hội, tài chính, tiền tệ ngân hàng, hợp tác khoa học kỹ thuật,… giữa các nước ngày càng sâu rộng. -Thứ ba: tiền tệ là một công cụ để phục vụ cho mục đích của người sử dụng chúng. Trong điều kiện kinh tế thị trường, hầu như mọi quan hệ kinh tế xă hội đều bị tiền tệ hoá, mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan … đều không thể thoát ly khỏi các quan hệ tiền tệ. Trong điều kiện đó, tiền tệ trở thành công cụ để xử lí mọi ràng buộc phát sinh trong nền kinh tế xă hội (trong và ngoài nước), đồng thời tất cả các hành vi kinh tế trong nền kinh tế hiện nay đều hướng đến 1 mục đích duy nhất , đó chính là lợi nhuận (là tiền). Bên cạnh đó, thực tế đă chứng minh, tiền tệ là công cụ hữu hiệu giúp các chủ thể trong nền kinh tế xă hội đạt được các mục đích khác nhau. Từ các cá nhân, đến các tổ chức, để tồn tại, hoạt động và phát triển, đều cần có nguồn lực vật chất thể hiện dưới nhiều hv́nh thái khác nhau, và tất cả các mục đích đó đều có thể được thỏa măn thông qua việc dùng tiền để mua sắm. Thậm chí, ngay cả Chính phủ, để thực hiện được các chức năng và nhiệm vụ của ḿnh, để khuếch trương quyền lực chính trị của ḿnh và tạo uy tín trong long dân chúng, Chính phủ cũng luôn cần đến tiền như là một phương tiện hữu ích nhất, và thỏa măn đă dạng các mục đích nhất. b)Ý nghĩa của việc nghiên cứu tiền? 2 Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát... Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định. Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là các công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. 3 2. Vận dụng lý thuyết lượng cầu tài sản để giải thích sự phân bố tài sản trong đầu tư của các cá nhân? Khi của cải của một người tăng lên, anh ta có thêm tiềm lực kinh tế sẵn sàng để có thể mua sắm thêm tài sản . do vậy lượng tài sản mà anh ta yêu cầu (lượng cầu tài sản) tăng lên. Khi giữ những thứ khác không thay đổi, một sự tăng về của cải làm tăng một lượng cầu tài sản và sự tăng lượng cầu này lớn hơn nếu tài sản đó mang nhiều tính chất cao cấp hơn là tính chất cần thiết Quyết định mua một tài sản chịu ảnh hưởng bởi việc xem xét lợi tức dự tính của tài sản đó Một sự tăng lợi tức dự tính của một tài sản so với lợi tức dự tính của một tài sản thay thế, khi giữ mọi thứ khác không đổi sẽ làm tăng lượng cầu tài sản đó. Mức độ rủi ro hoặc không chắc chắn về lợi tức của một tài sản cũng tác động lên lượng cầu tài sản đó. Khi mọi thứ khác không thay đổi, nếu rủi ro của một tài sản tăng lên so với rủi ro của các tài sản thay thế, thì lượng cầu của nó sẽ giảm Tính lỏng của tài sản tác động đến lượng cầu tài sản đó Một tài sản có tính lỏng cao hơn tài sản thay thế, khi giữ mọi thứ khác không thay đổi, thì nó càng được ưu chuộng và lượng cầu tài sản sẽ càng lớn Khi giữ mọi yếu tố khác không thay đổi: + lượng cầu một tài sản thường có tương quan thuận với của cải với một đáp ứng lớn hơn nếu tài sản đó có nhiều tính chất “cao cấp” hơn là tính chất “cần thiết” + lượng cầu một tài sản có tương thuận với lợi tức dự tính của nó so với các tài sản thay thế. + lượng cầu một tài sản có tương quan nghịch đảo với rủi ro về lợi tức của nó so với những tài sản thay thế. + lượng cầu một tài sản có tương quan thuận với tính lỏng của nó so với các tài sản thay thế. Lợi ích của việc đa dạng hóa đầu tư là làm giảm rủi ro cho các nhà đầu tư và lợi ích càng lớn khi lợi tức từ các khoản đầu tư không diễn biến giống nhau. 4 3. Trình bày các khối tiền trong nền kinh tế? Theo bạn, trong tương lai tỷ trọng các khối tiền này có xu hướng thay đổi như thế nào? vấn đề đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách mà cụ thể là NHTW mỗi nước-cơ quan chịu trách nhiệm chính trong xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ, là phải biết một cách chính xác các thành phần của lượng tiền cung ứng vào lưu thông bao gồm các bộ phận nào để có thể dự báo được những biến động kinh tế cũng như có những biện pháp điều chỉnh hợp lý. Thông thường, NHTW các nước sẽ vừa áp dụng phương pháp lý thuyết trên cơ sở vận dụng linh hoạt các học thuyết kinh tế tiền tệ vừa áp dụng phương pháp kinh nghiệm trên cơ sở kiểm nghiệm thực tiễn để xây dựng một phép đo tổng lượng tiền trong lưu thông từ hẹp đến rộng một cách phù hợp nhất với diễn biến của môi trường kinh tế nước ḿnh. Trước khi tv́m hiểu cụ thể về phép đo tổng lượng tiền trong lưu thông và các thành phần của nó, cần phải biết khái niệm “Khối lượng tiền tệ trong lưu thông”. Khối lượng tiền trong lưu thông là khái niệm dùng để chỉ tất cả các phương tiện được chấp nhận làm trung gian trao đổi với mọi hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác tại một thị trường cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định. Để dẫn ra một mô hv́inh của quá tŕnh cung ứng tiền tệ, người ta phân biệt các khối tiền trong lưu thông. Thành phần mức cung tiền tệ thay đổi thường xuyên từ giai đoạn này sang giai đoạn khác và khác nhau giữa các nước. Thành phần mức cung tiền tệ hay phạm vi các phép đo khối lượng tiền có thể được tŕnh bày khái quát như sau: - Khối tiền tệ M1 (Khối tiền tệ giao dịch): Đây là khối tiền tệ theo nghĩa hẹp nhất về lượng tiền cung ứng, nó chỉ bao gồm những phương tiện được chấp nhận ngay trong trao đổi hàng hoá, mà không phải qua một bước chuyển đổi nào. Với khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm: + Tiền đang lưu hành: gồm toàn bộ tiền mặt do ngân hàng trung ương phát hành đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng. Xét về chủng loại, tiền đang lưu hành bao gồm các loại tiền giấy, tiền xu, ngân phiếu ... + Tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng thương mại: là loại tiền gửi mà chủ sở hữu của nó có thể rút ra hoặc phát hành séc để thanh toán tiền mua hàng hoá hay dịch vụ vào bất kỳ lúc nào. - Khối tiền tệ M2 (Khối tiền giao dịch mở rộng): Đây là phép đo khối lượng tiền rộng hơn trong lưu thông. Khối tiền tệ này bao gồm: + Khối tiền tệ M1. + Tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại. - Khối tiền tệ M3: Khối tiền tệ này bao gồm: + Khối tiền tệ M2. + Các khoản tiền gửi tại các định chế tài chính khác. - Khối tiền tệ L: Theo khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm: + Khối tiền tệ M3. + Các loại giấy tờ có giá trong thanh toán có tính lỏng cao, tức là dễ chuyển thành tiền mặt, có thể kể đến như: thương phiếu, tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu,.... Trong các khối tiền kể trên, khối tiền tệ M1 là khối có tính lỏng cao nhất. Khi khối tiền tệ được mở rộng theo các phép đo từ M1 đến L thv́ tính lỏng của nó càng thấp b) trong tương lai tỷ trọng các khối tiền này có xu hướng thay đổi như thế nào? Các loại tiền trong nền kinh tế thị trường phát triển thường được xếp theo trình tự căn cứ vàonhận dạng theo “tính lỏng trong giao dịch” - một thuật ngữ được sử dụng khá thường xuyên ở hầu hết các sách nghiên cứu về tiền tệ. “Tính lỏng” biểu hiện cho khả năng dễ dàng chuyển sang tiền mặt nhằm đáp ứng cho nhu cầu giao dịch. Theo đó, có thể thấy tiền pháp định do nhà nước phát hành đạt “tính lỏng” cao nhất, sau đó mới đến các loại tiền tài sản 5 khác. Do đó khối tiền tệ M1 vẫn được sử dụng rộng rãi nhất, khối tiền này bao gồm các loại tiền giấy, tiền kim loại do nhà nước phát hành. Nó có tên gọi “tiền pháp định” đã cho thấy các loại tiền này được nhà nước thống nhất phát hành và cho phép lưu thông với mệnh giá được ghi trên đồng tiền theo luật định. Đồng tiền pháp định thể hiện quyền lực của nhà nước trong quá trình điều tiết lưu thông tiền tệ qua hoạt động phát hành cũng như thu hồi tiền từ lưu thông nhằm thực hiện những mục tiêu của Chính phủ trong từng thời kỳ. Mặt khác, đồng tiền pháp định còn khẳng định chủ quyền quốc gia, sự độc lập của hệ thống tiền tệ mỗi quốc gia đó trên trường quốc tế. Do vậy, về hình thức, tiền pháp định luôn có dấu quốc huy trên đồng tiền, đặc biệt đối với các loại tiền giấy, thường còn phải có số sêri phát hành và chữ ký của một quan chức Chính phủ. Trong lưu thông, tiền pháp định có thể được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau như: tiền mặt, tiền NHTW, tiền của nhà nước,… Mặc dù là một loại tiền có tính thanh khoản cao đáp ứng ngay cho nhu cầu giao dịch song việc nắm giữ lại tiền này có mức sinh lợi thấp nhất. 6 4. Phân tích vai trò của các Trung gian tài chính? Liên hệ việc phát huy các vai trò này đối với thực tế phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam? Trung gian tài chính, tức là quá trình một tổ chức thường là một tổ chức tương đối lớn và ổn định, đứng ra vay vốn rồi cho các tổ chức nhỏ hơn, có độ an toàn ít hơn vay lại. Những tổ chức nhỏ khi đi vay tiền sẽ phải trả lãi suất cao hơn lãi suất mà tổ chức lớn phải trả khi đi vay tiền. Quá trình này có vẻ như là một quá trình tự sinh lời song vấn đề là ở chỗ liệu các tổ chức vay lại có trả được lãi suất đủ cao để bù đắp lại tính rủi ro cao hơn mà tổ chức vay lần 1 phải chịu cũng như chi phí trả nợ hay không. Việc sử dụng cả vốn đi vay và vốn tự có để đầu tư được gọi là sử dụng đòn bẩy tài chính. Tỷ lệ của các quỹ đi vay trên quỹ hiện có (hay tỷ lệ nợ/tài sản) được gọi là tỷ số vay nợ. Các tổ chức doanh nghiệp hoạt động trong mọi lĩnh vực đều sử dụng đòn bẩy tài chính. a. Chu chuyển các nguồn vốn trong nền kinh tế Vai trò quan trọng nhất của các tổ chức tài chính trung gian là chu chuyển nguồn lực tài chính từ nơi thừa đến nơi thiếu. Trong bối cảnh hội nhập, các tổ chức tài chính trung gian không chỉ là kênh chuyển tải nguồn lực tài chính từ các chủ thể thừa vốn đến các chủ thể thiếu vốn trong nước mà còn là kênh chuyển tải nguồn lực tài chính từ những nhà đầu tư quốc tế đến những người đi vay quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức tài chính trung gian có thể huy động các nguồn tiền thông qua các kênh sau đây: - Kênh huy động vốn đầu tư ở trong nước: + Huy động vốn đầu tư trong nước thông qua các dịch vụ đầu ra: Các tổ chức tài chính trung gian khai thác các nguồn vốn tiết kiệm trong xã hội thông qua việc triển khai các dịch vụ đầu ra mà chủ yếu là phát hành các sản phẩm tài chính như kỳ phiếu, các chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm, hợp đồng bảo hiểm,… với nhiều kỳ hạn khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường, tiết kiệm của khu vực dân cư giữ vị trí rất quan trọng trong hệ thống tài chính. Các tầng lớp dân cư có thể lựa chọn các kênh đầu tư như đầu tư qua các tổ chức tài chính trung gian, mua chứng khoán trên thị trường chứng khoán, trực tiếp đầu tư vào hoạt động kinh doanh,… Mỗi kênh đầu tư đều có những ưu và nhược điểm nhất định. Kênh đầu tư qua các tổ chức tài chính trung gian có ưu điểm nổi bật là: Chi phí giao dịch thấp, độ an toàn cao, rủi ro ít, các tổ chức tài chính trung gian tỏ ra có ưu thế trong quá trình đánh giá và chọn lựa đầu tư vốn. Tuy nhiên, nếu như môi trường kinh tế vĩ mô không ổn định, thị trường tài chính và các công cụ tài chính yếu kém thì các tổ chức tài chính trung gian khó mà phối hợp và chuyển tải nhanh chóng nguồn vốn tiết kiệm của khu vực dân cư cho các tổ chức và cá nhân cần vốn. + Huy động vốn đầu tư qua thị trường vốn trong nước Với sự chuyên môn hóa về mua bán các loại chứng khoán, thị trường chứng khoán được xem như một cơ sở hạ tầng tài chính để các tổ chức tài chính trung gian thực hiện chính sách huy động vốn của các nhà đầu tư thông qua việc phát hành các loại chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu,… trên thị trường chứng khoán. - Kênh huy động vốn đầu tư từ nước ngoài: Các tổ chức tài chính trung gian huy động vốn đầu tư nước ngoài qua các hình thức: + Tiếp nhận nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) để thực hiện cho vay theo các chương trình tín dụng chỉ định của các nhà tài trợ nước ngoài. Nguồn vốn ODA có ưu điểm là chi phí sử dụng thấp và quy mô vốn lớn nhưng lại có nhược điểm là bên tiếp nhận nguồn vốn này phải chấp nhận những điều kiện và ràng buộc khắt khe về thủ tục chuyển giao vốn. Mỗi tổ chức tài trợ đều có những phương cách và thông lệ riêng trong việc cung cấp ODA nhằm đạt được những mục tiêu riêng biệt của họ. Thực tế cho thấy, việc khai thác nguồn vốn này đã mang lại những hệ quả tốt lẫn xấu trong việc tiếp nhận và sử dụng nguồn 7 vốn này. + Huy động vốn đầu tư qua thị trường vốn quốc tế Ưu điểm của kênh này là mở ra cho các tổ chức tài chính trung gian trong nước một thị trường huy động vốn rộng lớn. Thế nhưng, việc tìm kiếm vốn trên thị trường tài chính quốc tế vẫn có nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt là các tiêu chuẩn tín nhiệm chặt chẽ đặt ra đối với các chứng khoán để được chấp nhận giao dịch tại các thị trường tài chính quốc tế. Việc phát hành trái phiếu quốc tế đòi hỏi các tổ chức tài chính trung gian phải tuân thủ các thông lệ quốc tế, những thủ tục này rất phức tạp, gây ra nhiều trở ngại trong việc tiếp cận kênh huy động này. Trong xu thế tự do hóa tài chính, thị trường chứng khoán sẽ mở ra nhiều cơ hội để cho các định chế tài chính trung gian trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài giao lưu vốn với nhau trên thị trường chứng khoán. Tuy vậy, kênh huy động vốn này luôn chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn, gây bất ổn cho các tổ chức tài chính trung gian. Cũng chính ở đây, nếu giá cả chứng khoán do những hoạt động đầu cơ đẩy lên cao thì tạo nên kinh tế ảo hoặc bong bóng rất nguy hiểm và làn sóng khủng hoảng tài chính - tiền tệ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Trên cơ sở huy động được các nguồn tài chính từ các tổ chức và các cá nhân trong nền kinh tế, các tổ chức trung gian tài chính sẽ chuyển nguồn vốn này đến những nơi cần vốn thông qua các hình thức cho vay, chiết khấu các giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính, cung cấp các dịch vụ tài chính, các hoạt động đầu tư,... Từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả của các nguồn vốn trong nền kinh tế. Như vậy, các tổ chức tài chính trung gian chính là cầu nối trung gian giữa những người có nhu cầu sử dụng tạm thời các nguồn tài chính với những người có khả năng cung ứng chúng. b. Khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Trong một tiến trình giao dịch vốn, người cần vốn bao giờ cũng nắm rõ thông tin về mức độ rủi ro và tỷ suất sinh lời của dự án đầu tư mà anh ta đang tiến hành hơn là người cung cấp vốn. Vấn đề này còn gọi là thông tin bất cân xứng. Thông tin bất cân xứng sẽ làm nảy sinh hai vấn đề làm cho người có vốn không sẵn lòng cung cấp vốn cho người cần vốn, đó là: lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. - Lựa chọn đối nghịch: Lựa chọn đối nghịch xảy ra trước khi giao dịch vốn. Đối với những người cần vốn, đặc biệt là các doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn về vốn thường có khuynh hướng đưa ra mức lãi suất huy động vốn hấp dẫn. Nhưng một sự lựa chọn đối nghịch xảy ra đối với người cung cấp vốn, đó là nếu không biết rõ lịch sử và đặc điểm hoạt động của người cần vốn thì người cung cấp vốn sẽ không sẵn sàng cung cấp vốn. - Rủi ro đạo đức: Rủi ro đạo đức xảy ra sau khi thực hiện giao dịch vốn. Những hợp đồng vay nợ thường có đặc điểm là mức lãi suất cố định. Vì vậy, khi vay được vốn các doanh nghiệp có khuynh hướng sử dụng số vốn vay để đầu tư vào các dự án đầu tư có lãi suất cao hơn nhưng lại có nhiều rủi ro tiềm năng. Trong khi đó, người cho vay lại không có đủ khả năng để giám sát những hoạt động của người đi vay sau khi đã cung cấp vốn nên rất có thể sẽ gặp phải rủi ro không thu hồi được vốn và lãi do người đi vay sử dụng vốn vay vào những phương án đầu tư nhiều rủi ro. Vì vậy, người thừa vốn không sẵn sang cung ứng vốn. Chính sự tồn tại của các tổ chức tài chính trung gian là để giải quyết mâu thuẫn về thông tin bất cân xứng và hai vấn đề liên đới là lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Các tổ chức tài chính trung gian chuyên môn hoá trong việc đánh giá rủi ro tiềm năng của người đi vay. Họ có thể tiếp cận các thông tin cá nhân của người xin vay ( như trạng thái tài khoản tiền gửi, thu nhập, tài sản, nợ phải trả,..) và kiểm soát được những hoạt động đầu tư của 8 người đi vay. Nói cách khác, các tổ chức trung gian tài chính có vị thế tốt hơn để đưa ra quyết định cung cấp các khoản nợ một cách hợp lý. Các định chế tài chính trung gian tạo điều kiện thuận lợi cho các quỹ tiền tệ nhàn rỗi của xã hội chuyển dịch từ người thừa sang người thiếu, cải thiện tính hiệu quả kinh tế của tiến trình này. c. Góp phần giảm chi phí giao dịch của xã hội Chi phí giao dịch là chi phí về tiền bạc và thời gian để thực hiện giao dịch tài chính. Một trong các yếu tố quan trọng của chi phí giao dịch là chi phí nghiên cứu, thẩm định, đánh giá để đưa ra quyết định đầu tư. Nếu không có các tổ chức tài chính trung gian, người vay vốn phải bỏ ra nhiều thời gian và chi phí để tìm người cho vay vốn với mức lãi suất hợp lý. Đối với người tiết kiệm, để quyết định cho vay, họ cần phải trải qua hai công đoạn: + Tìm người cần vốn đáng tin cậy. + Thiết lập hợp đồng vay vốn chặt chẽ. Để thực hiện các hoạt động này, đòi hỏi người tiết kiệm phải bỏ ra một lượng chi phí nhất định. Như vậy, rõ ràng sự ra đời của các tổ chức tài chính trung gian đã góp phần làm giảm chi phí giao dịch mang lại lợi ích cho cả người đi vay và người tiết kiệm. Các định tổ chức tài chính trung gian có ưu thế tạo ra lợi thế kinh tế về quy mô thông qua việc tập trung những quỹ tiền tệ có quy mô nhỏ của từng tổ chức, cá nhân tiết kiệm và đa dạng hóa các nghiệp vụ sử dụng vốn. Những hoạt động này của các tổ chức tài chính trung gian được thực hiện bởi một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao. Với lợi thế kinh tế về quy mô, các tổ chức tài chính trung gian đã làm cho các giao dịch tài chính riêng lẻ của từng cá nhân, tổ chức được thực hiện dễ dàng với chi phí thấp. Từ đó làm giảm chi phí giao dịch của xã hội. d. Góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng cuộc sống xã hội. Các tổ chức tài chính trung gian mang lại lợi ích cho cả người tiết kiệm và người đi vay. Qua đó, nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng cuộc sống xã hội. Điều này được thể hiện trên các khía cạnh: - Lợi ích đối với người tiết kiệm: Bằng việc tập trung nguồn vốn nhàn rỗi của những người tiết kiệm, biến nó thành đồng vốn sinh lời, sự tồn tại của các tổ chức tài chính trung gian khắc phục những khó khăn mà vốn dĩ từng người tiết kiệm thường gặp phải khi thực hiện đầu tư trực tiếp như: thiếu kinh nghiệm, thiếu thông tin, khả năng tiếp cận thị trường bị hạn chế, thiếu những công cụ tài chính có quy mô nhỏ và chi phí giao dịch tốn kém. Bên cạnh đó, các tổ chức tài chính trung gian còn tạo ra kinh tế quy mô và đa dạng hóa các sản phẩm tài chính từ đó phân tán rủi ro cho những người tiết kiệm. - Lợi ích đối với người vay vốn: Thông qua các nghiệp vụ cụ thể, các tổ chức tài chính trung gian đã đem lại lợi ích cho người vay vốn trên các khía cạnh: làm giảm chi phí giao dịch; gắn kết chặt chẽ nhu cầu của người tiết kiệm và người đi vay; chuyển hoá nguồn vốn tiết kiệm ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vay vốn dài hạn của các doanh nghiệp; đa dạng hoá các sản phẩm tài chính với nhiều loại quy mô và kỳ hạn khác nhau; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có quy mô nhỏ tiếp cận để vay vốn. • Liên hệ iệc phát huy các vai trò này đối với thực tế phát triển nền kinh tế TT Việt Nam. Việt Nam đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục và luôn giữ ở mức cao trong vòng 5 năm qua và trong chiến lược phát triển đến năm 2020, Việt Nam phấn đấu trở thành nước công nghiệp về cơ bản. Cho nên để đáp ứng nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2020, nền kinh tế Việt Nam luôn đòi hỏi nguồn vốn huy động rất lớn. Chín vì thế, thị trường tài chính Việt Nam hình thành và phát triển có vai trò rất to lớn là nơi tập trung mọi nguồn lực về tài chính cho sự nghiệp phát triển của đất nước. 9 • Thị trường tài chính tạo lập nguồn vốn cho nền kinh tế. - Với vai trò là tích tụ và tập trung tư bản cho nền kinh tế, hệ thống NHTM là một kênh huy động vốn giáp tiếp để tạo lập nguồn vốn. Hệ thống NHTM thực hiện chức năng huy động vốn cho mọi thành phần kinh tế trong xã hội thông qua các dịch vụ tiền gửi tiết kiệm, dịch vụ thanh toán…Lãi suát huy động trên thị trường (TT) có ảnh hưởng rất quan trọng đến lượng vốn mà các NHTM huy động được. Lãi suất này phải đảm bảo là lãi suất thực dương, tức là phải cao hơn tỷ lệ mất giá của tiền tệ nhưng phải thấp hơn lãi suất cho vay để đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho hệ thống NH. Từ nguồn huy động này, các NHTM cung ứng một lượng vốn dồi dào cho nền kinh tế thông qua hđ cấp tín dụng. Lãi suất trên TT tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và mua bán chứng khoán trên TT vốn. - Khi lãi suất tiết kiệm chưa thật sự hấp dẫn những người có tiền nhà rỗi mong nuốn có nơi đầu tư sinh lợi cao hơn, mạo hiểm hơn thì thị trường chứng khoán là mọt kênh huy động vốn trực tiếp cho nền kinh tế. Dựa vào tính thanh khoản cao của tài sản TC trên TT này cũng như tính linh hoạt trong lựa chọn danh mục đầu tư sao cho mức sinh lơ]ì tối ưu, TT chứng khoán ra đời ở VN đã thật sự là nơi thu hút vốn rất lớn vì tính hấp dẫn ở suất sinh lời cao hơn lãi suất tiết kiệm hay kỳ vọng vào gtri cổ phiếu trong tương lai. • Thị trường TC góp phần nâng cao hiệu quả hđ của nền kinh tế. - Các công cụ và chính sách trên TTTC ngày càng PT sẽ giúp khai thông các nguồn vốn và khai thác triệt để các nguồn lực TC. Các nguồn lực TC bao gồm trong nước và nước ngoài. Đối với nguồn lực trong nước cần PT đa dạng các dịch vụ về TC để những khoản tiết kiệm, tiền nhàn rỗi được đưa vào lưu thông sinh lợi hơn là đưa vào cất trữ. Khi đó, nội lực TC trong nước được huy động triệt để. Dối với nguồn lực TC bên ngoài cần có chính sách khơi thông nguồn tiền vào và ra bằng cơ chế giám sát hơn là các biện pháp quản lý hành chính, để thu hút nguồn lực TC lớn của các tập đoàn nước ngoài. • Thị trường TC góp phần đẩy nhanh quá trình tự do hóa TC và hội nhập quốc tế - TTTC hình thành tùy thuộc vào điều kiện chính trị - KT_XH của mỗi nước nên có những đặc thù riêng ở TT của mỗi nước. Tuy nhiên, ngày nay với tốc độ tự do hóa toàn cầu, không một TT nào có thế PT riêng lẻ mà phải có mối quan hệ lẫn nhau. Điều đó được thể hiện bằng việc mức độ tự do hóa TTTC trong nước và mức độ hội nhập vào nền KTTG. Vì thế mà hiện nay ở hầu hết các nước trên TG tiến hành cải cách TC tiền tệ theo xu hướng tự do hóa TC. + Tự do hóa lãi suất: lãi suất hình thành TT phải do TT quyết định, phụ thuộc vào cung cầu, đầu tư, mức tiết kiệm và thu nhập trong nền KT. Tự do hóa lãi suất thườn găn liền với nó là tự do hóa tỷ giá hối đoái, có tác động mạnh đến toàn bộ nền KT quốc dân, quyết định tốc độ và tính chất của tăng trưởng kinh tế. + Tự do hóa cơ chế quản lý tỷ giá linh hoạt +Tự do hóa giao dịch vãng lai + Tự do hóa giao dịch vốn + Tự do chuyển đổi đồng bản tệ. Ngày nay nền KT Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền KT TG, phù hợp với quy luật PT của nền kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy, vấn đề XD một TTTC vững mạnh, ổn định và PT cần phải được tổ chức và có những bước đi thích hợp. Chính phủ với vai trò quản lý và là người XD hành lang pháp lý cho TT TC phát huy hết vai trò của nó, giúp cho nền KTVN ngày càng PT bền vững, nhất là khi hội nhập vào nền KTTG. TTTC ngày nay mang tính toàn cầu, vượt ra khỏi ranh giới các QG, tính hội nhập cũng rất mạnh mẽ nên rất khó trong quản lý, đặc biệt là cơ chế giám sát, sao cho vừa mang tính đặc thù triêng theo những điều kiện chính trị , KT, XH của mỗi nước, vừa mang tính hội nhập QT, vừa đảm bảo an toàn cho TTTC trong nước, vừa mang tính chất tự do hóa. 10 5, Hãy phân biệt lợi tức với lãi suất, lãi suất thực với lãi suất danh nghĩa? Bạn có bình luận gì về lãi suất tiền gửi tiết kiệm của các NHTM Việt Nam thời gian qua? • Phân biệt lợi tức và lợi suất: Lợi tức là một khái niệm trong kinh tế học dùng để chỉ chung về những khoản lợi nhuận (lãi, lời) thu được khi đầu tư, kinh doanh hay tiền lãi thu được do cho vay hoặc gửi tiết kiệm tai ngân hàng. Trong các trường hợp khác nhau, thì lợi tức có tên gọi khác nhau, trong đầu tư chứng khoán, lợi tức có thể gọi là cổ tức, trong tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi kỳ hạn, nó gọi là lãi hay tiền lãi, còn trong các hoạt động đầu tư kinh doanh khác, lợi tức có thể gọi là lợi nhuận, lời... Lợi tức là một khái niệm được xem xét dưới hai góc độ khác nhau gồm góc độ của người cho vay và của người đi vay. • Ở góc độ người cho vay hay nhà đầu tư vốn, lợi tức là số tiền tăng thêm trên số vốn đầu tư ban đầu trong một khoảng thời gian nhất định. Khi nhà đầu tư đem đầu tư một khoản vốn, nhà đầu tư sẽ thu được một giá trị trong tương lai lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu và khoản chênh lệch này được gọi là lợi tức. • Ở góc độ người đi vay hay người sử dụng vốn, lợi tức là số tiền mà người đi vay phải trả cho người cho vay (là người chủ sở hữu vốn) để được sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Trong thời gian cho vay, người cho vay có thể gặp phải những rủi ro như: người vay không trả lãi hoặc không hoàn trả vốn vay. Những rủi ro này sẽ ảnh hưởng đến mức lợi tức mà người cho vay dự kiến trong tương lai. Khoản tiền đi vay (hay bỏ ra để cho vay) ban đầu gọi là vốn gốc. Số tiền nhận được từ khoản vốn gốc sau một khoản thời gian nhất định gọi là giá trị tích luỹ. Tỷ suất lợi tức (lãi suất) là tỷ số giữa lợi tức thu được (phải trả) so với vốn đầu tư (vốn vay) trong một đơn vị thời gian. Đơn vị thời gian là năm (trừ trường hợp cụ thể khác). Lợi tức thực hiện cả năm là kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm lợi tức hoạt động kinh doanh và hoạt động khác. Lợi tức hoạt động kinh doanh là khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu bán sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trừ đi giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ và thuế theo quy định của pháp luật (trừ thuế lợi tức). Lợi tức hoạt động khác bao gồm: • Lợi tức hoạt động tài chính là số thu lớn hơn chi của các hoạt động tài chính, bao gồm các hoạt động cho thuê tài sản, mua, bán trái phiếu, chứng khoán, mua bán ngoại tệ, lãi tiền gửi ngân hàng thuộc vốn kinh doanh, lãi cho vay thuộc các nguồn vốn và quỹ, lãi cổ phần và lãi do góp vốn liên doanh, hoàn nhập số dư khoản dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán ngắn hạn, dài hạn. • Lợi tức của hoạt động bất thường là khoản thu nhập bất thường lớn hơn các chi phí bất thường, bao gồm các khoản phải trả không có chủ nợ, thu hồi lại các khoản nợ khó đòi đã được duyệt bỏ (đang theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán, các khoản vật tự, tài sản thừa sau khi đã bù trừ hao hụt mất mát các vật tư cùng loại, chênh lệch thanh lý, nhượng bán tài sản (là số thu về nhượng bán trừ giá trị còn lại trên sổ sách kế toán của tài sản và các chi phí thanh lý, nhượng bán), các khoản lợi tức các năm trước phát hiện năm nay, số dư hoàn nhập các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, phải thu khó đòi, khoản tiền trích bảo hành sản phẩm còn thừa khi hết hạn bảo hành. Lãi suất hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng, vì nó là giá của quyền được sử dụng vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định, mà người sử dụng phải trả cho người cho vay; là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu. Lợi tức là một phạm trù kinh tế gắn liền với sự vận động của tín dụng và do bản chất của tín 11 dụng quyết định. Lợi tức tín dụng là thu nhập mà người cho vay nhận được ở người đi vay trả cho việc sử dụng tiền vay. Thực chất, lãi suất được biểu hiện bằng quan hệ tỷ lệ giữa lợi tức tín dụng và tổng số tiền vay trong một thời gian nhất định. Lãi suất và tỉ suất lợi tức đều tính bằng đơn vị % Lãi suất thường gắn với các khoản vay, là % tính trên nợ gốc mà bên vay phải trả cho bên cho vay Tỷ suất lợi tức gắn với các khoản đầu tư, đó là phần sinh lợi có được trên việc đầu tư cổ phiếu tính bằng % trên 1 đơn vị vốn bỏ ra • Phân biêt lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế: Lãi suất danh nghĩa là lãi suất được công bố đối với một khoản vay hoặc một khoản đầu tư. Lãi suất thực tế (lãi suất hiệu quả) là lãi suất mà bạn thực sự thu được từ một khoản đầu tư hoặc phải trả cho một khoản vay sau khi tính đến tác động của lãi suất ghép. Thông thường cái mà chúng ta hay nhìn thấy là lãi suất danh nghĩa, còn lãi suất thực tế sẽ được tính toán từ lãi suất danh nghĩa theo một số phương pháp nhất định. Lãi suất danh nghĩa gắn liền với phương pháp tính lãi đơn giản, còn lãi suất thực tế là kết quả của phương pháp tính lãi ghép. Để có một phép so sánh chính xác giữa hai lãi suất sử dụng với hai kì hạn khác nhau, trước hết bạn phải qui đổi lãi suất danh nghĩa (lãi suất công bố) của cả hai về lãi suất thực tế tương đương để nhìn rõ ảnh hưởng của lãi suất ghép. Lãi suất hiệu quả của một khoản đầu tư bao giờ cũng cao hơn lãi suất công bố nếu nó được gộp lên nhiều lần trong một năm. Khi số chu kì gộp lãi tăng lên thì sự khác biệt giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất hiệu quả sẽ càng rõ rệt. Lãi suất danh nghĩa được chuyển sang lãi suất thực tế theo công thức sau: re = (1 + (r / n))n - 1 trong đó: re : lãi suất thực tế rn : lãi suất danh nghĩa n : số chu kì gộp lãi Ví dụ: một trái phiếu có lãi suất danh nghĩa 8%/ năm, thanh toán lãi theo chu kì 6 tháng, thì lãi suất thực tế là re1 = (1 + (8%/2))2 - 1 = 0.0816 ~ 8.16% / năm Cũng với trái phiếu trên khi chu kì trả lãi là 3 tháng thì lãi suất thực tế là: re2 = (1 + (8%/4))4 - 1 = 0.0824 ~ 8.24% / năm 2 kết quả đó cho thấy, trả lãi định kì 3 tháng đem lại thu nhập cho nhà đầu tư cao hơn 6 tháng, vì nó giúp nhà đầu tư tái đầu tư tiền lãi nhanh hơn. • Nhận xét Lãi suất tiền gửi của ngân hàng TMVN trong năm 2012 vừa qua. Trong bối cảnh năm vừa qua nhiều ngân hàng đẩy mạnh huy động vốn bằng cách đưa lãi suất huy động lên vượt trần để hút khách hàng. Theo lý giải của lãnh đạo một ngân hàng thương mại, việc đưa lãi suất huy động lên cao sẽ giúp ngân hàng huy động được nguồn vốn tốt hơn. Khi có nguồn vốn dồi dào sẽ giúp các ngân hàng đảm bảo duy trì các chỉ số an toàn tài chính tốt hơn, đồng thời cũng sẽ giúp ngân hàng chủ động hơn về nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong những tháng cuối năm. Hơn nữa, với diễn biến lạm phát hiện tại, các ngân hàng cũng sẽ dự báo lạm phát sẽ quay trở lại trong năm 2013. “Có thể mức lạm phát trong năm 2013 không cao nhiều hơn so với năm 2012 nhưng việc đẩy lãi suất lên cao như hiện nay sẽ giúp ngân hàng có thêm nhiều vốn hơn để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường”, vị lãnh đạo này chia sẻ. Còn Giám đốc Ban vốn và kinh doanh vốn của một ngân hàng thương mại lớn trên thị 12 trường cho rằng, bên cạnh nguyên nhân tăng thêm nguồn vốn cho ngân hàng thì một nguyên nhân cũng khá quan trọng là do trước đây nhiều ngân hàng thương mại đã vay tái cấp vốn từ Ngân hàng Nhà nước, thì nay đã đến kỳ hạn trả nợ, vì vậy, ngân hàng phải tăng huy động để có nguồn tiền chi trả. Cùng với đó là những khó khăn của kinh tế vĩ mô, cầu tiêu dùng chưa khởi sắc, đã khiến nhiều khoản vay của doanh nghiệp không trả được đúng hạn, trong khi đó, ngân hàng vẫn phải trả cả gốc và lãi vay cho người gửi tiền cho nên các ngân hàng phải tăng huy động để trả cho người gửi tiền. ít chuyên gia cho rằng, ngân hàng đẩy mạnh huy động vốn trong thời điểm hiện nay cũng có thể xem như động thái đón trước tình hình để “chạy trước” dự trữ thanh khoản. Nghịch lý khó cho vay nhưng lại chạy đua huy động của các ngân hàng được TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia ngân hàng nhìn nhận, các ngân hàng đẩy mạnh huy động vốn nhằm giải quyết bài toán thanh khoản, một vấn đề mang tính cố hữu của hệ thống. Nhiều năm liên tiếp, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng luôn cao hơn tỷ lệ huy động vốn. Đồng thời, các ngân hàng cũng muốn cải thiện cơ cấu nguồn vốn huy động do lâu nay ngân hàng huy động vốn ngắn hạn là chủ yếu, trong khi cho vay trung, dài hạn là phần nhiều. Các ngân hàng đang tranh thủ thu hút nguồn vốn trung dài hạn trong bối cảnh lạm phát vẫn còn cao nên buộc phải đẩy lãi suất lên để thu hút vốn. Bên cạnh đó, các ngân hàng phải tính đến bài toán nhu cầu hút tiền mặt, hoặc giải ngân vào những tháng cuối năm do chu kỳ tăng. TS. Nguyễn Đức Thành, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) nhận định, chừng nào vấn đề nợ xấu chưa có hướng giải quyết rõ ràng, thì lãi suất vẫn neo ở mức cao. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng đã giảm lãi suất huy động xuống, không còn ngân hàng nào áp dụng lãi suất trên 13%/năm. Các thông kê cho thấy, thời gian qua tuy lãi suất giảm liên tục từ 14%/năm xuống còn 8% nhưng tổng số dư tiền gửi tại các tổ chức tín dụng vẫn tăng đều mỗi tháng và hiện có mức tăng khoảng 15% so với đầu năm. Việc giảm lãi suất, không gây ra nguy cơ tiền gửi được rút khỏi NH để chuyển sang các kênh đầu tư khác. Bởi đầu tư vào vàng, BĐS, chứng khoán đang gặp nhiều khó khăn. Còn ửi tiền tại ngân hàng đang là sự lựa chọn ưu tiên của người dân so với các kênh đầu tư khác. 13 6. Phân tích ưu điểm và hạn chế của các mô hình tổ chức của Ngân hàng trung ương? Với mô hình tổ chức hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thực sự là một Ngân hàng trung ương hay không? Tại sao? Mô hình tổ chức NHTW Mặc dù, NHTW là một định chế công quản của Nhà nước, nhưng mối quan hệ của nó với Chính phủ không hoàn toàn giống với các Bộ, Ngành khác của Nhà nước. Mối quan hệ này ở các nước khác nhau cũng không giống nhau. Tuỳ thuộc vào đặc điểm ra đời của NHTW, thể chế chính trị, nhu cầu của nền kinh tế cũng như truyền thống văn hoá của từng quốc gia mà NHTW có thể được tổ chức theo mô hình trực thuộc hay độc lập với Chính phủ 1 Mô hình NHTW độc lập với Chính phủ Mô hình NHTW độc lập với Chính phủ có thể khái quát qua sơ đồ sau: Quốc Hội Chính Phủ NHTW Theo mô hình này, quan hệ giữa NHTW và Chính phủ là quan hệ phối hợp. Chính phủ không được quyền can thiệp vào hoạt động của NHTW. NHTW dựa trên chỉ tiêu về tốc độ lạm phát do Quốc hội giao có toàn quyền quyết định về việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá, chính sách lãi suất mà không bị ảnh hưởng bởi áp lực chi tiêu của ngân sách hoặc các áp lực chính trị khác. Tuy nhiên, mức độ độc lập của mỗi NHTW đối với Chính phủ tuỳ thuộc vào cơ chế lập pháp và nhân sự của nó. Các NHTW theo mô hình này là Cục dự trữ liên bang Mỹ, NHTW Thụy Sỹ, Anh, Đức, Pháp, Nhật (NHTW Nhật trước đây, trực thuộc Bộ Tài chính, tức là thuộc Chính phủ, nhưng từ tháng 6/1998 với sự cải cách tài chính, NHTW Nhật tách ra độc lập với Chính phủ) và gần đây là NHTW Châu Âu (ECB). Xu hướng tổ chức NHTW theo mô hình này đang ngày càng mở rộng ở các nước phát triển. Thâm hụt ngân sách là căn bệnh kinh niên của các Chính phủ, do vậy nếu NHTW đặt dưới quyền chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ, khi thâm hụt ngân sách xảy ra, Chính phủ có thể buộc NHTW phát hành tiền để tài trợ. Điều này dễ dẫn đến nguy cơ lạm phát, gây tổn hại lớn cho xã hội. Khi NHTW trực thuộc Chính phủ, Chính phủ có thể vì mục tiêu kinh tế chính trị trước mắt, chẳng hạn nhằm gây ấn tượng trước kỳ bầu cử, khiến cho NHTW theo đuổi các mục tiêu ngắn hạn thay vì các mục tiêu, chính sách dài hạn. Mặt khác, theo quan điểm dân chủ cổ truyền của Châu Âu thì mọi chính sách phải được phục vụ cho quyền lợi của công chúng và phải được quyết định bởi Quốc hội - cơ quan đại diện cho quyền lực của toàn dân chứ không phải một nhóm các nhà chính trị. Chính vì vậy, NHTW có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế nên không thể đặt dưới quyền chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ mà phải do Quốc hội kiểm soát. Tuy nhiên, không phải tất cả các NHTW được tổ chức theo mô hình này đều được đảm bảo sự độc lập hoàn toàn với Chính phủ khi điều hành chính sách tiền tệ. Mức độ độc lập của mỗi NHTW phụ thuộc vào sự chi phối của người đứng đầu Nhà nước vào cơ chế lập pháp và nhân sự của NHTW. Tính độc lập của NHTW đối với Chính phủ thể hiện ở 3 yếu tố: nhân sự, tài chính, nghiệp vụ. Thực tế cho thấy, sự độc lập của NHTW đối với Chính phủ 14 càng cao thì các biến số vĩ mô (lạm phát, tăng trưởng kinh tế,…) sẽ càng vận động tích cực. Chính vì vậy, nhiều quốc gia đang cố gắng thực hiện mô hình NHTW độc lập với Chính phủ. Điểm bất lợi chủ yếu của mô hình này là khó kết hợp hài hoà giữa chính sách tiền tệ do NHTW thực hiện và chính sách tài khoá - do Chính phủ chi phối để quản lý vĩ mô nền kinh tế một cách có hiệu quả. Không có một mô hình nào có thể được coi là thích hợp cho mọi quốc gia. Việc lựa chọn mối quan hệ thích hợp giữa NHTW và Chính phủ phải tuỳ thuộc vào chế độ chính trị, yêu cầu phát triển của nền kinh tế, đặc điểm lịch sử và sự phát triển của hệ thống ngân hàng từng nước. Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó nó cũng bị ảnh hưởng bởi trào lưu của thế giới. 2 Mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ Mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ có thể khái quát qua sơ đồ sau Quốc hội Chính phủ NHTW Theo mô hình này, NHTW chịu sự chi phối trực tiếp của Chính phủ về nhân sự, về tài chính, đặc biệt là các quyết định có liên quan đến việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ. Các nước áp dụng mô hình này phần lớn là các nước Đông Á (Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo, Indonesia, Việt Nam,…). Theo mô hình này, Chính phủ có thể dễ dàng phối hợp chính sách tiền tệ của NHTW đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm đảm bảo mức độ và liều lượng tác động hiệu quả của tổng thể các chính sách đối với mục tiêu vĩ mô trong từng thời kỳ. Mô hình này được xem là phù hợp với yêu cầu cần tập trung quyền lực để kkhai thác tiềm năng xây dựng kinh tế trong thời kỳ tiền phát triển. Điểm hạn chế chủ yếu của mô hình này là NHTW sẽ mất đi sự chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Sự phụ thuộc vào Chính phủ có thể làm cho NHTW xa rời mục tiêu dài hạn của mình là ổn định giá trị tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sự lớn mạnh nhanh chóng của các nước thuộc nhóm NIEs như: Singapo, Hàn Quốc, Đài Loan, …nơi NHTW như một guồng máy Chính phủ là một bằng chứng có sức thuyết phục về sự phù hợp của mô hình tổ chức này đối với văn hóa truyền thống Á Đông. Như vậy, giữa hai mô hình tổ chức của NHTW có những điểm khác biệt nhất định. Trong mô hình tổ chức NHTW độc lập với Chính phủ, về mặt xã hội NHTW là một định chế còn về phía nền kinh tế, nó là tác nhân điều tiết, hướng dẫn và hoạch định. Trong mô hình tổ chức NHTW trực thuộc Chính phủ, về mặt xã hội NHTW là một cơ quan hay bộ phận cấu thành của bộ máy chính quyền, còn về phía nền kinh tế, nó là công cụ để thực hiện chính sách kinh tế của Chính phủ. Ở VN NHNN đã thực sự là NHTW hay ko? Trên thực tế, trách nhiệm, quyền hạn của NHNN hiện nay đã là NHTƯ rồi. Điều này đã được thể hiện rõ trong Luật Ngân hàng hiện hành: “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là 15 Ngân hàng Trung ương của nước CHXHCN Việt Nam”. Luật có rồi, nhưng cho quyền tự do, tách khỏi thành viên chính phủ thì người ta chưa cho phép. Luật khẳng định mới là điều kiện cần, để NHTƯ hoạt động độc lập, phải có thêm những yếu tố điều kiện đủ. Lập NHTƯ, Việt Nam phải có nghị quyết của Quốc hội hay bổ sung một điều khoản trong Luật Ngân hàng về quản lý, vận hành của NHTƯ. Theo đó, NHTƯ sẽ chịu sự giám sát từ Quốc hội, phải báo cáo Thường vụ Quốc hội hoặc Ủy ban Kinh tế Quốc hội hằng tháng, hằng quý và hằng năm. Ngoài ra, văn bản của Quốc hội cần khẳng định rõ: NHTƯ có quyền phát hành tiền tệ không giới hạn, đảm bảo mức tăng trưởng tín dụng mà Chính phủ cho phép. Như vậy, nếu Chính phủ quyết định mức tăng trưởng tín dụng không quá 20%, NHTƯ sẽ áp dụng quyết định này để tạo thanh khoản cho các NHTM với lãi suất 3 - 4%. Các NHTM có thể cho DN vay lại dưới 10%. Các DN có thể phục hồi sản xuất kinh doanh, thoát khỏi tình trạng đình đốn. Chuyển NHNN thành NHTƯ, việc điều hành tài chính, tiền tệ sẽ rõ ràng hơn. Cái được cho nền kinh tế là NHTƯ có quyền quyết định lưu lượng tiền tệ cho hoạt động của nền kinh tế. Nhưng không phải chỉ cần thay đổi tên gọi là tự nhiên nó có quyền hơn. Đổi thành NHTƯ mà nó vẫn là thành viên Chính phủ, là cơ quan ngang bộ thì không có gì khác biệt. Một yếu tố nữa chúng ta phải đối mặt khi chuyển đổi là vấn đề nhân sự. Lập NHTƯ đồng nghĩa với việc trao nhiều quyền điều hành cho người đứng đầu. Vì vậy, Thống đốc NHTƯ phải đứng ngoài các nhóm lợi ích. Nếu chọn người không khéo, giao quyền mà không giám sát được sẽ rất rủi ro cho nền kinh tế và càng nguy hiểm hơn khi người đứng đầu NHTƯ thuộc nhóm lợi ích nào đó. Mặt khác, khi lập ra NHTƯ, khả năng tiêu cực cũng rất lớn, bởi chỉ cần cho vay 100 tỷ đồng là bỏ túi 10 tỷ. Vì vậy, song song với lập NHTƯ, Việt Nam phải xây dựng được cơ chế để “trị” những vấn đề phát sinh từ tiêu cực. Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, chuyển đổi NHNN thành NHTƯ thực sự cần thiết. Nhưng quan trọng là phải định nghĩa rõ quyền hạn, trách nhiệm của NHTƯ. Thứ nhất, trách nhiệm của NHTƯ là cung ứng đầy đủ lưu lượng tiền tệ cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững. NHTƯ phải điều tiết làm sao để tiền không nhiều quá gây lạm phát, không ít quá để làm thiểu phát. Thứ hai, đi theo trách nhiệm là quyền hạn. NHTƯ có quyền phát hành giấy bạc, tín dụng vô hạn định. NHTƯ hoạt động độc lập và không chịu sự điều khiển của bất kỳ một tổ chức chính trị hay cơ quan lập pháp, hành pháp nào. Như vậy NHNN hiện nay chưa thực sự trở thành NHTW. 16 7. Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đến thị trường tài chính Việt Nam ? Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ là tác động mang tính hai chiều, song chủ yếu là tác động tiêu cực tới nền kinh tế toàn cầu cũng như của Việt Nam. Do sự hội nhập ngày càng sâu và rộng của nền kinh tế Việt Nam vào thế giới nên Việt Nam chịu những tác động nhất định, tuy không trực tiếp. 1.1. Tác động tới lĩnh vực xuất khẩu Đối với Việt Nam trước hết là về xuất khẩu sang các thị trường như Mỹ và châu Âu (chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu). Khủng hoảng kinh tế hiện đang lan sang châu Á. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu sụt từ 5% năm 2007 xuống 3,9% năm 2008 và 3% năm 2009. Suy thoái kinh tế sẽ kéo theo nhu cầu tiêu thụ sụt giảm trên phạm vi toàn cầu. Hiện nay Mỹ chiếm hơn 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng phần lớn sản phẩm của ta xuất khẩu sang Mỹ là hàng may mặc, giày dép và hàng thủy sản nên trước mắt chỉ những mặt hàng này gặp khó khăn. Dù Mỹ không gặp khủng hoảng, việc tập trung xuất khẩu một số mặt hàng nhất định sang Mỹ dễ gây va chạm với các nhà sản xuất bản xứ. Vấn đề của Việt Nam là phải nỗ lực chuyển dịch cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu theo hướng cao cấp hơn, đa dạng hơn. Trong thời gian truớc mắt, Việt Nam nên củng cố sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp để khi kinh tế Mỹ hồi phục sẽ triển khai chiến lược xuất khẩu với nhiều mặt hàng đa dạng hơn. 1.2. Tác động đến đầu tư trực tiếp Chi phí huy động vốn toàn cầu ngày càng tăng do biên độ tín dụng gia tăng. Chúng ta cần nhìn nhận sự khó khăn ở góc độ toàn cầu thay vì các quốc gia đầu tư vào Việt Nam, do bản thân các công ty mẹ là các tập đoàn đa quốc gia với hoạt động toàn cầu. Hơn nữa do nhu cầu tiêu thụ sụt giảm nên việc giải ngân FDI sẽ chậm lại đáng kể. Nhưng sự tác động này là cũng không đáng kể, do các nhà đầu tư chính ở Việt Nam là Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan... Ngay cả những công ty chế tạo của Mỹ nếu có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam cũng sẽ không vì cuộc khủng hoảng này mà đình hoãn kế hoạch đó. Kinh nghiệm của thập niên 1990 cho thấy kinh tế Nhật suy thoái hầu như không ảnh hưởng gì đến FDI của họ ở Trung Quốc và Việt Nam. Kinh nghiệm của Intel tại Việt Nam cũng cho thấy công ty này chậm triển khai kế hoạch đầu tư ở nước ta chủ yếu vì không bảo đảm được nguồn nhân lực có trình độ cao cần thiết. Thành ra, để tiếp tục tiếp nhận FDI từ Nhật, Mỹ và nhiều nước khác, Việt Nam cần hoàn thiện các điều kiện về nguồn nhân lực, cơ sở hậu cần, xây dựng công nghiệp phụ trợ... 1.3. Tác động thứ ba tới đầu tư gián tiếp Huy động vốn gián tiếp vào thị trường cổ phiếu Việt Nam trong thời gian tới sẽ rất khó khăn do các nhà đầu tư sẽ hướng tới các kênh đầu tư an toàn (flight to quality). Việc bán tháo chứng khoán khỏi thị trường Việt Nam là có thể, mặc dù xác suất không cao do tính thanh khoản và quy mô của thị trường. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường chứng khoán và quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn trong các năm tới. Việc huy động vốn thông qua thị trường vốn khó khăn trong khi thị trường tín dụng thắt chặt sẽ chặn dòng vốn và đẩy chi phí tài chính của các doanh nghiệp lên cao. Một khía cạnh khác của đầu tư gián tiếp là các giao dịch chênh lệch lãi suất (carry trade) nhằm hưởng chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền trong khi tỷ giá ổn định. Các giao dịch này thường mang tính đầu cơ ngắn hạn cao. Với lãi suất toàn cầu sụt giảm và chính sách tỷ giá neo VND vào USD của Việt Nam trong khi lãi suất VND vẫn ở mức cao, có thể dòng vốn này sẽ chảy vào trong một số giai đoạn nhất định nhằm khai thác cơ hội chênh lệch. Trong những trường hợp thoái vốn, dòng vốn này có thể tạo áp lực tỷ giá cho VND. 1.4. Tác động tới thị trường chứng khoán 17 Việc phát hành chứng khoán huy động vốn trên thị trường quốc tế cũng sẽ khó khăn và chi phí tăng cao. Chính phủ Việt Nam hiện có kế hoạch phát hành 1 tỷ USD và Vinashin có kế hoạch huy động 400 triệu USD trên thị trường quốc tế vào 2009. Chúng ta có thể thấy đây là thử thách đáng kể đối với Việt Nam. Nhiều nghiên cứu đă chứng minh rằng, trong quá trình thị trường tài chính có biến động mạnh ở một hoặc nhiều nước phát triển, các thị trường chứng khoán toàn cầu có độ liên thông lớn hơn rất nhiều so với thời kỳ ổn định. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Tháng 10/2007, thị trường chứng khoán Việt Nam chứng kiến một đợt sụt giảm khủng khiếp của VN - Index. Chỉ số xuống dốc liên tục, và có nhiều đợt điều chỉnh trong quá tŕnh đó. Thời gian này, Chính phủ cũng có nhiều chính sách tác động kể cả trực tiếp và gián tiếp. Bước sang năm 2008 thv́ì thị trường chứng khoán việt nam thể hiện rõ hơn liên tục lao dốc và tận cùng của chỉ số này có những lúc dưới mới 300 điểm. Tuy nhiên, điều đáng lo cho thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay là động thái bán ra nhiều hơn mua vào của nhà đầu tư nước ngoài. Tổng số tiền bị khối này rút ra khỏi thị trường do bán cổ phiếu và trái phiếu từ đầu tháng 10 đến nay là 932 tỷ đồng và khoảng 11.000 tỷ đồng đối với trái phiếu, kể từ đầu tháng 8 đến nay, góp phần không nhỏ cho của sự đi xuống của thị trường trong thời gian qua. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu có tác động tới thị trường chứng khoán Việt Nam từ đầu tháng 9/2008. Chỉ trong ba tháng rưỡi, nó đă xóa đi mọi thành quả phục hồi của thị trường trong giai đoạn hai tháng rưỡi trước đó, đưa thị trường về vạch xuất phát hồi giữa năm 2008. Sự suy thoái của thị trường chứng khoán đă kéo giá cổ phiếu của các mă cổ phiếu niêm yết trên cả 2 sàn HOSE và HASTC đồng loạt giảm mạnh. Giá trị vốn hóa của thị trường tính tới thời điểm ngày 30/06/2008 chỉ còn 222,843 tỷ đồng tương đương 35,61 % GDP. So với thời điểm 30/12/2007 mức vốn hóa thị trường của cả 2 sàn chứng khoán đă giảm xuống khá mạnh, mặc dù số lượng các công ty niêm yết vẫn tăng lên so với cuối năm 2007. Là mức giảm điểm của VN-Index tính tại thời điểm 30/06/2008 so với thời điểm 02/01/2008. Phiên giao dịch đầu năm VN - Index được thiết lập ở mức 921,07 điểm đến thới điểm ngày 30/06, VN - Index chỉ còn 399.40 điểm. Con số tương tự tại HASTC là Hastc-Index giảm 209.67 điểm tương đương 65,05% (Hastc Index – 30/06 : 112,67 điểm, 02/01: 322.34 điểm). Mức đáy của VN Index thiết lập vào phiên giao dịch ngày 20/06/2008 là 336,02 điểm. Nếu so sánh với mốc đỉnh của thị trường chứng khoán được thiết lập vào ngày 12/03/2007 là 1.170,37 điểm thv́ VNIndex mất đi 68,72 % giá trị. Có tới 103 mă trong 287 mă cổ phiếu niêm yết có giá thị trường nhỏ hơn giá trị sổ sách. Cụm từ “dưới giá trị thật được sử dụng thường xuyên trong thời gian thị trường sụt giảm, nó minh chứng cho việc giá cổ phiếu giao dịch đang ở dưới mức giá trị được tính toán dựa trên tài sản thực tế của doanh nghiệp. 91,01% là mức giảm lớn nhất của một mă cổ phiếu tại thời điểm 02/01/2008, mức giảm này thuộc về mă NTL của Công ty xây dựng phát triển đô thị Từ Liêm. Ngoài ra trên HOSE, trong giai đoạn này có tới 13 mă cổ phiếu có mức giảm trên 80%. Ngược lại không có mă cổ phiếu nào tăng giá trong giai đoạn này. Tại HASTC ngoài S99 có sự ảnh hưởng của việc chia tách mă giảm mạnh nhất là PVE với mức giảm 87,16%. Có 33 mă đạt mức giảm trên 80%. Duy nhất 1 mă tăng giá là DTC với mức tăng khiêm tốn 600 đ/cổ phiếu, tương đương 1,46%. Khối giao dịch toàn thị trường của HOSE đă có lúc chỉ đạt 1 triệu CP/phiên, so sánh với mức trung bv́nh 11,3 triệu CP/phiên vào thời điểm thị trường nóng trong tháng 11/2007.Điều này cho thấy tính thanh khoản của thị trường đă gần như đóng băng .Hiện tượng dư bán sàn ở hầu hết các mă chứng khoán đă khiến các nhà đầu tư e ngại với kênh 18 huy động vốn hiệu quả này. 1.5. Tác động tới thị trường tín dụng ngân hàng Tháng 9/2008, cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu bùng phát tại Mỹ và loang rộng trên thế giới với một loạt định chế tài chính lớn sụp đổ. Theo đánh giá của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa có mối liên hệ trực tiếp với thị trường tài chính thế giới nên mức độ ảnh hưởng không lớn. Phản ứng đầu tiên của các ngân hàng trong nước là rút bớt tiền gửi ở nước ngoài về, đóng bớt tài khoản thanh toán quốc tế. Các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam khẳng định tiếp tục duy trì hoạt động và đảm bảo an toàn. Một ảnh hưởng cụ thể từ cuộc khủng hoảng này được xét đến ở những biến động trên thị trường ngoại tệ và xu hướng tăng lên của tỷ giá USD/VND. Trong tháng 10, cầu ngoại tệ của các ngân hàng ngoại có dấu hiệu tăng mạnh, trong đó có nguyên nhân từ hoạt động chuyển vốn của nhà đầu tư nước ngoài. Một số ngân hàng nước ngoài cũng có hiện tượng bán lại nợ cho các ngân hàng nội địa… Ở những ảnh hưởng gián tiếp, cuộc khủng hoảng tài chính, và nối tiếp là suy thoái kinh tế toàn cầu, đẩy nhiều doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu trong nước vào khó khăn, dẫn đến quan hệ tín dụng với các ngân hàng thương mại bị ảnh hưởng nhất định. Chính sách tiền tệ từ định hướng thắt chặt và linh hoạt nửa đầu năm 2008 chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng những tháng cuối năm. Đi cùng với quá trình này là tần suất điều chỉnh các công cụ điều hành chưa từng có của Ngân hàng Nhà nước, tập trung ở các lãi suất chủ chốt, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và biên độ tỷ giá. Tính chung cả năm, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có 1 lần tăng trong tháng 2, 4 lần giảm trong 3 tháng cuối năm (2 lần giảm đối với dự trữ bằng ngoại tệ). Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc có 5 lần điều chỉnh (3 lần tăng, 2 lần giảm). Cơ chế điều hành tỷ giá cũng ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử. Biên độ có 3 lần nới rộng, từ +/-0,75% lên +/-3%; tỷ giá bình quân liên ngân hàng có 2 lần điều chỉnh mạnh, vào tháng 6 và cuối tháng 12. Một công cụ được Ngân hàng Nhà nước sử dụng đến, cũng là một sự kiện nổi bật trong năm 2008, là đợt phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc (17/3). Đi cùng với kế hoạch này, nhà điều hành đã 2 lần điều chỉnh lãi suất cho tín phiếu, 1 lần tăng từ 7,8% lên 13%, tháng 12 giảm xuống còn 4,5%. Thực hiện cơ chế cho vay theo trần lãi suất. Lần đầu tiên kể từ 1/12/2005, lãi suất cơ bản được điều chỉnh tăng, từ 8,25% lên 8,75% vào 1/2/2008. Đặc biệt, trong lần điều chỉnh ngày 19/5 (lên 12%), lãi suất cơ bản được trả lại đúng chức năng của nó, trở thành một cơ sở để xác định hành lang pháp lý cho lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại, thay vì xơ cứng và mờ nhạt trước đó. Cụ thể, ngoài sự điều chỉnh trên, Ngân hàng Nhà nước chính thức áp cơ chế lãi suất trần trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng (không quá 150% lãi suất cơ bản theo quy định của Bộ luật Dân sự). Từ thời điểm đó, hoạt động cho vay của các các ngân hàng có sự thay đổi căn bản; khái niệm “lãi suất cho vay tối đa” xuất hiện trên thị trường, đồng nghĩa với những mức lãi suất cho vay từ 22% - 25% trước đó được loại bỏ cùng với các loại phí thu thêm; trần lãi suất huy động thỏa thuận giữa các thành viên Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam có từ những năm trước cũng bị xóa bỏ.Chính sách thắt chặt tiền tệ đầu năm của Ngân hàng Nhà nước gắn liền với sự căng thẳng về thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Lãi suất huy động VND có kỳ biến động mạnh nhất từ trước tới nay. Cuộc chạy đua bùng phát trong tháng 5 và tạo những đỉnh điểm nóng sốt trong tháng 6. Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất ghi nhận kỷ lục “treo” tới 43%/năm; nhiều thành viên đồng loạt đẩy mức huy động trong dân cư 19 lên tới trên 19%/năm, cá biệt có trường hợp áp tới 20%/năm. Đó cũng là thời điểm mà hoạt động cho vay của nhiều ngân hàng thương mại cầm chừng, doanh nghiệp vay vốn khó khăn cả về lãi suất cao lẫn khả năng tiếp cận vốn, tín dụng tiêu dùng gần như bị cắt bỏ, tốc độ tăng trưởng tín dụng bước vào vùng thấp nhất trong năm (liên tục tăng dưới 1%/tháng; cả năm ước chỉ tăng khoảng 21% thay vì mức dự kiến khống chế 30%). Ngược lại, từ cuối tháng 7, cùng với cơ chế cho vay mới, sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước với nguồn vốn khả dụng của hệ thống tăng mạnh lên, lãi suất trên thị trường bắt đầu có đợt thoái trào. Đặc biệt từ tháng 9 đến cuối năm, gắn với những điều chỉnh các lãi suất chủ chốt của Ngân hàng Nhà nước, cả lãi suất huy động và cho vay dồn dập giảm; ít nhất có 8 đợt điều chỉnh trên diện rộng. Từ đỉnh điểm trên 19%/năm, lãi suất huy động VND rút về quanh mốc 8%/năm; lãi suất cho vay tối đa từ 21%/năm về còn 12,75%/năm. Chính thức cấp phép cho các ngân hàng mới. Sau cả thập kỷ, năm 2008 ghi nhận những giấy phép lập ngân hàng mới đầu tiên được cấp. Thị trường đón nhận 2 thành viên mới chính thức đi vào hoạt động là Ngân hàng Liên Việt và Ngân hàng Tiên Phong. Tháng 12, Ngân hàng Nhà nước cấp thêm giấy phép mới cho Ngân hàng Bảo Việt, dự kiến đi vào hoạt động đầu năm 2009. Đi cùng với những giấy phép trên, quyết định tạm ngừng cấp phép để sửa đổi quy chế thành lập và hoạt động của ngân hàng mới cũng là một sự kiện nổi bật trong năm 2008; phía sau đó là dư âm của cuộc đua thành lập ngân hàng trong năm 2007 với sự đổ vỡ của một số đề án và câu chuyện mua bán quyền mua cổ phiếu ngân hàng chưa thành lập… Cũng trong năm 2008, Ngân hàng Nhà nước chính thức cấp những giấy phép lập ngân hàng con 100% vốn ngoại đầu tiên cho HSBC, ANZ và Standard Chartered, mở đầu một thời kỳ mới cho hoạt động của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam: được đối xử bình đẳng hơn, cạnh tranh toàn diện hơn. Khó khăn của nền kinh tế, trong hoạt động của mỗi ngân hàng đang dần thể hiện ở xu hướng gia tăng của nợ xấu. Nếu trong năm 2007, đa số thành viên khối quốc doanh chỉ trên dưới 3%, khối cổ phần phổ biến dưới 2%, thì năm nay dự kiến sẽ có nhiều trường hợp có nợ xấu trên 5%. Cuối năm 2008, một số ngân hàng lớn đã chính thức công bố tỷ lệ nợ xấu thực tế hoặc mục tiêu kiểm soát từ 5% đến hơn 6%. Tuy nhiên, nhiều thành viên chưa có động lực để công bố và cập nhật số liệu liên quan. Dự kiến từ đầu năm 2009, bức tranh về nợ xấu của hệ thống ngân hàng sẽ rõ ràng hơn. Liên quan đến vấn đề nợ xấu, sự suy giảm mạnh của thị trường bất động sản và chứng khoán là những lo ngại nổi bật trong năm 2008, ảnh hưởng đến chất lượng và quan hệ tín dụng của các ngân hàng thương mại. Riêng làn sóng giải chấp chứng khoán cầm cố (thu hút sự chú ý của dư luận trong tháng 2 và 3) cũng là một điểm nổi bật trong năm khó khăn này. Nửa đầu năm gồng mình với khó khăn thanh khoản, lợi nhuận của nhiều ngân hàng bị ảnh hưởng nặng nề. Đây là năm đầu tiên trong khoảng 5 năm trở lại đây nhiều thành viên buộc phải điều chỉnh lại mục tiêu kinh doanh và lợi nhuận đặt ra từ đầu năm; chiến lược tăng tốc nhanh được chuyển sang thận trọng, ổn định và yếu tố an toàn, tăng cường quản trị được đặt lên hàng đầu. Với lãi suất huy động cao trong phần lớn thời gian của năm, tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp, tín dụng bất động sản và tiêu dùng thu hẹp, đầu tư tài chính khó khăn…, dự kiến lợi nhuận của nhiều ngân hàng thương mại năm 2008 sẽ không đạt mục tiêu đề ra, kể cả mục tiêu đã được điều chỉnh. Năm 2007, thị trường ngân hàng chứng kiến sự bùng nổ về tăng trưởng tín dụng (tăng 51,39%), trong đó tăng trưởng mạnh ở các nghiệp vụ cho vay đầu tư bất động sản, chứng khoán và tín dụng tiêu dùng. Bước sang năm 2008, đây là những nghiệp vụ chính bị siết chặt. Chính sách thắt chặt tiền tệ và khó khăn thanh khoản trong nửa đầu năm là nguyên 20 nhân đầu tiên khiến nhiều ngân hàng buộc phải “đóng cửa” đối với những nghiệp vụ này. Bên cạnh đó, sự sụt giảm nhanh và mạnh của thị trường chứng khoán, bất động sản dẫn đến nguy cơ rủi ro tín dụng, các ngân hàng thận trọng; lãi suất cho vay quá cao cũng là một rào cản đối với các nhu cầu. Riêng với tín dụng tiêu dùng, cơ chế cho vay theo lãi suất trần là một trở ngại, bởi cho vay loại này thường có lãi suất cao hơn. Đây cũng là một lý do để nhiều ý kiến đề xuất Ngân hàng Nhà nước mở lại cơ chế cho vay theo lãi suất thỏa thuận, bỏ cơ chế trần hiện nay. 1.6. Tác động tới ngoại hối Năm 2008 là năm đặc biệt của cơ chế điều hành tỷ giá cũng như những biến động trên thực tế. So với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND mua vào – bán ra của các ngân hàng thương mại đã tăng khoảng 9%, một mức tăng đột biến so với thay đổi quen thuộc quanh 1% những năm trước. Năm 2008 cũng là năm biên độ tỷ giá liên tiếp 3 lần nới rộng, 2 lần được tăng mạnh trực tiếp ở tỷ giá bình quân liên ngân hàng, những điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử. Tính chất đặc biệt của tỷ giá năm 2008 cũng thể hiện ở những biến động trái chiều. Trong những tháng đầu năm, thị trường có hiện tượng ứ đọng ngoại tệ, tỷ giá có lúc xuống “đáy” 15.300 VND; nhiều doanh nghiệp, ngành hàng xuất khẩu phải thông qua các hiệp hội yêu cầu ngân hàng đẩy mạnh mua vào USD, tháo gỡ khó khăn. Nhưng từ tháng 5, “cơn sốt” khan hiếm ngoại tệ lại diễn ra căng thẳng trên cả thị trường chính thức lẫn thị trường tự do. Nhiều doanh nghiệp phải mua với giá trên 18.000 VND, chi phí tài chính bị đẩy cao, ảnh hưởng đến lợi nhuận. Với sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước, cũng như năng lực dự trữ ngoại hối lần đầu tiên được công khai một cách chính thức, tỷ giá ổn định dần về cuối năm. Năm 2008 đã chứng kiến những biến động đảo chiều mạnh mẽ của tỷ giá USD/VND. Nếu trong quý I, VND liên tục tăng giá so với USD với mức tỷ giá trên thị trường tự do xuống thấp kỷ lục tới mức 15700 thấp hơn mức giá sàn của NHNN công bố từ 200 - 300 điểm. Sự giảm giá liên tục của USD trong giai đoạn này là do nguồn cung ngoại tệ dồi dào từ đầu tư gián tiếp nước ngoài ồ ạt đổ vào Việt nam, doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tệ chuyển đổi ra VND phục vụ sản xuất kinh doanh, trong khi đó nguồn cầu hạn chế do doanh nghiệp nhập khẩu chủ yếu vay ngoại tệ thanh toán hàng nhập thay vì mua ngoại tệ do tâm lý dự đoán tỷ giá USD/VND tiếp tục giảm trong thời gian tới. Đầu quý II, tỷ giá tăng nhẹ trở lại. Trước những lo ngại về tình hình kinh tế Việt nam: Cán cân thương mại thâm hụt nặng nề với mức kỷ lục 14,4 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng CPI đạt mức kỷ lục 3,96% trong tháng 5 và 25,2% so với cùng kỳ năm 2007, cùng với một loạt bài viết của các định chế tài chính toàn cầu về khả năng khủng hoảng tài chính, khủng hoảng cán cân thanh toán của Việt nam cũng như khả năng mất giá mạnh của VNĐ… Nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài bắt đầu rút vốn ồ ạt, các doanh nghiệp đã đẩy mạnh mua ngoại tệ thanh toán khoản vay trước hạn và chuẩn bị nguồn ngoại tệ thanh toán LC sắp đến hạn, cộng với tâm lý đầu cơ găm giữ ngoại tệ chờ tỷ giá tăng của cá nhân & doanh nghiệp khiến cung cầu USD mất cân đối trầm trọng, tỷ giá tăng mạnh liên tục từ cuối tháng 5 đến giữa tháng 6. Đứng trước tình hình đó, NHNN đã thực hiện các biện pháp can thiệp đồng bộ và quyết liệt vào thị trường ngoại hối bao gồm công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD, bán ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các đại lý thu đổi ngoại tệ, cấm mua, bán USD thông qua ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng, kiểm soát nhập khẩu các mặt hàng không thiết yếu đặc biệt ô tô và hàng xa xỉ... giúp tỷ giá sụt giảm và bình ổn trở lại ngay sau đó. Năm 2008 còn chứng kiến một đợt dậy sóng nữa của tỷ giá USD/VND đợt tháng 10 và tháng 11 do nhu cầu mua ngoại tệ chuyển về nước của các NĐTNN nhằm đảm bảo thanh khoản của tổ 21 chức tại chính quốc trong giai đoạn cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn tại Mỹ bắt đầu lan rộng và trở thành cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến hàng loạt các ngân hàng nước ngoài điêu đứng. Về kiều hối với doanh số 8-10 tỷ USD/năm là một nguồn thu rất quan trọng của Việt Nam. Do một phần lớn nguồn kiều hối từ Mỹ nên chắc chắn nguồn này cũng giảm sút nhất định. Các tác động trên kết hợp với khó khăn hiện tại trong nước sẽ tạo nên một tác động kép và làm cho tình hình thêm phức tạp. 22 8. Thị trường tài chính là gì ? Hãy phân tích các chức năng của thị trường tài chính ? * Khái niệm. Thị trường hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch, mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ. Với các đối tượng và phương thức hoạt động khác nhau nhiều loại thị trường được hình thành và phát triển song hành với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường: Thị trường tư liệu sản xuất; Thị trường tư liệu sinh hoạt; Thị trường thông tin; Thị trường lao động; Thị trường tài chính; … Vậy thị trường tài chính là gì? Có những đặc trưng nào khác biệt so với các thị trường khác trong hệ thống kinh tế thị trường thống nhất? Trong nền kinh tế thị trường, luôn nảy sinh hiện tượng có những chủ thể có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn rỗi lại không có cơ hội đầu tư. Từ nhu cầu khách quan này đã hình thành một cơ chế chuyển vốn từ những người có vốn nhàn rỗi sang những người cần vốn kinh doanh theo các nguyên tắc thị trường. Từ đó, tạo nên một loại hình thị trường mới được gọi là thị trường tài chính (TTTC). Dưới các góc độ nghiên cứu và tiếp cận khác nhau có thể có những khái niệm về TTTC khác nhau Các quan điểm về TTTC : - Thị trường tài chính là nơi diễn ra quá trình dịch chuyển vốn tiền tệ từ chủ thể cung vốn sang chủ thể cầu vốn . TTTC - là thị trường trong đó các nguồn tài chính được dịch chuyển từ người thừa vốn sang người thiếu vốn, là tổng hoà của các mối quan hệ cung cầu về vốn (1). Dù tiếp cận ở những góc độ khác nhau thì các khái niệm về thị trường tài chính đều có điểm chung thống nhất nói lên bản chất của nó, đó là, TTTC là tổng hoà của các mối quan hệ cung cầu về vốn tiền tệ, giá cả, phương thức giao dịch, phương thức thanh toán. Hoạt động của thị trường tài chính có những hiệu ứng trực tiếp tới mọi hoạt động của đời sống kinh tế xã hội. Từ đó có thể khái quát về TTTC như sau: Thị trường tài chính là loại thị trường thực hiện việc chuyển giao các nguồn vốn từ người cung vốn sang người cầu vốn theo các nguyên tắc thị trường, là tổng hoà của các mối quan hệ hàng hoá-vốn tiền tệ, cung cầu, giá cả phương thức giao dịch và phương thức thanh toán. * Chức năng : Chức năng của thị trường tài chính là khả năng khách quan phát huy tác dụng của nó trong đời sống kinh tế. Hiểu theo nghĩa đó, TTTC có các chức năng cơ bản sau: - Dẫn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu cho phát triển kinh tế. +Đây là chức năng cơ bản và chủ yếu nhất, biểu hiện bản chất của TTTC. Với chức năng này, TTTC hoạt động như những kênh dẫn vốn từ người cung vốn sang người cầu vốn. Chính nhờ chức năng này mà các nguồn tiền tiết kiệm của dân chúng, của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội được huy động, tập trung để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế. Thật vậy, thông qua hoạt động của các chủ thể cầu vốn (phát hành các công cụ tài chính trên thị trường sơ cấp) và hoạt động của các chủ thể cung vốn- những người có vốn nhàn rỗi (mua các công cụ tài chính được phát hành), các dòng vốn tiền tệ được dịch chuyển từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn đáp ứng nhu cầu vốn như Nhà nước, doanh nghiệp… Từ đó, thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển. + ở kênh tài chính trực tiếp những người cung vốn trực tiếp chuyển vốn cho các chủ thể cầu vốn bằng cách mua các công cụ tài chính (còn được gọi là tài sản tài chính) trực tiếp từ các chủ thể cầu vốn phát hành thông qua thị trường tài chính. Như vậy TTTC đã thực hiện chức năng chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn và bằng phương thức chuyển vốn này, quá trình luân chuyển vốn được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả, các nguồn vốn tiết kiệm lớn, nhỏ của nhà đầu tư được tập trung với thời hạn và chi phí hợp lý nhất đem lại lợi ích cho cả nhà đầu tư và cả chủ thể cầu vốn, từ đó, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 23 - Tạo tính thanh khoản cho các tài sản tài chính. TTTC bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Trên thị trường thứ cấp các nhà đầu tư có thể bán lại các tài sản tài chính mà họ đã mua ở thị trường sơ cấp. Đây chính là chức năng của TTTC trong việc tạo tính thanh khoản cho các sản phẩm tài chính. Chức năng rất quan trọng bởi lẽ nhờ có chức năng này mà hoạt động của thị trường trở nên hấp dẫn, giúp các nhà đầu tư di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác một cách dễ dàng hoặc rút khỏi thị trường tránh rủi ro. Mặt khác thông qua chức năng này mà nền kinh tế hình thành một lĩnh vực kinh doanh mới, mang tính trí tuệ cao, tạo thêm việc làm cho xã hội, giảm thất nghiệp. - Cung cấp thông tin, hình thành giá cả của các tài sản tài chính. Các tài sản tài chính lưu thông trên thị trường có hai tác dụng quan trọng: Thứ nhất, chuyển vốn từ chủ thể cung vốn sang chủ thể cầu vốn để đầu tư vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh.Thứ hai, chuyển vốn theo một phương thức sao cho các rủi ro không tránh khỏi liên quan đến dòng tiền đầu tư vào các tài sản đó, được phân bố lại một cách hợp lý nhất giữa người gọi vốn và người cung vốn. Vì vậy, giao dịch, phát hành, mua đi bán lại các công cụ tài chính đòi hỏi phải có được các thông tin cần thiết về tổ chức phát hành các tài sản đó một cách đầy đủ chính xác kịp thời và các thông tin khác liên quan đến đời sống kinh tế của tổ chức phát hành cũng như các thông tin về quan hệ cung cầu, giá cả,… Thị trường tài chính chỉ có thể hoạt động hiệu quả khi cung cấp đầy đủ kịp thời các thông tin về các chủ thể tham gia, đặc biệt là chủ thể phát hành các thông tin liên quan đến giá trị đích thực hay giá trị nội tại của của các tài sản tài chính về triển vọng thu nhập cũng như các rủi ro có thể gặp phải đối với các tài này trong tương lai. Để có thể thực hiện chức năng cung cấp thông tin thị trường tài chính phải chịu sự quản lý và giám sát bởi các cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức liên quan theo pháp luậthoặc theo quy chế quản lý thông tin do các cơ quan quản lý thị trường hay bản thân một thị trường cụ thể ban hành. Thông tin được cung cấp công khai minh bạch đầy đủ chính xác trên thị trường là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định một thị trường tài chính trở thành thị tường hiệu quả. Thị trường đạt hiệu quả về thông tin, đến luợt mình, sẽ làm cơ sở cho quá trình hình thành giá cả của các tài sản tài chính một cách khách quan, công bằng, đảm bảo cho các tổ chức huy động vốn đạt được mục tiêu huy động vốn của mình còn nhà đầu tư thì thu được lợi nhuận mong đợi tránh được rủi ro. - Đánh giá giá trị doanh nghiệp và nền kinh tế Thông qua giao dịch trên thị trường giá cả của các tài sản tài chính mà chủ yếu là cổ phiếu của doanh nghiệp phát hành được hình thành. Nói cách khác, giá trị thị trường của doanh nghiệp được xác định. Nhìn chung, như một quy luật, doanh nghiệp tăng trưởng ổn định có tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu cao sẽ được thị trường định giá cao và ngược lại. Từ đây tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh giúp các doanh nghiệp làm ăn tuân thủ luật pháp đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh doanh của mình. Đối với toàn bộ nền kinh tế, thông tin trên thị trường chứng khoán thường phản ánh tức thì sức khoẻ của nền kinh tế thông qua sự thay đổi của các chỉ số chứng khoán - các chỉ số biểu hiện mức giá trung bình của các tài sản tài chính do các doanh nghiệp trong nền kinh tế phát hành để huy động vốn. Khi thị trường đạt hiệu quả về thông tin, một sự tăng lên trong dài hạn của các chỉ số chứng khoán được công bố trên thị trường phản ánh một xu thế tăng trưởng của nền kinh tế và ngược lại. 24 9. Trình bày nghiệp vụ tái chiết khấu của Ngân hàng trung ương? Việc thay đổi lãi suất cho vay chiết khấu và tái chiết khấu của NHTW có ảnh hưởng như thế nào đến khối lượng tiền cung ứng? A, Trình bày nghiệp vụ tái chiết khấu của Ngân hàng trung ương Nhằm điều hành chính sách tiền tệ Ngân hàng nhà nước thường sử dụng một số các công cụ chính trong đó nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu các giấy tờ có giá trên thị trường mở là một trong những công cụ cơ bản. Nội dung nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu: 1.Khái niệm: Chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá (GTCG) của các ngân hàng là nghiệp vụ NHNN mua các GTCG còn thời hạn thanh toán, mà các GTCG này được các ngân hàng mua trên thị trường sơ cấp hoặc mua lại trên thị trường thứ cấp. Sau đây gọi tắt là nghiệp vụ chiết khấu. 2. Đối tượng & điều kiện được tham gia nghiệp vụ chiết khấu: - Các ngân hàng được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng đáp ứng đủu các điều kiện sau: - Có tài khoản tiền gửi và lưu ký GTCG tại Sở Giao dịch NHNN; - Có đăng ký chữ ký của lãnh đạo và giới thiệu các cán bộ thực hiện nghiệp vụ chiết khấu với NHNN. 3. Lãi suất chiết khấu: Là lãi suất do NHNN xác định và công bố trong từng thời kỳ. 4. Hình thức chiết khấu: a. Chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của GTCG (Thời hạn còn lại của GTCG tối đa không quá 90 ngày). b. Chiết khấu có kỳ hạn (thời hạn còn lại của GTCG lớn hơn thời hạn giao dịch). 5. Các loại GTCG được chiết khấu: a. Tín phiếu NHNN, Tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình TW, công trái (Được sử dụng trong cả hai hình thức chiết khấu). b. Trái phiếu đầu tư do Quỹ Hỗ trợ phát triển phát hành, Trái phiếu chính quyền địa phương do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội, Tp Hồ Chí Minh phát hành (được sử dụng trong hình thức chiết khấu có kỳ hạn). 6. Phương thức chiết khấu: - Phương thức trực tiếp: Các ngân hàng đem “Giấy đề nghị chiết khấu GTCG” trực tiếp đến Sở Giao dịch NHNN. - Phương thức gián tiếp: Các ngân hàng giao dịch thông qua mạng vi tính hoặc qua Fax tới Sở Giao dịch NHNN (trường hợp qua Fax, gửi bản chính theo đường bưu điện). 7. Quy trình nghiệp vụ: 7.1. Ngân hàng muốn tham gia nghiệp vụ chiết khấu với NHNN thực hiện các công việc sau: - Đăng ký mẫu chữ ký lãnh đạo và nhân viên tham gia nghiệp vụ chiết khấu với NHNN; - Thực hiện lưu ký GTCG tại Sở Giao dịch NHNN. - Đề nghị NHNN phân bổ hạn mức chiết khấu GTCG. 7.2. Quy trình của giao dịch chiết khấu: - Ngân hàng gửi Giấy đề nghị chiết khấu GTCG (khi ngân hàng còn hạn mức chiết khấu). - Sở Giao dịch nhận Hồ sơ đề nghị chiết khấu; Thông báo chấp nhận hoặc không chấp mhận chiết khấu. - Ngân hàng được chấp nhận chiết khấu có kỳ hạn gửi cam kết mua lại theo số liệu NHNN thông báo tại Thông báo chấp nhận chiết khấu. 25 Tổng quan thị trường tài chínhCơ sở hình thành thị trường tài chính là mối quan hệ giữa các thị trường cơ bản: Thị trường tài chính, thị trường hàng hóa dịch vụ, thị trường các yếu tố sản xuất có tác động qua lại với 2 chủ thể nhà sản xuất và người tiêu dùng Sự phát triển của các hình thái thị trường tài chính
Bạnđang xem bài viết thị trường tài chính khái niệm chức năng vai trò cấu trúc và thực trạng 1. Khái niệm thị trường tài chínhThị trường tài chính là thị trường giao dịch các loại tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu,…Thành phần tham gia giao dịch trên thị trường tài chính bao gồm hộ gia đình, doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian và Chính phủ là những người tham gia mua và bán các loại tài sản tài chính-hàng hóa của thị trường tài chínhkhóa học kế toán online
Điều kiện cần thiết để hình thành thị trường tài chính
Các yếu tố cơ bản của thị trường tài chính:Bao gồm 3 yếu tố cơ bản
2. Chức năng của thị trường tài chính
3. Vai trò của thị trường tài chính
4. Cấu trúc thị trường tài chính Việt Nam hiện nayCăn cứ vào thời gian sử dụng nguồn tài chính huy động được
Mục lục
Cơ sở khách quan cho sự ra đờiSửa đổiThị trường tài chính là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường, sự xuất hiện và tồn tại của thị trường này xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc giải quyết mẫu thuận giữa nhu cầu và khả năng cung ứng vốn lớn trong nền kinh tế phát triển. Trong nền kinh tế luôn tồn tại hai trạng thái trái ngược nhau giữa một bên là nhu cầu và một bên là khả năng về vốn. Mâu thuẫn này ban đầu được giải quyết thông qua hoạt động của ngân hàng với vai trò trung gian trong quan hệ vay mượn giữa người có vốn và người cần vốn. Khi kinh tế hàng hóa phát triển cao, nhiều hình thức huy động vốn mới linh hoạt hơn nảy sinh và phát triển, góp phần tốt hơn vào việc giải quyết cân đối giữa cung và cầu về các nguồn lực tài chính trong xã hội, làm xuất hiện các công cụ huy động vốn như trái phiếu, cổ phiếu của các doanh nghiệp, trái phiếu của chính phủ... - Đó là những loại giấy tờ có giá trị, gọi chung là các loại chứng khoán. Và từ đó xuất hiện nhu cầu mua bán, chuyển nhượng giữa các chủ sở hữu khác nhau các loại chứng khoán. Điều này làm xuất hiện một loại thị trường để cân đối cung cầu về vốn trong nền kinh tế là thị trường tài chính. Do đó, Cơ sở khách quan cho sự ra đời của thị trường tài chính là sự giải quyết mẫu thuẫn giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế thông qua các công cụ tài chính đặc biệt là các loại chứng khoán, làm nảy sinh nhu cầu mua bán, chuyển nhượng chứng khoán giữa các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Chính sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ mà đỉnh cao của nó là kinh tế thị trường làm nảy sinh một loại thị trường mới là thị trường tài chính. Thị trường tài chính hình thành và phát triển gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã làm xuất hiện những chủ thể cần nguồn tài chính và những người có khả năng cung ứng nguồn tài chính. Khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì các hoạt động về phát hành và mua bán lại các chứng khoán cũng phát triển, hình thành một thị trường riêng nhằm làm cho cung cầu nguồn tài chính gặp nhau dễ dàng và thuận lợi hơn, đó là thị trường tài chính. Điều kiện cần thiết hình thành thị trường tài chínhSửa đổi
Mỗi quốc gia đều có hệ thống tài chính nhằm luân chuyển vốn từ nới có hiệu quả sử dụng thấp sang nơi có hiệu quả sử dụng cao hơn, từ đó gia tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh nhận chứng nhận AUN - QA cho hai chương trình Tài chính và Ngân hàng Tích lũy và sử dụng vốn hiệu quả là nguồn gốc thịnh vượng của mỗi gia đình, doanh nghiệp và quốc gia. Ngành Tài chính Ngân hàng là gì? Tài chính ngân hàng là ngành học thuộc khối kinh doanh quản lý, nghiên cứu cách thức tổ chức, vận hành, quản trị, thiết kế và cung cấp sản phẩm, dịch vụ của các định chế tài chính (đặc biệt là các ngân hàng); nghiên cứu quá trình giao dịch và vận hành của các thị trường tài chính, sự vận động và thay đổi giá của các tài sản tài chính; cách thức quản lý và ra các quyết định tài chính của các chủ thể (chính phủ, doanh nghiệp, cá nhân). Nói một cách ngắn gọn hơn đây là ngành học nghiên cứu về sự vận động và cách thức gia tăng giá trị của dòng tiền. Bạn có biết: - Tại Việt Nam, chỉ có 44 ngân hàng thương mại, nhưng các ngân hàng có tới hơn 11.000 chi nhánh và phòng giao dịch, thu hút hơn 300.000 lao động, tổng tài sản đạt 12 triệu tỷ đồng ( tương đương 520 tỷ USD, bằng khoảng 200% GDP), tín dụng ngân hàng đang là kênh huy động vốn quan trọng nhất của nền kinh tế. Hàng ngay đi qua Vietcombank, Viettinbank, BIDV, ACB, Sacombank, Techcombank, VP Bank …. bạn nhìn thấy hình ảnh của các trụ sở khang trang bề thế, đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp. Vậy các ngân hàng huy động vốn và cho vay như thế nào ? Thiết kế và cung cấp những sản phẩm và dịch vụ gì ? Quản trị, điều hành thế nào từ cấp chi nhánh và toàn hệ thống ? - Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc trong 20 năm qua, giá trị vốn hóa của thị trường cổ phiếu đã đạt khoảng 250 tỷ USD (tương đương quy mô GDP năm 2020). Vậy TTCK được vận hành và giao dịch thế nào ? Các tổ chức như công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ cung cấp các dịch vụ gì ? Các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân sẽ phân tích và định giá cổ phiếu, trái phiếu … như thế nào để ra quyết định đầu tư ? Sinh viên Khoa Tài chính tại Chung kết cuộc thi "Đấu trường Tài chính - FBAC X" - Khi cần mua một chiếc điện thoại đi động mới, chắc chắn nhiều bạn sẽ tìm đến các cửa hàng của Thế giới di động (TGDĐ), một trong những nhà phân phối thiết bị di động và bán lẻ hàng đầu tại Việt nam, với 1000 siêu thị khắp cả nước, giá trị công ty được định theo thị trường vào khoảng gần 2 tỷ USD. Nhưng 15 năm trước họ chỉ mới bắt đầu khởi nghiệp với 3 - 4 cửa hàng điện thoại. Vậy họ đã huy động vốn, đầu tư và quản trị tài chính như thế nào để đạt mục tiêu tăng trưởng, lợi nhuận và an toàn trong hoạt động của công ty. Đây là một trong 2000 công ty đang niêm yết và đăng ký giao dịch trên TTCK Việt Nam, ngoài ra còn 700.000 doanh nghiệp với quy mô lớn nhỏ khác nhau đang rất cần chất xám của các chuyên gia tài chính. - Trong cuộc đời mỗi chúng ta, ở từng giai đoạn bạn sẽ có nhu cầu sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính khác nhau như: tiết kiệm, vay mua nhà, thanh toán, thẻ tín dụng, bảo hiểm, đầu tư chứng khoán, đầu tư bất động sản, vay tiêu dùng … và vô số các nhu cầu tài chính khác. Vậy làm sao để mỗi cá nhân, hộ gia đình sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính ngân hàng một cách hiệu quả nhất ? Trên đây là những câu hỏi những chủ đề mà bạn sẽ thường gặp khi học hay làm việc trong ngành tài chính ngân hàng. Ngoài ra còn có rất nhiều các kiến thức và chủ đề khác mà bạn có thể tìm hiểu liên quan đến lĩnh vực vốn rất rộng này. Phòng thực hành mô phỏng ngân hàng Mục tiêu đào tạo: • Ngành Tài chính Ngân hàng tại Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM có 2 chuyên ngành: chuyên ngành Tài chính (khoatc.buh.edu.vn) và chuyên ngành Ngân hàng (khoanh.buh.edu.vn). • Sinh viên Ngành Tài chính - Ngân hàng được đào tạo và trang bị: - Kiến thức cơ bản về toán, tin học và khoa học xã hội; Kiến thức nền tảng, hiện đại về kinh tế, kinh doanh, quản lý; Kiến thức chuyên sâu về kinh doanh ngân hàng, đầu tư tài chính, tài chính doanh nghiệp. - Kỹ năng thực hành nghề nghiệp trong lĩnh vực tài chính ngân hàng như: kỹ năng phân tích, dự báo liên quan đến tài chính; kỹ năng đề xuất và ra quyết định trong quản trị tài chính doanh nghiệp, đầu tư tài chính, cấp tín dụng; kỹ năng thiết kế và tư vấn các sản phẩm dịch vụ, tài chính ngân hàng. - Kỹ năng sử dụng ngoại ngữ, tin học trong công việc và các kỹ năng cá nhân như: kỹ năng cá nhân như: giao tiếp, thuyết trình, làm việc nhóm, thuyết phục, kỹ năng tự nghiên cứu, tự học - Tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, tính kỷ luật trong công việc, tinh thần học hỏi, cầu tiến và các phẩm chất cá nhân khác • Sinh viên tốt nghiệp có năng lực nghiên cứu, hoạch định, thực thi và giải quyết các vấn đề chuyên môn liên quan đến lĩnh vực tài chính ngân hàng trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Toạ đàm lấy ý kiến chuyên gia và nhà tuyển dụng trong việc xây dựng chương trình đào tạo ngành Tài chính - Ngân hàng Cơ hội nghề nghiệp: Sinh viên tốt nghiệp ngành Tài chính - Ngân hàng thể đảm nhiệm nhiều vị trí công việc khác nhau, tiêu biểu như một số nhóm vị trị công việc như sau: • Nhóm 1: Chuyên viên tại hội sở và chi nhánh các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng ở bộ phận chuyên môn như: Khách hàng doanh nghiệp, Khách hàng cá nhân, Kinh doanh và Phát triển thẻ, Quản lý rủi ro, Kinh doanh tiền tệ, Thanh toán quốc tế, Kiểm soát nội bộ, Thẩm định và phê duyệt tín dụng, Đầu tư … và các bộ phận hỗ trợ khác. • Nhóm 2 : Chuyên viên của các bộ phận như: Môi giới chứng khoán, Bảo lãnh phát hành chứng khoán, Tư vấn đầu tư, Phân tích đầu tư, Tư vấn mua bán và sáp nhập, Tư vấn tài chính doanh nghiệp, Tư vấn thuế … tại các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty tư vấn tài chính, công ty kiểm toán … • Nhóm 3: Chuyên viên tại các bộ phận tài chính, kế toán, đầu tư, quản lý dự án, quan hệ nhà đầu tư, kiểm soát nội bộ … tại các doanh nghiệp thuộc mọi ngành nghề lĩnh vực kinh doanh. • Nhóm 4: Cán bộ hoạch định chính sách và quản lý nhà nước về tài chính – tiền tệ tại các cơ quan Nhà nước; giảng viên, nghiên cứu viên tại các Trường cao đẳng đại học, viện nghiên cứu; khởi nghiệp kinh doanh. Các môn học tiêu biểu: Các tố chất phù hợp với ngành: - Có sự yêu thích đối với lĩnh vực kinh tế, tài chính - Có khả năng tính toán, tư duy logic, trí nhớ tốt - Cẩn trọng, chính xác, có khả năng tập trung cao. - Trung thực và có tính tuân thủ cao - Bên cạnh nền tảng toán học và logic, những học sinh có kiến thức xã hội, ngoại ngữ, khả năng giao tiếp và diễn đạt tốt cũng có nhiều thuận lợi khi học và làm việc ở lĩnh vực này. Tại sao bạn nên học Tài chính Ngân hàng tại BUH? - Tài chính Ngân hàng là ngành đào tạo truyền thống và danh tiếng nhất của BUH với lịch sử gần 45 năm; tạo thành cộng đồng cựu sinh viên BUH rộng lớn và thành đạt trải khắp các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư, doanh nghiệp, trường đại học… - Chương trình đào tạo chuyên ngành Tài chính và chuyên Ngành Ngân hàng được kiểm định theo bộ tiêu chuẩn AUN - QA của Hiệp hội đại học Đông Nam Á - Đội ngũ giảng viên hùng hậu, là các giảng viên, nhà khoa học, chuyên gia giàu kinh nghiệm. - Chương trình đào tạo hiện đại, cập nhật chương trình đào tạo của các đại học uy tín trên thế giới và chú trọng thực tiễn với phòng đào tạo mô phỏng ứng dụng ngân hàng hiện đại, Phòng dữ liệu tài chính Eramus – Thomson Reuters Datastream, giảng viên – báo cáo viên từ các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán. - Mối quan hệ sâu rộng với các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, tổ chức tài chính tạo nên cơ hội tiếp cận thực tế và cơ hội việc làm phòng phú. - Các CLB học thuật và các hoạt động phong phú như: CLB Sinh viên Tài chính (BUSF), CLB Career Link Club, Cuộc thi Đấu trường Tài chính… Phương thức tuyển sinh: Năm 2020, Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM tuyển sinh Ngành Tài chính Ngân hàng ở 3 chương trình cụ thể như sau:
(**) Phương thức Ưu tiên xét tuyển và xét học bạ đã hết hạn nộp hồ sơ từ ngày 20.8.2020(*) Sau khi trúng Chương trình đại học chính quy chất lượng cao hoặc Chương trình đại học chính quy quốc tế song bằng tuyển sinh viên sẽ được chọn ngành theo nguyên vọng. (***) Thí sinh có thể điều chỉnh bổ sung nguyện vọng xét tuyển theo phương thức dựa trên kết quả thi tốt nghiệp THPT từ 19.9 đến 27.9.2020 (***) Thí sinh nộp hồ sơ xét tuyển theo kết quả thi ĐGNL do ĐHQG TP. Hồ Chí Minh tổ chức từ ngày 06.9 đến hết ngày 08.9.2020 Thông tin liên hệ: Phòng Tư vấn tuyển sinh & Phát triển thương hiệu Địa chỉ: Tầng trệt, 36 Tôn Thất Đạm, Phường Nguyễn Thái Bình, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh Điện thoại: 028.38211704 Hotline:0888.35.34.88 Website: http://tuyensinh.buh.edu.vn/ Email: Facebook: https://www.facebook.com/tuyensinhdaihocnganhang/ Youtube: BUH Channel
TTO - Bất cứ quốc gia nào, sự phát triển đều dựa vào hai cấu phần căn bản, đó là nền kinh tế thực thông qua sản xuất, kinh doanh... và nền kinh tế tài chính tiền tệ thông qua quá trình phân phối chu chuyển vốn trong thị trường, xã hội. |