Tại sao gatt phải thay đổi thành wto

1. Nội dung của tự vệ trong thương mại quốc tế

1.1. Tự vệ trong khung khổ các qui định của WTO

Tự vệ trong khung khổ các qui định của WTO phải thuân thủ một số nguyên tắc nhất định, cụ thể như sau:

* Nguyên tắc không phân biệt đối xử

Đây là nguyên tắc cơ bản của WTO. Tự vệ thương mại cũng cần tuân thủ nguyên tắc này; theo đó các biện pháp tự vệ sẽ được áp dụng với mọi sản phẩm nhập khẩu không phân biệt nguồn gốc xuất xứ hàng hóa. Đối tượng điều tra để áp dụng tự vệ thương mại cũng phải là toàn bộ loại hàng hóa nhập khẩu chứ không phải chỉ là hàng hóa (nào đó) từ một nước cụ thể. Hiệp định về tự vệ thương mại của WTO đưa ra một ngoại lệ yêu cầu: Nước nhập khẩu khi áp dụng biện pháp tự vệ dưới hình thức hạn chế số lượng thì phải tham khảo ý kiến của các nước thành viên khác có lợi ích đáng kể liên quan đến hàng hóa bị áp dụng.

* Nguyên tắc áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại trong phạm vi và mức độ cần thiết

 Mục đích chính của tự vệ thương mại là để giúp nền công nghiệp trong nước có thời gian để điều chỉnh cơ cấu, khắc phục thiệt hại và đứng vững trong cuộc cạnh tranh gay gắt với hàng hóa nước ngoài. Do vậy nước nhập khẩu chỉ được áp dụng tự vệ thương mại ở giới hạn cần thiết và chỉ nhằm để ngăn cản hay khắc phục những thiệt hại do lượng nhập khẩu tăng đột biến gây ra và nhằm tạo thuận lợi cho việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nội địa chứ không phải nhằm bất kỳ mục đích nào khác. Áp dụng tự vệ thương mại không phải để hạn chế cạnh tranh, do vậy nó chỉ được áp dụng trong một thời gian nhất định. Theo WTO, thời hạn áp dụng tối đa là 4 năm. Trong trường hợp cần thiết, có thể được gia hạn thêm một lần nhưng không quá 4 năm tiếp theo. Đối với các nước đang phát triển, có thể được ưu đãi gia hạn với thời gian không quá 6 năm tiếp theo. Tuy nhiên, ngay cả trong thời hạn áp dụng, nếu những điều kiện cho sự tồn tại của nó không còn nữa thì nước áp dụng tự vệ thương mại phải dỡ bỏ ngay hoặc đình chỉ biện pháp tự vệ đang được áp dụng với hàng hóa đó. Trong thời gian áp dụng tự vệ thương mại nước nhập khẩu phải tiến hành rà soát các biện pháp tự vệ để đảm bảo quyền lợi cho nước bị áp dụng đồng thời cũng để cho việc luân chuyển hàng hóa diễn ra bình thường.

* Nguyên tắc đảm bảo bồi thường tổn thất thương mại

Khác với các biện pháp chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh do hành động bán phá giá hay trợ cấp của Chính phủ, một nước thành viên khi áp dụng biện pháp tự vệ phải đảm bảo đền bù thỏa đáng cho nước bị áp dụng tự vệ thương mại. Việc đền bù này thường thông qua việc giảm thuế cho một số mặt hàng có lợi ích xuất khẩu cho nước bị áp dụng tự vệ thương mại. Mức độ đền bù phải tương đương đáng kể. Nếu các bên không thể thỏa thuận được mức độ bồi thường tương xứng thì các nước bị áp dụng tự vệ thương mại có thể áp dụng các biện pháp trả đũa. Tuy nhiên, quyền thực hiện trả đũa thương mại chỉ có thể tiến hành sau 3 năm kể từ khi biện pháp tự vệ thương mại thực hiện.

* Nguyên tắc ưu tiên cho các nước đang phát triển

WTO thừa nhận cần thiết phải dành cho những nước đang và chậm phát triển những điều kiện thuật lợi hơn trong thương mại quốc tế, dành cho các nước này những chế độ đãi ngộ đặc biệt và khác biệt trong thương mại quốc tế mà không yêu cầu có đi có lại trong các cam kết. Điều 9 Hiệp định về tự vệ thương mại của WTO qui định: Các biện pháp tự vệ thương mại không được áp dụng với hàng hóa có nguồn gốc từ một nước thành viên đang phát triển nếu như thị phần xuất khẩu hàng hóa của nước này tại nước nhập khẩu không vượt quá 3 %. Hoặc nếu có nhiều nước thành viên đang phát triển có thị phần từng nước dưới 3% và tổng thị phần của các nước này không lớn hơn 9 % thì không bị áp dụng tự vệ thương mại. Về phần mình, một nước thành viên đang phát triển lại có quyền mở rộng thời hạn áp dụng tự vệ thương mại với nước khác thêm 2 năm nữa so với thời hạn tối đa được áp dụng tự vệ thương mại thông thường là 8 năm

Biện pháp tự vệ là biện pháp tạm thời nhằm hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng hoá khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Mỗi nước nhập khẩu là thành viên WTO đều có quyền áp dụng biện pháp tự vệ, nhưng khi áp dụng thì họ phải bảo đảm tuân theo các qui định của WTO (về điều kiện, thủ tục, cách thức áp dụng biện pháp tự vệ). Hiện nay, đang có nhiều tranh cãi và đề xuất sửa đổi các qui định trong Hiệp định SG do sự mâu thuẫn giữa chúng với các qui định trong các hiệp định thương mại khu vực (có qui định hoặc hoặc bị loại bỏ có liên quan đến SG).

Đối với biện pháp tự vệ, các nước chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ ở mức cần thiết đủ để ngăn chặn hoặc bù đắp các thiệt hại và tạo điều kiện để ngành sản xuất nội địa điều chỉnh; biện pháp tự vệ không được kéo dài quá 4 năm (tính cả thời gian áp dụng biện pháp tạm thời) và phải giảm dần theo định kỳ sau năm đầu tiên áp dụng. Trường hợp biện pháp được áp dụng trên 3 năm thì phải được xem xét lại vào giữa kỳ để cân nhắc khả năng chấm dứt hoặc giảm mức áp dụng mạnh hơn nữa. Biện pháp tự vệ có  thể gia hạn biện pháp tự vệ nhưng tổng cộng thời gian áp dụng và gia hạn không được quá 8 năm. Tuy nhiên, WTO có qui định đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam có thể kéo dài thời hạn áp dụng thêm 2 năm, tức là các nước đang phát triển như Việt Nam có quyền áp dụng biện pháp tự vệ với thời hạn không quá 10 năm.

Các biện pháp tạm thời được đặt ra để giảm bớt nhập khẩu nhằm giúp một ngành sản xuất nào đó tự điều chỉnh mình để thích ứng với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các nhà sản xuất nước ngoài.

Dựa trên qui định của WTO, các hành động tự vệ có thể được thực hiện theo 6 cách khác nhau, tất cả các cách này đều phải tuân theo các điều kiện cụ thể để đảm bảo rằng hành động tự vệ chỉ được thực hiện nếu có các nguyên nhân chính đáng. Ngoài ra cũng có một số các bước thủ tục khác cần phải tuân thủ trong mỗi trường hợp. Cụ thể như dưới đây.

+ Điều VI của GATT, cho phép các Chính phủ được tiến hành hành động tự vệ nếu có xảy ra phá giá. Các qui định của Điều khoản này được làm rõ thêm trong Hiệp định về Thực hiện Điều VI của GATT (Hiệp định về chống phá giá).

+ Điều XII của GATT, trong trường hợp của các nước đang phát triển theo Điều XVIII: B, các nước đang phát triển có thể hạn chế nhập khẩu để bảo vệ vị thế tài chính đối ngoại và cán cân thanh toán.

+ Điều XVIII.A và XVIII.C, cho phép các nước đang phát triển có trợ giúp của Chính phủ nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế.

+ Điều XIX của GATT, cho phép một nước tạm hoãn không thi hành các nghĩa vụ của mình hoặc sửa đổi các cam kết tự do hóa trong các trường hợp không lường trước được và nếu bất cứ một sản phẩm nào được nhập khẩu với số lượng ngày càng tăng có thể gây ra hoặc đe doạ gây ra các thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất trong nước cùng sản xuất một loại hàng hoá tương tự hoặc loại hàng hoá cạnh tranh trực tiếp. Đó chính là những gì được định nghĩa là hành động tự vệ. Có một tên gọi khác cho hành động này, gọi là điều khoản nới lỏng. Trừ một số trường hợp được định nghĩa cụ thể, các biện pháp tự vệ được tiến hành theo Điều XIX cần phải nhằm vào một loại hàng hoá cụ thể, bất kể chúng có nguồn gốc từ đâu. Các hành động phân biệt đối xử chống lại các nước được coi là đang có các vấn đề lớn là trái với các qui định. Nếu hành động được tiến hành, nước thực hiện có nghĩa vụ đền bù cho các bên bị ảnh hưởng dưới hình thức cho hưởng thuế thấp và/hoặc các điều kiện tiếp cận thị trường tốt hơn.

 Hiệp định về các biện pháp tự vệ định ra các qui định cho việc áp dụng các biện pháp tự vệ như qui định trong Điều XIX của GATT.

+ Điều XXVIII của GATT, có thể tiến hành đàm phán lại các cam kết với mục đích giảm gánh nặng từ nhập khẩu.

+ Các qui định về ngoại lệ chung và các ngoại lệ về an ninh trong GATS và GATT cũng có thể coi như một hình thức tự vệ hợp lệ. 

Ngoài ra, trong Hiệp định Nông nghiệp của WTO còn qui định về các biện pháp tự vệ đặc biệt (SSG). Đây là một công cụ tự vệ cho phép các nước thành viên WTO có thể "đánh thuế" và đặt ra những SSG cụ thể trong Biểu cam kết về nông nghiệp. Biện pháp tự vệ này được cho là cần thiết bởi sự tác động của sự thâm nhập sản phẩm nhập khẩu đối với một số sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm. SSG cho phép các quốc gia áp thuế bổ sung cho sản phẩm bên cạnh dòng thuế có sẵn trong trường hợp gia tăng nhập khẩu hoặc khi giá nhập khẩu giảm hơn 10% so với giá nhập khẩu tối thiểu cố định. Tuy nhiên, chỉ có 39 nước thành viên WTO đủ tiêu chuẩn sử dụng SSG này do yêu cầu về biểu thuế, phần lớn là các nền kinh tế phát triển và không có quốc gia nào là nước kém phát triển. Do các nước đang và kém phát triển không thể tiếp cận được SSG, các nước thành viên WTO quan tâm đến một cơ chế tự vệ đặc biệt (SSM) thuộc các điều khoản đối xử đặc biệt và khác biệt, cho các nước đang và kém phát triển cơ sở để bảo vệ những sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm khỏi việc thâm nhập thị trường của sản phẩm nhập khẩu tương tự.

1.2. Tự vệ trong các hiệp định thương mại tự do

Việc ký kết các hiệp định thương mại song phương và khu vực đã có sự gia tăng đáng kể bắt đầu từ những năm 1990. Tính đến cuối năm 2017, đã có 94 hiệp định thương mại song phương và khu vực đã được thông báo cho WTO chính thức có hiệu lực chưa kể các hiệp định vẫn đang trong quá trình đàm phán. Trong hầu hết các hiệp định thương mại này, qui định về tự vệ đều dẫn chiếu đến biện pháp tự vệ trong thương mại của WTO. Những hiệp định này thường cho phép các quốc gia sử dụng các điều khoản thuộc Điều XIX của GATT về các Biện pháp tự vệ và Điều 5 của Hiệp định Nông nghiệp. Những qui định thông thường trong các Hiệp định này không làm cho các bên mất đi quyền và nghĩa vụ trong các thỏa thuận đa phương. Một số hiệp định có qui định loại trừ các nước thành viên khỏi các hành động tự vệ toàn cầu, trong khi một số hiệp định khác đặt ra nghĩa vụ không áp dụng nếu đáp ứng một số điều kiện nhất định. Ví dụ như Hiệp định thương mại tự do Trung Mỹ (Điều 2.16) qui định; “một Bên sẽ loại trừ việc nhập khẩu một sản phẩm có xuất xứ từ một hoặc nhiều Bên nếu hành động nhập khẩu đó không gây ra, dẫn đến hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng”. Điều này có ý nghĩa quan trọng nếu xảy ra tranh chấp hoặc khởi kiện việc sử dụng biện pháp tự vệ vì nguyên tắc cơ bản của biện pháp tự vệ toàn cầu là phải nhập khẩu một sản phẩm cụ thể trên cơ sở không phân biệt đối xử.

Một số hiệp định qui định việc áp dụng các biện pháp tự vệ song phương hoặc khu vực và biện pháp tự vệ đặc biệt, trong đó nêu rõ các biện pháp khác nhau không thể được sử dụng đồng thời trên cùng một sản phẩm. Vì vậy, mỗi sản phẩm có thể được áp dụng một loại biện pháp tự vệ trong khoảng thời gian nhất định. Ví dụ như Hiệp định thương  mại tự do Trung Quốc- Singapore (Điều 43-8) qui định rằng: "Khi áp dụng một biện pháp tự vệ song phương, một Bên sẽ không được sử dụng đồng thời các biện pháp tự vệ của WTO". Các biện pháp tự vệ trong các hiệp định thương  mại tự do có thể được chia thành ba loại: (1) không cho phép áp dụng các biện pháp tự vệ giữa các thành viên; (2) Cho phép nhưng không có điều khoản đặc biệt; (3) cho phép và có điều khoản đặc biệt.

Cũng như các qui định của WTO về tự vệ trong thương mại, các biện pháp tự vệ trong các hiệp định thương  mại tự do chỉ được áp dụng với mức độ cần thiết để khắc phục thiệt hại đã xảy ra hoặc đe dọa xảy ra. Hơn nữa, quy định của WTO về các biện pháp tự vệ cho phép áp dụng một trong hai biện pháp là tăng thuế và hạn chế số lượng. Tuy nhiên, chỉ có một số hiệp định cho phép áp dụng hạn ngạch thuế quan còn phần lớn các hiệp định chỉ cho phép tăng thuế nhập khẩu.

Khác với qui định trong WTO, thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ trong các hiệp định thương  mại tự do thường ngắn hơn trong khoảng từ 3 đến 8 năm tổng cộng hoặc cho đến khi kết thúc thời han chuyển tiếp. Phần lớn các hiệp định cho phép áp dụng tự vệ lần đầu trong vòng 2 năm và việc gia hạn có thể tiến hành trong một hoặc hai năm tiếp theo, ví dụ như trong hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) qui định rằng biện pháp tự vệ có thể được thực hiện không quá 3 năm và không thể gia hạn sau khi kết thúc thời hạn chuyển tiếp. Phần lớn các hiệp định cũng cho phép dỡ bỏ các biện pháp tự vệ sớm, thông thường là sau khi biện pháp tự vệ được áp dụng 1 năm.

Đối với các biện pháp tự vệ tạm thời, các biện pháp này chỉ áp dụng trong thời hạn ngắn để ngăn chặn các thiệt hại không thể khắc phục tới ngành công nghiệp trong nước cho những sản phẩm cạnh tranh trực tiếp hoặc sản phẩm tương tự. Nhiều hiệp định cho phép áp dụng biện pháp tự vệ song phương hoặc khu vực tạm thời. Tuy nhiên, có một vài điểm khác biệt về thời hạn biện pháp được áp dụng và một số quốc gia áp dụng thời hạn không giống nhau cho các quốc gia khác nhau.

Tuy được thừa nhận rộng rãi trong thương mại quốc tế, nhưng khác với các công cụ phòng vệ khác, biện pháp tự vệ trong thương mại không phải là một công cụ “miễn phí”. Theo qui định của WTO, nước áp dụng biện pháp tự vệ phải bồi thương tổn thất thương mại cho các nước xuất khẩu có liên quan (thường là việc tự nguyện giảm thuế nhập khẩu cho một số nhóm hàng hoá khác đến từ chính các nước xuất khẩu đó). Nếu không đạt được các thoả thuận đền bù, nước xuất khẩu được quyền thực thi các biện pháp trả đũa thương mại (rút lại những nghĩa vụ nào đó trong WTO bao gồm cả việc rút lại các nhượng bộ về thuế quan).

Trong khung khổ của Hiệp định CPTPP, sẽ có một số thay đổi so với các qui định về TVTM trong WTO, nhưng rất ít có khả năng những qui định này được thay đổi cơ bản hay thực hiện khác đi. Bởi lẽ bản chất của tự vệ thương mại không phải xuất phát từ các nhân tố khách quan là cạnh tranh không lành mạnh mà chính là từ yếu tố chủ quan của nước nhập khẩu: Năng lực cạnh tranh còn yếu kém của các ngành sản xuất nội địa. Các nước muốn áp dụng tự vệ thì phải cam kết đưa ra nhượng bộ thương mại như là một cách đền bù cho các nước có liên quan.

Về bản chất, tự vệ trong thương mại là công cụ phải “trả tiền”, vì vậy, các quốc gia phải cân nhắc kĩ lưỡng tổng thể các yếu tố được và mất trước khi khởi xướng điều tra và đưa ra kết luận cuối cùng. Do vậy, không nên lạm dụng tự vệ thương mại như là một biện pháp bảo hộ quá mức các ngành sản xuất trong nước và chỉ bảo hộ có chọn lọc đối với những ngành như sản xuất nông sản, thiết bị gia dụng,… vốn là những ngành có năng lực cạnh tranh còn non yếu so với các thành viên khác tham gia FTA. Nếu như ngành nào cũng bảo vệ thì có khả năng sẽ tạo ra tâm lí trông chờ cơ quan quản lý nhà nước bảo vệ, không nỗ lực đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động cho các doanh nghiệp và khi đó nội lực nền kinh tế lại càng suy yếu. Hơn nữa, nhiều khi đối với một nền kinh tế không phải lúc nào cũng có đủ tiềm lực để áp dụng nhiều biện pháp tự vệ thương mại cùng một lúc, đặc biệt là khả năng bị trả đũa thương mại. Cần chấp nhận một thực tế là một số ngành hoạt động không hiệu quả thì buộc phải sụp đổ dưới áp lực thương mại quốc tế, nguồn lực của nền kinh tế khi đó sẽ di chuyển đến những ngành sản xuất hiệu quả hơn. Đây chính là tác động hai mặt của bất cứ liên kết kinh tế nào và cả khi tham gia các FTA.

Song song với việc sử dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại, về lâu dài cần phải có những chính sách, hỗ trợ để nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành sản xuất còn yếu thế và dễ bị tổn thương trong nước. Đây chính là việc làm cấp thiết nhất, mang tính chiến lược lâu dài và cần được thực hiện ngay. Vì cho dù có áp dụng thành công biện pháp tự vệ thì vẫn bị giới hạn về mức độ tự vệ (chỉ được áp dụng biện pháp tự vệ ở mức cần thiết đủ để ngăn chặn hoặc bù đắp các thiệt hại và tạo điều kiện để sản xuất nội địa điều chỉnh), thời hạn tự vệ (không được kéo dài quá 4 năm) và gia hạn tự vệ tổng cộng thời gian áp dụng và gia hạn không được quá 8 năm.

Đối với Hiệp định CPTPP, các cam kết về tự vệ cũng dựa trên các nội dung này nhưng khắt khe hơn. Do đó, từ thời điểm hiện tại đến khi CPTPP có hiệu lực, các bên có liên quan cần tích cực hợp tác, rà soát các ngành sản xuất nội địa dễ bị tổn thương để trang bị từ trước cho họ khả năng bị cạnh tranh bởi hàng nhập khẩu và thúc đẩy các biện pháp lâu dài hỗ trợ doanh nghiệp gia tăng năng lực cạnh tranh.

Trong khi các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp được sử dụng nhằm hạn chế hành vi cạnh tranh không lành mạnh, các biện pháp tự vệ lại được sử dụng nhằm giúp các ngành sản xuất trong nước thêm thời gian để điều chỉnh tăng cường tự do hóa thương mại. Do vậy, các doanh nghiệp cần chú ý đến công cụ này để có thể yêu cầu Chính phủ sử dụng nhằm bảo vệ lợi ích của mình trước hàng hoá nhập khẩu nước ngoài khi cần thiết.

1.3. So sánh quy định diễn tiến không lường trước được, với điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ theo pháp luật Việt Nam

Điều 92 Luật Quản lý ngoại thương (QLNT) năm 2017 quy định điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ. Theo quy định này, biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu khi có đủ các điều kiện: (a) Nhập khẩu quá mức khi khối lượng hoặc số lượng hàng hóa nhập khẩu gia tăng một cách tuyệt đối hoặc tương đối so với khối lượng hoặc số lượng hàng hóa tương tự được sản xuất trong nước; (b) Ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại nghiêm trọng hoặc bị đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng; (c) Việc gia tăng khối lượng hoặc số lượng hàng hóa nhập khẩu quy định tại điểm a khoản này là nguyên nhân chính gây ra thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước.

Khi so sánh quy định về điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ theo quy định của Pháp lệnh về Tự vệ năm 2002 và Luật QTNT năm 2017, ta thấy có một sự khác biệt về quy định đánh giá yếu tố “diễn tiến không lường trước” trong việc xác định điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ. Hiện nay, Việt Nam chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết về việc đánh giá yếu tố “diễn tiến không lường trước được” khi điều tra và kết luận các điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ. Do vậy, cơ quan điều tra sẽ không có nghĩa vụ phải xem xét, đánh giá các nội dung liên quan đến việc xác định có yếu tố “diễn tiến không lường trước được” khi điều tra và kết luận việc áp dụng biện pháp tự vệ đã đảm bảo các điều kiện đánh giá theo quy định chưa.

Trước đó, quy định đánh giá yếu tố “diễn tiến không lường trước được”trong một cuộc điều tra về tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam đã được cụ thể hóa tại Điều 6 của Pháp lệnh về Tự vệ năm 2002 như sau: Các biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu khi có đủ các điều kiện sau đây: (1) Khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hoá nhập khẩu gia tăng đột biến một cách tuyệt đối hoặc tương đối so với khối lượng, số lượng hoặc trị giá của hàng hoá tương tự hoặc hàng hoá cạnh tranh trực tiếp được sản xuất trong nước; (2) Việc gia tăng khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hoá nhập khẩu quy định tại khoản 1 Điều này gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hoá tương tự hoặc hàng hoá cạnh tranh trực tiếp trong nước. Hoặc tại Điều 20 của FTA song phương Việt Nam - Nhật Bản quy định điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ với nội dung: (1) Mỗi Bên có thể áp dụng một biện pháp tự vệ đối với hàng hoá xuất xứ của Bên kia theo Điều XIX, Hiệp định GATT 1994 và Hiệp định về Tự vệ trong Phụ lục 1A của Hiệp định WTO (sau đây được gọi là Hiệp định về Tự vệ)…; (2). Trong trường hợp cần thiết nhất,... hoặc nếu Bên đó phải chịu hậu quả từ những thay đổi không thể dự đoán trước và những tác động từ việc thực hiện nghĩa vụ cam kết trong Hiệp định này, gia tăng số lượng hàng hoá xuất xứ nhập khẩu từ Bên kia, ở mức tuyệt đối hoặc có liên quan đến sản xuất nội địa, và ở những điều kiện gây ra hoặc có nguy cơ gây ra tổn thương nghiêm trọng đối với nền công nghiệp nội địa của Bên sản xuất các hàng hoá tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp. Như vậy, quy định về đánh giá yếu tố “diễn tiến không lường trước được” đã cụ thể hóa với cụm từ “đột biến” trong Điều 6 Pháp lệnh về Tự vệ năm 2002 hoặc cụm từ “không thể dự đoán trước” tại Điều 20 của FTA Việt Nam - Nhật Bản đã không được Luật QLNT năm 2017 kế thừa và duy trì.

Cho đến nay, mặc dù Việt Nam chưa bị khởi kiện đến Cơ quan giải quyết tranh chấp WTO liên quan đến các biện pháp tự vệ thương mại đã áp dụng, tuy nhiên, trong trường hợp này, khả năng Việt Nam trở thành nguyên đơn hay bị đơn trong tương lai là khá lớn.

Do khi đàm phán để trở thành thành viên của WTO vào năm 2007, Việt Nam không đưa ra bảo lưu nào đối với các Hiệp định của WTO, vì vậy, các quy định pháp luật về tự vệ của Việt Nam gần như tiếp thu toàn bộ các điều khoản GATT 1994 và SG, đặc biệt trong FTA Việt Nam - Nhật Bản cũng thỏa thuận phải thực hiện việc đánh giá yếu tố “diễn tiến không lường trước được” khi điều tra và kết luận các điều kiện thỏa mãn cho phép áp dụng biện pháp tự vệ.

2. Điều kiện và quy trình áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế và các bên liên quan

2.1. Điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế

Theo Hiệp định SG, một thành viên có thể áp dụng một biện pháp tự vệ cho một sản phẩm chỉ khi thành viên đó đã xác định được, phù hợp với những qui định trong Hiệp định, sản phẩm đó được nhập vào lãnh thổ của mình khi có sự gia tăng nhập khẩu, tương đối hay tuyệt đối so với sản xuất nội địa và theo đó có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nội địa sản xuất ra các sản phẩm tương tự hoặc các sản phẩm cạnh tranh trực tiếp. Các biện pháp tự vệ sẽ được áp dụng đối với một sản phẩm nhập khẩu bất kể từ nguồn nào. Như vậy, một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến hành điều tra và chứng minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện sau:

+ Hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng;

+ Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá đó bị thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại nghiêm trọng; và

+ Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại nói trên.

- Các bên liên quan khi áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế

Theo qui định pháp lý của Việt Nam, các bên liên quan trong vụ việc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế bao gồm:

(các qui định pháp lý của Việt Nam về các biện pháp phòng vệ thương mại trong đó có biện pháp tự vệ phù hợp với khung khổ WTO và các FTA).

+ Tổ chức, cá nhân ở nước ngoài sản xuất, xuất khẩu hàng hóa vào lãnh thổ Việt Nam bị điều tra;

+ Tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa bị điều tra;

+ Hiệp hội nước ngoài có đa số thành viên là các tổ chức, cá nhân sản xuất, xuất khẩu hàng hóa bị điều tra;

+ Chính phủ và cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu hàng hóa bị điều tra;

+ Tổ chức, cá nhân có hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp PVTM;

+ Tổ chức, cá nhân trong nước sản xuất hàng hóa tương tự;

+ Hiệp hội trong nước có đa số thành viên là các tổ chức, cá nhân sản xuất hàng hóa tương tự;

+ Tổ chức, cá nhân khác có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ việc điều tra hoặc có thể giúp ích cho quá trình điều tra hoặc tổ chức đại diện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Để được công nhận là bên liên quan, các tổ chức, cá nhân phải đăng ký và được Cơ quan điều tra chấp thuận để trở thành bên liên quan trong vụ việc điều tra theo qui định cụ thể trong Thông tư 06/2018/TT-BCT của Bộ trưởng Bộ Công Thương có hiệu lực từ ngày 15/6/2018 về qui định chi tiết một số nội dung về biện pháp phòng vệ thương mại.

Quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong vụ việc phòng vệ thương mại cũng được xác định rõ trong văn bản qui phạm pháp luật của Việt Nam, đồng thời cũng đã được bổ sung và hoàn thiện, cụ thể là trong Nghị định số 10/2018/NĐ-CP của Chính phủ về qui định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp phòng vệ thương mại.

2.2. Quy trình áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế

Trong các văn bản pháp lý và qui định của WTO, không có qui định cụ thể về trình tự, thủ tục yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ. Tuy nhiên, Hiệp định SG của WTO có đưa ra một số các nguyên tắc cơ bản mà tất cả các thành viên phải tuân thủ như:

 + Đảm bảo tính minh bạch (Quyết định khởi xướng vụ điều tra tự vệ phải được thông báo công khai;

+ Báo cáo kết luận điều tra phải được công khai vào cuối cuộc điều tra…);

+ Đảm bảo quyền tố tụng của các bên (các bên liên quan phải được đảm bảo cơ hội trình bày các chứng cứ, lập luận của mình và trả lời các chứng cứ, lập luận của đối phương);

+ Đảm bảo bí mật thông tin (đối với thông tin có bản chất là mật hoặc được các bên trình với tính chất là thông tin mật không thể được công khai nếu không có sự đồng ý của bên đã trình thông tin);

+ Các điều kiện về biện pháp tạm thời (phải là biện pháp tăng thuế và nếu kết luận cuối cùng của vụ việc là không áp dụng biện pháp chính thức thì khoản chênh lệch do tăng thuế phải được hoàn trả lại cho bên đã nộp; không được kéo dài quá 200 ngày…).

Ở Việt Nam, quy trình áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế được qui định tại Điều 70 (trình tự, thủ tục điều tra vụ việc phòng vệ thương mại) của Luật Quản lý ngoại thương được Quốc hội thông qua ngày 2 tháng 6 năm 2017 và có hiệu lực từ 01/01/2018, bao gồm các bước như sau:

(1) Tổ chức, cá nhân đại diện cho ngành sản xuất trong nước có quyền nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại trong trường hợp nhận thấy hàng hóa nhập khẩu bị bán phá giá, được trợ cấp hoặc nhập khẩu quá mức gây ra thiệt hại của ngành sản xuất trong nước.

(2) Trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày có thông báo hồ sơ hợp lệ, căn cứ vào kiến nghị của Cơ quan điều tra phòng vệ thương mại (sau đây gọi là Cơ quan điều tra), Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định việc điều tra hoặc không điều tra. Trường hợp đặc biệt, việc ban hành quyết định có thể được gia hạn một lần nhưng không quá 30 ngày.

(3) Thời hạn điều tra được qui định:

a) Việc điều tra để áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp được kết thúc trong thời gian 12 tháng kể từ ngày có quyết định điều tra. Trường hợp đặc biệt, Bộ trưởng Bộ Công Thương có quyền gia hạn thời gian điều tra nhưng tổng thời gian điều tra không quá 18 tháng;

b) Việc điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ được kết thúc trong thời gian 09 tháng kể từ ngày có quyết định điều tra. Trường hợp đặc biệt, Bộ trưởng Bộ Công Thương có quyền gia hạn thời gian điều tra nhưng tổng thời gian điều tra không quá 12 tháng.

(4) Việc tham vấn trong quá trình điều tra được thực hiện:

a) Trong quá trình điều tra, các bên liên quan trong vụ việc điều tra được quyền trình bày bằng văn bản với Cơ quan điều tra các thông tin và ý kiến liên quan đến vụ việc điều tra;

b) Cơ quan điều tra có trách nhiệm tạo cơ hội tham vấn cho các bên liên quan khi có yêu cầu bằng văn bản theo qui định tại điểm a khoản này;

c) Trước khi công bố kết luận điều tra cuối cùng, Cơ quan điều tra có thể tổ chức tham vấn công khai nhằm tạo điều kiện cho các bên liên quan trình bày thông tin và ý kiến liên quan đến vụ việc điều tra.

(5) Trách nhiệm thông báo được qui định:

a) Chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày Bộ trưởng Bộ Công Thương ra quyết định tiến hành điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp, Cơ quan điều tra có trách nhiệm thông báo cho Chính phủ của nước có tổ chức, cá nhân sản xuất, xuất khẩu có liên quan và các bên liên quan khác về việc tiến hành điều tra;

b) Cơ quan điều tra có trách nhiệm thông báo công khai kết luận điều tra sơ bộ, kết luận điều tra cuối cùng, chấp thuận cam kết cũng như việc chấm dứt điều tra tới các bên liên quan trong vụ việc điều tra;

c) Cơ quan điều tra thực hiện các nghĩa vụ thông báo khác theo qui định của điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên.

3. Các yếu tố cấu thành năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế

3.1. Cơ sở pháp lý về tự vệ thương mại

Cơ sở pháp lý về tự vệ thương mại bao gồm hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế, bao gồm các yếu tố chủ yếu như các đạo luật, luật lệ, qui định, quy tắc, qui trình gắn với các biện pháp áp dụng TVTM. Hệ thống này đòi hỏi sự thống nhất, toàn diện, nhưng phải phù hợp với các qui định quốc tế về TVTM mà Việt Nam đã cam kết. Vai trò hệ thống pháp lý về TVTM là định hướng, hướng dẫn, tạo khung khổ pháp lý cho việc tổ chức hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về TVTM và của các doanh nghiệp. Ngoài ra, hệ thống pháp lý này có tác dụng điều chỉnh mối quan hệ qua lại giữa doanh nghiệp sản xuất trong nước với doanh nghiệp nhập khẩu.

Ở Việt Nam, hệ thống pháp lý về TVTM đã được xây dựng từ khá sớm, trước khi Việt Nam tham gia WTO. Cụ thể: Ngày 25/5/2002, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh 42/2002/PL-UBTVQH10 về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định 150/2003/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2003 qui định chi tiết thi hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam.

Dựa trên Nghị định 98/2017/NĐ-CP ngày 18 tháng 8 năm 2017 của Chính phủ qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ra Quyết định 3752/QĐ-BCT ngày 02 tháng 10 năm 2017 của Bộ Công Thương qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Phòng vệ thương mại. Cục Phòng vệ thương mại là tổ chức thuộc Bộ Công Thương, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật đối với lĩnh vực chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ; tổ chức, quản lý hoạt động sự nghiệp dịch vụ công thuộc lĩnh vực, phạm vi quản lý của Cục theo qui định của pháp luật và phân cấp, ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Công Thương.

Văn bản qui phạm pháp luật quan trọng liên quan đến TVTM gần đây được ban hành là Luật Quản lý ngoại thương được Quốc hội thông qua ngày 2 tháng 6 năm 2017 và có hiệu lực từ 01/01/2018. Điều 70 của Luật (trình tự, thủ tục điều tra vụ việc phòng vệ thương mại) đã qui định về quy trình áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 10/2018/NĐ-CP về qui định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp phòng vệ thương mại. Đây là những văn bản pháp lý quan trọng để Bộ Công Thương thực thi áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế.

3.2. Bộ máy tổ chức

Cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật đối với lĩnh vực chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ là Bộ Công Thương, trong đó Cục Phòng vệ thương mại là tổ chức trực thuộc, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương trong lĩnh vực này. Cụ thể:

 - Xây dựng và trình Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành hoặc để Bộ trưởng Bộ Công Thương trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, đề án, chiến lược, cơ chế, chính sách về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.

- Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, đề án, chiến lược, cơ chế, chính sách về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ sau khi được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, ban hành.

- Ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ, các văn bản cá biệt và văn bản nội bộ theo qui định của pháp luật.

- Quản lý nhà nước về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.

+ Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện các qui định của pháp luật về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam;

+ Thụ lý hồ sơ, tổ chức điều tra việc nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam để đề xuất áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ theo qui định của pháp luật.

+ Báo cáo kết quả điều tra vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ và trình Bộ trưởng Bộ Công Thương ra quyết định áp dụng hoặc không áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam;

+ Kiến nghị Bộ trưởng Bộ Công Thương ra quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ tạm thời theo qui định của pháp luật.

+ Kiến nghị Bộ trưởng Bộ Công Thương ra quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ chính thức theo qui định của pháp luật.

+ Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn thực hiện, theo dõi và rà soát việc chấp hành các quyết định áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.

- Quản lý nhà nước về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam

+ Cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán phá giá đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam

+ Chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng liên quan trong việcxử lý các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ của nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam;

+ Thực hiện các công việc liên quan đến giải quyết tranh chấp về các vụ kiện phòng vệ thương mại và các nội dung khác liên quan đến lĩnh vực phòng vệ thương mại tại WTO, các Hiệp định thương mại và các tổ chức quốc tế khác;

+ Đầu mối, phối hợp với các Bộ, ngành xử lý vấn đề nền kinh tế thị trường với các quốc gia, vùng lãnh thổ có liên quan;

+ Chủ trì và/hoặc tham gia thảo luận, đàm phán vấn đề phòng vệ thương mại trong các điều ước quốc tế về thương mại, các Ủy ban hỗn hợp giữa Việt Nam với các đối tác và các diễn đàn quốc tế khác theo phân công của Lãnh đạo Bộ Công Thương.

- Tham gia góp ý đối với các nội dung công việc liên quan đến lĩnh vực phòng vệ thương mại do các đơn vị trong và ngoài Cục đề nghị.

- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ.

- Yêu cầu các tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho việc thực hiện các nhiệm vụ được giao; được sử dụng tư vấn trong và ngoài nước trong trường hợp cần thiết theo yêu cầu của công việc theo qui định của pháp luật.

- Tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật và các chính sách có liên quan đến các lĩnh vực chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.

- Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho tổ chức, cá nhân liên quan tới công tác chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.

- Phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các hội/hiệp hội ngành nghề hoạt động trong lĩnh vực được phân công phụ trách theo qui định của pháp luật.

- Tổ chức, xây dựng cơ sở dữ liệu, quản lý và cung cấp thông tin cho các cơ quan nhà nước, các tổ chức cá nhân có yêu cầu theo qui định của pháp luật về áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.

- Tổ chức thanh tra chuyên ngành, kiểm tra việc thực hiện các qui định của pháp luật liên quan đến hoạt động chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo qui định của pháp luật và phân cấp quản lý của Bộ Công Thương.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Phòng vệ thương mại được qui định cụ thể tại Quyết định Số 3752/QĐ-BCT ngày 02/10/2017 của Bộ trưởng Bộ Công Thương

Để vận hành bộ máy quản lý nhà nước về TVTM, yếu tố con người là trung tâm và đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Năng lực của cá nhân, hay năng lực của con người là tập hợp những kiến thức, kỹ năng, thái độ/phẩm chất của một cá nhân được thể hiện thông qua những hành vi cụ thể nhằm đạt được hiệu quả cao trong công việc mà cá nhân đó đảm nhiệm, phụ trách.

Năng lực của cá nhân trong áp dụng BPTV trong thương mại quốc tế được đề cập đến những người chịu trách nhiệm hoặc có liên quan đến việc áp dụng biện pháp tự vệ. Các yếu tố cấu thành năng lực con người bao gồm:

+ Thái độ: Là quan điểm, ý thức hay tính cách của người thực thi các vụ việc liên quan đến tự vệ trong thương mại quốc tế. Đây là yếu tố rất quan trọng tạo nên năng lực thực sự và trọn vẹn. Nếu hai người có cùng kỹ năng và kiến thức thì thái độ là yếu tố tạo ra sự khác biệt. Thái độ đóng vai trò quyết định (trong số ba yếu tố cấu thành năng lực) thành công của doanh nghiệp cũng như của cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến điều tra và áp dụng các biện pháp TVTM.

+ Kỹ năng: Là yếu tố tạo ra sự khác biệt trong những tình huống, công việc cụ thể. Chẳng hạn, cùng một hiện tượng khi phát hiện thấy có sự gia tăng đột biến về số lượng một hàng hoá nào đó được nhập khẩu, người chịu trách nhiệm có liên quan của doanh nghiệp có thể đề xuất hoặc ra quyết định có hay không nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp TVTM.

Kỹ năng bao gồm kinh nghiệm và mức độ thành thạo trong xử lý các vụ việc liên quan đến TVTM. Trong xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, việc thâm nhập ồ ạt của nhiều loại hàng hóa vào thị trường trong nước là không thể tránh khỏi. Khả năng phát sinh nhiều vụ việc yêu cầu áp dụng biện pháp TVTM tạo cho các cán bộ thực thi có nhưng cơ hội cọ xát, tích lũy kinh nghiệm và nâng cao mức độ thành thạo trong xử lý các vụ việc.

Kỹ năng chính là biểu hiện cao nhất của việc áp dụng kiến thức hay kinh nghiệm đã học hỏi, tích lũy được vào thực tiễn. Kỹ năng được chia thành các cấp độ chính như: quan sát và hành động theo khuôn mẫu, ứng dụng (thực hiện một số hành động bằng cách làm theo hướng dẫn), vận dụng thực hiện hành động gắn với mỗi tình huống và vụ việc về TVTM.

+ Kiến thức: Là nhận thức và hiểu biết về quy luật vận động của thế giới xung quanh. Ngoài kiến thức chung về thương mại quốc tế còn cần có kiến thức chuyên môn về TVTM. Kiến thức về TVTM được hiểu là những năng lực về thu thập thông tin dữ liệu, năng lực hiểu các vấn đề, năng lực phân tích, năng lực tổng hợp…

Năng lực áp dụng các biện pháp TVTM được thể hiện cụ thể thông qua năng lực xác định hàng hóa thuộc đối tượng điều tra và phạm vi điều tra; năng lực điều tra, tức là đưa ra các số liệu chứng minh xu hướng gia tăng của nhập khẩu trong giai đoạn điều tra, làm căn cứ thuyết minh cho tính cần thiết và tương xứng của các biện pháp tự vệ thương mại; năng lực xác định thiệt hại nghiêm trọng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến sản xuất trong nước va mối quan hệ nhân quả giữa gia tăng nhập khẩu và những thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước các biện pháp tự vệ thương mại chỉ được áp dụng khi sự gia tăng nhập khẩu đến mức gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước.

3.3. Sự phối hợp giữa cơ quan quản lí nhà nước về TVTM với các tổ chức và doanh nghiệp.

Điều kiện tiên quyết định có yêu cầu áp dụng biện pháp TVTM để thực hiện khởi xướng điều tra áp dụng các biện pháp TVTM là từ phía doanh nghiệp. Khi đã có một cơ sở chứng minh có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh/nhập khẩu ồ ạt cũng như tác động của chúng tới thiệt hại của doanh nghiệp.

Trách nhiệm quản lý nhà nước về TVTM với các tổ chức có liên quan được phân định rõ ràng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan quản lý nhà nước đối với hàng hóa nhập khẩu chuyên ngành,

Cơ chế trao đổi, cung cấp, công khai thông tin, đảm bảo chính xác, đầy đủ, kịp thời. Yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin phải căn cứ vào nhu cầu quản lý nhà nước phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan yêu cầu. Việc sử dụng thông tin doanh nghiệp phải tuân thủ theo quy định của pháp luật.

Phối hợp trong điều tra vụ việc TVTM phải bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, kịp thời; không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung điều tra trong cùng thời gian thực hiện điều tra.

Nguồn: CIEW