Sự khác nhau giữa đô thị và thành phố

Thành phố và đô thị

Thành phố và thành phố là những từ được nói liên quan đến các khu định cư đô thị ở các quốc gia khác nhau trên thế giới. Ở các quốc gia khác nhau, có các danh pháp khác nhau để đề cập đến các hệ thống quản lý địa phương đã phát triển trong một giai đoạn hoặc thử nghiệm và sai sót. Chính phủ quyết định một tên cho các đơn vị nhỏ hơn trong các khu định cư đô thị. Có nhiều điểm tương đồng giữa các thành phố và các đô thị để tạo ra nhầm lẫn trong tâm trí của sinh viên của công dân. Tuy nhiên, bất chấp những điểm tương đồng, vẫn có sự khác biệt giữa thành phố và thành phố trong bài báo này.

Thành phố là gì?

Gần một nửa dân số thế giới hiện nay sống ở những nơi có thể được gọi là khu định cư đô thị. Những nơi này rõ ràng là khác biệt với các vùng nông thôn, nông thôn, và những làng mạc yên tĩnh hơn và ít ô nhiễm hơn các thành phố. Đó là cuộc cách mạng công nghiệp đòi hỏi phải thành lập các thành phố có các khu dân cư và thương mại được hoạch định và các ngành công nghiệp được thành lập ở vùng ngoại ô của những khu định cư đô thị này. Cách sống và cơ hội tốt hơn ở những thành phố này đã thu hút dân cư nông thôn di cư từ thôn bản và nông thôn để làm việc như những người lao động trong các ngành công nghiệp của thành phố. Nói chung, thành phố là một khu định cư đô thị có tính chất vĩnh viễn và có dân số lớn. Nó cũng khác với các vùng nông thôn theo nghĩa nó được hoạch định và có hệ thống hơn.

Mục lục

  • 1 Các định nghĩa
    • 1.1 Việt Nam
    • 1.2 Úc
    • 1.3 Canada
    • 1.4 Trung Quốc
    • 1.5 Pháp
    • 1.6 Thụy Sĩ
    • 1.7 Nhật Bản
    • 1.8 New Zealand
    • 1.9 Ba Lan
    • 1.10 Hoa Kỳ
  • 2 Đô thị và nông thôn dưới khía cạnh xã hội học
    • 2.1 Khái niệm đô thị dưới khía cạnh xã hội học
    • 2.2 Xã hội học đô thị
  • 3 Xem thêm
  • 4 Tham khảo
  • 5 Liên kết ngoài

Các định nghĩaSửa đổi

Định nghĩa về đô thị thì khác nhau tại các quốc gia khác nhau. Thông thường mật độ dân số tối thiểu cần thiết để được gọi là một đô thị phải là 400 người trên một cây số vuông hay 1000 người trên một dặm vuông Anh[1]. Các quốc gia châu Âu định nghĩa đô thị dựa trên cơ bản việc sử dụng đất thuộc đô thị, không cho phép có một khoảng trống tiêu biểu nào lớn hơn 200 mét. Dùng không ảnh chụp từ vệ tinh thay vì dùng thống kê từng khu phố để quyết định ranh giới của đô thị. Tại các quốc gia kém phát triển, ngoài việc sử dụng đất và mật độ dân số nhất định nào đó, một điều kiện nữa là phần đông dân số, thường là 75% trở lên, không có hành nghề nông nghiệp hay đánh cá.

Việt NamSửa đổi

Tại Việt Nam hiện có sáu loại hình đô thị: loại đặc biệt, loại I, loại II, loại III, loại IV, loại V.

Theo Nghị định số 42/2009/NĐ-CP[2], một đơn vị hành chính để được phân loại là đô thị thì phải có các tiêu chuẩn cơ bản như sau:

  1. Có chức năng đô thị.
  2. Quy mô dân số toàn đô thị đạt 4 nghìn người trở lên.
  3. Mật độ dân số phù hợp với quy mô, tính chất và đặc điểm của từng loại đô thị và được tính trong phạm vi nội thành, nội thị, riêng đối với thị trấn thì căn cứ theo các khu phố xây dựng tập trung.
  4. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp (tính trong phạm vi ranh giới nội thành, nội thị, khu vực xây dựng tập trung) phải đạt tối thiểu 65% so với tổng số lao động.
  5. Đạt được các yêu cầu về hệ thống công trình hạ tầng đô thị (gồm hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật).
  6. Đạt được các yêu cầu về kiến trúc, cảnh quan đô thị.

Tính đến này 27 tháng 5 năm 2019, tại Việt Nam có 833 đô thị, bao gồm 2 đô thị loại đặc biệt, 20 đô thị loại I, 29 đô thị loại II, 45 đô thị loại III, 85 đô thị loại IV và 652 đô thị loại V.

ÚcSửa đổi

Tại Úc, các đô thị thường được ám chỉ là các "trung tâm thành thị" và được định nghĩa như là những khu dân cư chen chúc có từ 1000 người trở lên và mật độ dân cư phải tối thiểu là 200 người trên một cây số vuông.[3]

CanadaSửa đổi

Tại Canada, một đô thị là một vùng có trên 400 người trên một cây số vuông và tổng số dân phải trên 1.000 người. Nếu có hai đô thị hoặc nhiều hơn trong phạm vi 2km của nhau, các đô thị này được nhập thành một đô thị duy nhất. Các ranh giới của một đô thị không bị ảnh hưởng bởi ranh giới của các khu tự quản (thành phố) hoặc thậm chí là ranh giới tỉnh bang.[4]

Trung QuốcSửa đổi

Tại Trung Quốc, một đô thị là một khu thành thị, thành phố và thị trấn có mật độ dân số hơn 1.500 người trên một cây số vuông. Đối với các khu thành thị có mật độ dân số ít hơn 1.500 người trên một cây số vuông thì chỉ dân số sống trong các đường phố, nơi có dân cư đông đúc, các làng lân cận nhau được tính là dân số thành thị.[5]

PhápSửa đổi

Tại Pháp, một đô thị là một khu vực bao gồm một vùng phát triển do xây cất (gọi là một "đơn vị thành thị" (unité urbaine)[6] - gần giống như cách định nghĩa của đô thị Bắc Mỹ và các vùng vành đai ngoại ô (couronne périurbaine). Mặc dù cách dịch chính thức thuật từ aire urbaine của INSEE là "urban area" trong tiếng Anh,[7] đa số người Bắc Mỹ sẽ nhận thấy rằng nó tương tự với định nghĩa về vùng đô thị của mình.

Thụy SĩSửa đổi

Tại Thụy Sĩ chỉ có những đơn vị hành chánh được gọi là thành phố, hoặc là nó có hơn 10 ngàn dân hoặc dưới thời Trung cổ nó được ban cho quyền được gọi là thành phố.

Nhật BảnSửa đổi

Tại Nhật Bản, các đô thị được định nghĩa như là các vùng cận kề nhau gồm các khu dân cư đông đúc. Điều kiện cần thiết là đô thị phải có mật độ dân số trên 4.000 người trên một cây số vuông.

New ZealandSửa đổi

Cục thống kê New Zealand định nghĩa đô thị New Zealand cho các mục đích thống kê. Chúng là các khu định cư có dân số trên 1000 người.

Ba LanSửa đổi

Tại Ba Lan, định nghĩa chính thức về "đô thị" đơn giản là ám chỉ đến các địa phương có danh xưng là thị trấn, thành phố. Vùng "nông thôn" là những vùng nằm ngoài ranh giới của các thị trấn này. Sự phân biệt đơn giản này có thể gây nhầm lẫn trong một số trường hợp vì một số địa phương có danh xưng làng xã có thể có dân số đông hơn các thị trấn nhỏ.[8]

Hoa KỳSửa đổi

Tại Hoa Kỳ, có hai loại khu đô thị. Thuật từ urbanized area dùng để chỉ một khu đô thị có từ 50.000 dân trở lên. Các khu đô thị dưới 50.000 dân được gọi là urban cluster. Cụm từ Urbanized areas được sử dụng lần đầu tiên tại Hoa Kỳ trong cuộc điều tra dân số năm 1950 trong khi cụm từ urban cluster được thêm vào trong cuộc điều tra dân số năm 2000. Có khoảng 1371 khu đô thị trên 10.000 người tại Hoa Kỳ.

Cục điều tra dân số Hoa Kỳ định nghĩa một khu đô thị như "những cụm thống kê cốt lõi có mật độ dân số ít nhất là 1.000 người trên một dặm vuông Anh hay 386 người trên một cây số vuông và những cụm thống kê xung quanh nó có tổng mật độ dân số ít nhất là 500 người trên một dặm vuông hay 193 người trên một cây số vuông."

Khái niệm về khu đô thị được Cục điều tra dân số Hoa Kỳ định nghĩa thường được dùng như thước đo chính xác hơn diện tích của một thành phố vì trong các thành phố khác nhau cũng như tiểu bang khác nhau, đường phân giới giữa các ranh giới thành phố và khu đô thị của thành phố đó thường không như nhau. Thí dụ, thành phố Greenville, Nam Carolina có dân số thành phố dưới 60.000 nhưng khu đô thị có trên 300.000 người trong khi đó Greensboro, Bắc Carolina có dân số thành phố trên 200.000 nhưng dân số khu đô thị khoảng 270.000. Điều đó có nghĩa là Greenville thật sự "lớn hơn" theo một số ý nghĩa và mục đích nào đó nhưng không phải theo một số ý nghĩa và mục đích khác, thí dụ như thuế, bầu cử địa phương.

Khoảng 70% dân số Hoa Kỳ sống bên trong ranh giới của các khu đô thị (210 trong số 300 triệu người). Tổng cộng thì các khu đô thị này chiếm khoảng 2% diện tích Hoa Kỳ. Phần lớn cư dân đô thị là những người sống ở ngoại ô. Cư dân sống trong thành phố trung tâm cốt lõi chiếm khoảng 30% dân số khu đô thị (khoảng 60 trong 210 triệu người).

Đô thị là gì?

Trước khi đi đến những sự khác nhau giữa thành thị và nông thôn chúng ta thử định nghĩa hai cuộc sống này như thế nào.

Đô thị là khu vực tập trung đông dân cư sinh sống và chủ yếu hoạt động trong những lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp. Hay có thể hiểu đô thị là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, du lịch và dịch vụ của cả nước hoặc vùng lãnh thổ.

Đô thị bao gồm thị trấn, thị xã, thành phố (thành phố trực thuộc tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương).

Sự khác nhau giữa đô thị và thành phố

Sự khác biệt chính giữa thành thị và nông thôn

Sự khác biệt cơ bản giữa thành thị và nông thôn được thảo luận ở các điểm sau:

  1. Một khu định cư nơi dân số rất cao và có các đặc điểm của môi trường xây dựng (môi trường cung cấp các phương tiện cơ bản cho hoạt động của con người), được gọi là đô thị. Nông thôn là khu vực địa lý nằm ở phần bên ngoài của thành phố hoặc thị trấn.
  2. Cuộc sống ở thành thị rất nhanh và phức tạp, trong khi cuộc sống ở nông thôn thì đơn giản và thoải mái.
  3. Khu định cư đô thị bao gồm các thành phố và thị trấn. Mặt khác, khu định cư nông thôn bao gồm các làng và thôn.
  4. Có sự cô lập lớn hơn với thiên nhiên trong các khu vực đô thị, do sự tồn tại của môi trường được xây dựng. Ngược lại, khu vực nông thôn tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên, vì các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng đến chúng.
  5. Người thành thị đang tham gia vào các công việc phi nông nghiệp, tức là thương mại, thương mại hoặc công nghiệp dịch vụ. Ngược lại, nghề nghiệp chính của người dân nông thôn là nông nghiệp và chăn nuôi.
  6. Dân số thông minh, khu vực đô thị có mật độ dân cư đông đúc, dựa trên quá trình đô thị hóa, tức là đô thị hóa càng cao thì dân số càng cao. Trái lại, dân cư nông thôn rất thưa thớt, có mối quan hệ nghịch đảo với nông nghiệp.
  7. Các khu vực đô thị được phát triển một cách có kế hoạch và có hệ thống, theo quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa. Sự phát triển ở khu vực nông thôn hiếm khi, dựa trên sự sẵn có của thảm thực vật tự nhiên trong khu vực.
  8. Khi nói đến việc huy động xã hội, người dân thành thị rất chuyên sâu khi họ thay đổi nghề nghiệp hoặc cư trú thường xuyên để tìm kiếm cơ hội tốt hơn. Tuy nhiên, ở khu vực nông thôn di chuyển nghề nghiệp hoặc lãnh thổ của người dân tương đối ít hơn.
  9. Phân công lao động và chuyên môn hóa luôn có mặt trong khu định cư đô thị tại thời điểm giao việc. Trái ngược với nông thôn, không có sự phân công lao động.

    Phần kết luận

    Vì vậy, với các cuộc thảo luận đã cho, có thể dễ dàng hiểu rằng hai khu định cư của con người này rất khác nhau, liên quan đến mật độ cấu trúc của con người và cư dân của khu vực đó. Mức sống ở thành thị cao hơn so với nông thôn. Hiện tại, phần tối đa của tổng dân số cư trú ở khu vực thành thị, cũng như tổng diện tích đất bị chiếm bởi khu vực thành thị lớn hơn khu vực nông thôn.

3.7/5 - (12 bình chọn)

Đô thị là gì?

Trước khi đi đến sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, chúng ta hãy thử định nghĩa hai cuộc sống này.

Đô thị là nơi tập trung đông dân cư sinh sống và hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp.

Hay có thể hiểu thành phố là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, du lịch, dịch vụ của cả nước hoặc vùng lãnh thổ. Nó bao gồm thị xã, thị trấn, thành phố (thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương).

Sự khác nhau giữa đô thị và thành phố

1. Khái niệm

Sự khác nhau giữa đô thị và thành phố
Hình ảnh của một khu đô thị

Thành thị là thuật ngữ dùng để chỉ những khu vực đông dân cư trong thành phố và sở hữu các đặc điểm của môi trường nhân tạo. Những người cư trú trong khu vực này có lợi thế dễ dàng tiếp cận với những tiện nghi khác nhau, phương tiện giao thông tốt hơn, có nhiều lựa chọn giải trí và giáo dục, cơ sở y tế.

Trong khi đó, nông thôn là thuật ngữ dùng để chỉ một khu vực nằm ở ngoại ô. Nó thể hiện đến một khu định cư nhỏ, nằm ngoài ranh giới của một thành phố, khu thương mại hay khu công nghiệp. Nông thôn có thể bao gồm làng hoặc thôn, nơi có thảm thực vật tự nhiên và không gian mở.

2. Đơn vị hành chính

Đơn vị hành chính chính là một trong những yếu tố cần nhắc đến khi so sánh nông thôn và thành thị.

Sự khác nhau giữa đô thị và thành phố
Đơn vị hành chính là yếu tố khác nhau giữa nông thôn và thành thị.

Tại thành thị, đơn vị hành chính phân chia thành phường, quận, thành phố. Trong khi đó, đơn vị hành chính của nông thôn được phân chia thành tiểu khu, thôn, làng, xã, huyện.

3. Môi trường

Môi trường là yếu tố tác động khá lớn lên sự khác nhau giữa nông thôn và đô thị. Tại các khu vực đô thị, đời sống con người có sự cách biệt lớn với thiên nhiên do sự tồn tại của môi trường được xây dựng.

Trong khi đó, khu vực nông thôn có nhiều điều kiện để tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên, cũng bởi các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng đến chúng.

4. Nghề nghiệp chính của cư dân

Sự khác nhau giữa đô thị và thành phố
Cư dân cư trú tại khu vực thành thị thường tham gia vào các công việc phi nông nghiệp

Cư dân cư trú tại khu vực thành thị thường tham gia vào các công việc phi nông nghiệp như thương mại, công nghiệp hay dịch vụ.

Trong khi đó, nghề nghiệp chính của người dân sống tại khu vực nông thôn là nông nghiệp và chăn nuôi. Tuy nhiên ngày nay, do sự phát triển của công nghiệp hoá hiện đại hoá, nhiều cư dân sống tại khu vực nông thôn cũng đang bắt đầu tham gia vào các công việc tại các khu công nghiệp hay khu du lịch… bên cạnh việc làm nông như trước.