Sự khác biệt giữa thương mại quốc tế đầu tư nước ngoài và kinh doanh quốc tế

Hiểu thế nào vềngành Kinh doanh quốc tế và Kinh doanh thương mại?

Mặc dù cả 2 ngành trênđều thuộc lĩnh vực kinh tế, có liên quan đến hoạt động mua bán sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và trong quá trình học tập sẽ có những môn học giống nhaunhưng mỗi ngànhlại có đối tượng nghiên cứu riêng biệt. Cụ thể:
Kinh doanh quốc tế là ngành học cung cấp cho người học những kiến thức chung về quản trị kinh doanh và các kiến thức chuyên môn thuộc lĩnh vực kinh doanh doanh quốc tế như: đầu tư quốc tế, logistic và vận tải quốc tế, thanh toán quốc tế, marketing quốc tế, các chính sách kinh tế đối ngoại chủ yếu hiện nay, cách thức xâm nhập thị trường nước ngoài, những vấn đề về hội nhập kinh tế, đầu tư quốc tế tại Việt Nam,…
Trong khi đó, Kinh doanh thương mại trang bị kiến thức chuyên sâuvề hoạt động bán hàng, về xuất – nhập kho hay quản trị hoạt động bán lẻ. Kinh doanh thương mại là ngành học chú trọng nhiều về kỹ năng thực tế hơn là phân tích và tính toán.
Như vậy, Kinh doanh quốc tế rộng và đặc thù hơn Kinh doanh thương mại. Trong đó, Kinh doanh thương mại chỉ tập trung vào các công việc xuất nhập khẩu, các công tác luân chuyển hàng hóa, ngành hàng bán lẻ. Còn Kinh doanh quốc tế sẽ học về việc quản trị những dự án kinh doanh lớn hơn, mang tầm quốc tế, trong đó huy động và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hay đầu tư cổ phiếu quốc tế là một ví dụ.
Sự khác biệt giữa thương mại quốc tế đầu tư nước ngoài và kinh doanh quốc tế
Thí sinh cần phân biệt 2 ngành Kinh doanh quốc tế và Kinh doanh thương mại để lựa chọn đúng ngành nghề

Sự khác biệt giữa kinh doanh trong nước và quốc tế

Sự khác biệt giữa thương mại quốc tế đầu tư nước ngoài và kinh doanh quốc tế
Sự khác biệt giữa kinh doanh trong nước và quốc tế - ĐờI SốNg

Ngành Kinh doanh quốc tế và Kinh doanh thương mại là gì?

Kinh doanh thương mại và kinh doanh quốc tế đều là 2 ngành thuộc lĩnh vực kinh tế. Chúng có liên quan đến hoạt động mua bán sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ… 2 chuyên ngành này có những môn học giống nhau. Tuy nhiên mỗi ngành sẽ có đối tượng nghiên cứu riêng biệt. Cụ thể như sau:

  • Đối với ngành kinh doanh quốc tế thì đây là ngành học cung cấp cho sinh viên những kiến thức chung về quản trị kinh doanh. Đồng thời cung cấp những kiến thức chuyên môn sâu về lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Chẳng hạn như: logistic và vận tải quốc tế, thanh toán quốc tế, đầu tư quốc tế, marketing quốc tế, các chính sách kinh tế đối ngoại chủ yếu hiện nay, những vấn đề về hội nhập kinh tế, cách thức xâm nhập thị trường nước ngoài, đầu tư quốc tế tại Việt Nam,…
  • Đối với ngành kinh doanh thương mại thì sinh viên sẽ được trang bị kiến thức chuyên sâu về hoạt động bán hàng, xuất nhập kho, quản trị kinh doanh… Đây là chuyên ngành chú trọng nhiều về kỹ năng thực tế hơn là phân tích và tính toán.
Sự khác biệt giữa thương mại quốc tế đầu tư nước ngoài và kinh doanh quốc tế
Ngành Kinh doanh quốc tế và Kinh doanh thương mại là gì?

Đánh giá mối quan hệ giữa thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài

  • doc
  • 49 trang
§Ò ¸n m«n häc
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay “mở cửa”, “hội nhập” với thế giới để
phát triển kinh tế đang là chiến lược của nhiều quốc gia. Bí quyết
thành công của các nước công nghiệp mới là nhận thức được mối quan
hệ hữu cơ giữa phát triển kinh tế trong nước và mở rộng quan hệ kinh
tế với bên ngoài. Trong các nội dung chủ yếu của kinh tế đối ngoại,
hoạt động kinh tế xuất nhập khẩu và đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
chiếm vị trí quan trọng vì kết quả thực tế của mọi hoạt động kinh tế
đối ngoại suy cho cùng đều được thể hiện trong kim ngạch nhoại
thương và số lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hai hoạt động
này có mối quan hệ tương hỗ nhau.
Với bài viết này tác giả muốn trình bày cách nhìn nhận của mình
về mối quan hệ giữa TMQT và hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Từ nhận thức đó tác giả chọn đề tài “Đánh giá mối quan hệ giữa
TMQT và đầu tư trực tiếp nước ngoài”. Với nội dung nghiên cứu
này, ngoài phần lời mở đầu và phần kết luận đề tài được trình bày làm
ba chương như sau:
 Chương I: Lý luận chung về TMQT và đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
Chương này, đưa ra những vấn đề chung nhất về cơ sở lý thuyết
của hoạt động thương mại quốc tế và hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
 Chương II: Tìm hiểu mối quan hệ giữa TMQT và hoạt đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
Chương này, đánh giá sự tác động của TMQT đến hoạt đầu tư trực
tiếp nước ngoài và ngược lại. Thông qua tình hình thực tiễn của
Malaixia và Việt Nam.
1

§Ò ¸n m«n häc
 Chương III: Phương hướng phát triển TMQT nhằm thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
Chương này, đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm phát triển ngoại
thương Việt Nam, qua đó thúc đẩy việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Kinh
tế và kinh doanh quốc tế trường Đại học kinh tế quốc dân, đặc biệt là
thầy giáo, thạc sĩ Đàm Quang Vinh đã hướng dẫn tận tình để tác giả
hoàn thành đề tài này.

CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ VÀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)

I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1. Hoạt động thương mại quốc tế và vai trò của nó trong nền kinh
tế quốc dân.
1.1. Khái niệm thương mại quốc tế.
Năm 1621 ở Anh một tác giả chủ nghĩa trọng thương Thomas
Mun đã nói "thương mại là một hòn đá thử vàng với sự phồn thịnh của
một quốc gia" và "không có phép lạ nào dễ kiếm tiền trừ thương mại".
Chủ nghĩa trọng thương cho rằng "TMQT là sự trao đổi hàng hoá giữa
các quốc gia mà trong trao đổi phải có bên thua và bên kia được".
Có nhiều tác giả khác định nghĩa TMQT là sự mở rộng hoạt
động mua bán, trao đổi hàng hoá vượt ra khỏi phạm vi biên giới của
2

§Ò ¸n m«n häc
một quốc gia, hay nói cách khác TMQT là sự mở rộng của thương mại
trong nước trên phạm vi quốc tế. Vậy thực chất TMQT là gì?
TMQT là sự trao đổi hàng hoá- dịch vụ giữa các quốc gia thông
qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ
xã hội phản ánh sự phụ thuộc về kinh tế giữa các nhà sản xuất hàng
hoá riêng biệt của các nước.
Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hay tất cả các công
đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hay thực
hiện một dịch vụ trên thị trường nhằm thu lợi nhuận. Kinh doanh xuất
nhập khẩu là nội dung cơ bản của kinh doanh TMQT.
Như vậy kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là việc đầu tư
công sức, tiền của thực hiện hoạt động XNK hàng hoá dịch vụ nhằm
thu lợi nhuận. Kinh doanh XNK, hàng hoá được thực hiện theo quy
luật cung cầu thị trường, người mua và người bán hay người xuất khẩu
và người nhập khẩu gặp nhau trên thị trường quốc tế để thoả thuận về
giá cả số lượng và chất lượng của hàng hoá-dịch vụ.
1.2. Đặc trưng của hoạt động TMQT.
TMQT có ba đặc trưng cơ bản sau:
- Kinh doanh TMQT được thực hiện bởi người mua và người
bán có quốc tịch khác nhau, ở các nước khác nhau, hàng hoá được di
chuyển vượt qua phạm vi biên giới của một quốc gia.
Với đặc trưng này thì phân biệt rõ giữa kinh doanh TMQT với
kinh doanh thương mại trong nước. Đối với kinh doanh thương mại
trong nước, dòng lưu chuyển của dòng hàng hoá bị giới hạn trong
phạm vi biên giới của một nước.

3

§Ò ¸n m«n häc
-Dòng tiền thanh toán trong kinh doanh TMQT có thể là đồng
tiền một trong các nước (nhiều hơn hai nước) tham gia vào hoạt động
XNK và cũng có thể là một đồng tiền của nước khác.
Sử dụng đồng tiền nào trong thanh toán hợp đồng XNK phụ
thuộc vào sự thoả thuận giữa các bên tham gia hợp đồng. Đồng tiền
được sử dụng thường là các đồng tiền mạnh có sức mua lớn trên thị
trường thế giới.
-Kinh doanh TMQT chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố phức tạp
liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau, quốc tịch giữa các chủ thể tham
gia vào hoạt động TMQT như: ngôn ngữ, tôn giáo, pháp luật, văn
hoá... , sự khác nhau về ngôn ngữ đòi hỏi phải có ngôn ngữ thống
nhất được các bên cùng hiểu, cùng chấp nhận đồng thời các bên cũng
cần thoả thuận rõ về các quy phạm pháp luật áp dụng trong ký kết,
thực hiện và giải quyết tranh chấp trong hợp đồng.
1.3. Vai trò của hoạt động TMQT.
Như đã trình bày ở trên, TMQT là sự trao đổi hàng hoá giữa các
nước thông qua hành vi mua bán. Đây là hình thức trao đổi tích cực nó
vừa biểu hiện mối quan hệ xã hội vừa phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau
về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt ở các quốc
gia. Một quốc gia cũng như một cá nhân không thể sống một cách
riêng rẽ mà có thể thoả mãn đầy đủ nhu cầu của mình, cho dù đó là
những nhu cầu có khả năng thanh toán. Thông qua TMQT, cho phép
một nước mở rộng được khả năng tín dụng, tận dụng được trang thiết
bị máy móc của một nước khác mà những điều kiện sản xuất của nước
mình chưa cho phép.
Hơn thế nữa, TMQT cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt
hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với danh giới của
đường khả năng sản xuất trong nước đó nếu thực hiện chế độ tự cung
4

§Ò ¸n m«n häc
tự cấp. Những lợi điểm này bắt nguồn từ lợi thế so sánh giữa các quốc
gia và thông qua đó đẩy mạnh tính chuyên môn hoá của mỗi nước.
Chính vì vậy mà TMQT hay nói cách khác là quan hệ XNK trở thành
một vấn đề sống còn đối với một quốc gia. Xu hướng bình thường hoá
và đa phương hoá trên thị trường quốc tế hiện nay cũng một phần xuất
phát từ những vấn đề mang tính then chốt này. Bởi vì, quan điểm
chung là đẩy mạnh sự phát triển kinh tế của nước mình không chỉ
bằng tiềm lực sẵn có trong nước mà còn bằng việc tận dụng những
tiềm năng của nước ngoài.
XNK là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó
không phải là những hành vi buôn bán riêng rẽ mà là cả một hệ thống
các quan hệ mua bán trong một nền kinh tế thương mại có tổ chức từ
bên trong ra bên ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá
phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao
mức sống của nhân dân hay nói cách khác, vấn đề XNK là một vấn đề
mang tính quốc gia. Hiệu quả của hoạt động XNK có thể đem lại
những đột biến rất cao trong nền kinh tế.
Mặt khác nó cũng có thể gây ra những thiệt hại không thể lường
trước được, vì lúc đó nền kinh tế trong nước sẽ phải đối đầu với một
hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước không
dễ dàng khống chế được. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành
phần như ở nước ta hiện nay, việc đẩy mạnh hoạt động ngoại thương
là một hướng đi hoàn toàn đúng đắn. Nhưng muốn hoạt động này thực
sự đem lại hiệu quả cao cho đất nước, chúng ta phải xác định được
những điều có lợi và bất lợi của hoạt động này.
Ta có thể thấy hoạt động TMQT có những ưu điểm:
-Nó phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của mọi người,
mọi đối tượng, mọi tổ chức, mọi ngành nghề , mọi địa phương trong
xã hội.
5

§Ò ¸n m«n häc
-Thông qua hoạt động TMQT, một nước có thể mở rộng được
khả năng tiêu dùng của mình. Nó cho phép đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
một lượng hàng hoá nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước và cũng
thông qua đó những tiềm lực, những lợi thế của đất nước sẽ được khai
thác một cách triệt để hơn, khả năng chuyên môn hoá trong các ngành
sản xuất dần dần được hình thành và có động lực để không ngừng phát
triển.
-Hoạt động TMQT đáp ứng được các nhu cầu ngày càng tăng và
đa dạng của sản xuất, tiêu dùng. Thông qua việc nhập khẩu, sự mất
cân đối trong sản xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu sẽ dần được
khắc phục. Nhập khẩu kịp thời cung cấp các hàng hoá cần thiết cho
sản xuất và tiêu dùng, giúp cho nền kinh tế thoát khỏi những cơn sốt
giá cả một cách nhanh chóng, tránh những đột biến nguy hiểm như sự
lên giá của một mặt hàng có thể kéo theo sự lên giá của các mặt hàng
khác, gây ra sự rối loạn đình trệ trong sản xuất.
-Hoạt động thương mại quốc tế tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng
hoá trong nước và hàng hoá nước ngoài, tạo ra sự theo dõi kiểm soát
lẫn nhau rất chặt chẽ giữa các chủ thể, sự cạnh tranh này sẽ có tính
chất làm cho chất lượng nền kinh tế trong nước được nâng cao.
-Hoạt động TMQT đòi hỏi hàng hoá phải có chất lượng cao do
đó nó dẫn tới việc xoá bỏ nhanh chóng các chủ thể kinh doanh sản
phẩm lạc hậu không thể chấp nhận được. Đồng thời qua đó các cơ chế
quản lý của nhà nước cũng như của mỗi địa phương về XNK sẽ được
hoàn thiện từng bước, vì nó có những đòi hỏi mang tính tích cực của
các chủ thể tham gia XNK trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên hoạt
động TMQT cũng đem lại những bất lợi sau:
- Thứ nhất: vì tồn tại cạnh tranh nên dễ dẫn tới những rối ren
trong quan hệ mua bán. Nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ, kịp thời
sẽ gây ra các thiệt hại về kinh tế trong quan hệ với nước ngoài. Các
6

§Ò ¸n m«n häc
hiện tượng xấu về kinh tế, tư tưởng... cũng dễ có đất phát triển như
buôn lậu trốn thuế.
-Thứ hai: Sự cạnh tranh sẽ dẫn đến sự thôn tính lẫn nhau giữa
các chủ thể kinh doanh bằng các biện pháp xâú như phá hoại công
việc của nhau, gây cản trở phức tạp cho nhau, cũng như các biện pháp
cạnh tranh không lành mạnh khác.
-Thứ ba: Hoạt động nhập khẩu và hoạt động xuất khẩu là hai
hoạt động mang tính bổ trợ cho nhau. Nhập khẩu cung cấp đầu vào
cho quá trình sản xuất như nguyên vật liệu, trang thiết bị máy móc và
giúp cho đất nước có thể xuất khẩu là biểu hiện tích cực của mình.
Ngược lại, xuất khẩu là biểu hiện tích cực của nền kinh tế, nhờ có xuất
khẩu mà có được ngoại tệ để tiến hành thực hiện hoạt động nhập khẩu,
dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh thì một nước không thể chỉ hoàn
toàn xuất khẩu ( đây là hiện tượng bất khả thi ) nhưng cũng không chỉ
hoàn toàn nhập khẩu. Bởi vì mục đích quan trọng nhất của các hoạt
động này là nhằm nâng cao tiêu dùng trong nước, thoả mãn ngày càng
cao nhu cầu của người tiêu dùng.
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh TMQT
XNK là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển
sản xuất kinh doanh và đời sống. Song việc mua bán ở đây có những
nét riêng phức tạp hơn mua bán trong nước. Các bạn hàng trong giao
dịch mua bán ở đây là những người có quốc tịch khác nhau, thị trường
ở đây là những thị trường lớn rất khó kiểm soát, mua bán trung gian
chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán là đồng tiền mạnh, hàng hoá
phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau, phải
tuân theo những tập quán, thông lệ quốc tế cũng như của địa phương...
. Do đó hoạt động này cũng chịu ảnh hưởng của các nhân tố rất khác
nhau, ta có thể thấy một số nhân tố chính ảnh hưởng đến hoạt động
XNK sau:
7

§Ò ¸n m«n häc
2.1. Ảnh hưởng của chế độ, chính sách và luật pháp quốc tế.
Đây là một nhân tố thuộc tầm vĩ mô mà bất kỳ đơn vị kinh
doanh nào tham gia vào hoạt động XNK cũng phải tuân thủ một cách
vô điều kiện. Nó thể hiện quan điểm khác nhau của mỗi nước đối với
vấn đề kinh doanh XNK, nó tạo ra sự thống nhất chung trên trường
quốc tế. Luật pháp quốc tế buộc các nước vì lợi ích chung phải thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong hoạt động kinh
doanh XNK.
Ngoài luật pháp quốc tế, hoạt động XNK của một nước còn chịu
ảnh hưởng các chế độ pháp luật, chính sách nhập khẩu của chính nước
đó. Sự tuân thủ này vừa là trách nhiệm vừa là quyền hạn đối với các
đơn vị tham gia, qua đây các đơn vị kinh doanh vừa có quyền tự chủ
hơn trong hoạt động của mình, xác định được những điều kiện bắt
buộc mình phải trải qua đồng thời nó tạo ra tâm lý tin tưởng.
2.2. Ảnh hưởng của việc biến động thị trường trong và ngoài nước.
Thị trường bao giờ cũng là nhân ố hàng đầu trong kinh doanh, sự
biến động của thị trường trong và ngoài nước sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến xu hướng xuất nhập khẩu.
XNK như một chiếc cầu nối giữa các thị trường, tạo ra sự phù
hợp gắn bó cũng như thể hiện sự tác động qua lại của chúng với nhau.
Thông qua việc nghiên cứu thị trường nước ngoài, doanh nghiệp sẽ
quyết định việc XNK mặt hàng nào có lợi, thậm chí cả thời điểm nào
có lợi nhất và thông qua thị trường trong nước sẽ quyết định phải nhập
khẩu mặt hàng nào, số lượng bao nhiêu, chất lượng giá cả và cả người
cung ứng phải như thế nào là hợp lý nhất.
2.3. Ảnh hưởng của nền sản xuất trong và ngoài nước.

8

§Ò ¸n m«n häc
Sự hưng thịnh hay tụt hậu của nền sản xuất trong và ngoài nước
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động XNK. Nếu sản xuất trong nước
phát triển hàng hoá trong nước sẽ tạo ta sự cạnh tranh gay gắt với
hàng ngoại nhập dẫn tới nhu cầu hàng nhập khẩu sẽ giảm còn nếu sản
xuất kém phát triển, hàng hoá nội địa sẽ không đủ khả năng cạnh tranh
với hàng nhập khẩu thì xu hướng nhập khẩu sẽ tăng. Nhất là đối với
hàng hoá đòi hỏi kỹ thuật cao để trang bị sự hiện đại tối thiểu nhằm
phục vụ phát triển kinh tế cũng như đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
của tiêu dùng trong nước, việc chấp nhận là tất yếu.
Cùng với sự vận động ấy, ngược lại sự phát triển của nền sản
xuất ngoài nước sẽ làm tăng nhu cầu nhập khẩu tạo ra những sản
phảm mới thuận tiện, hiện đại với chi phí có thể chấp nhận được. Còn
nếu sản xuất nước ngoài kém phát triển, đây sẽ là một hệ thống rất hấp
dẫn mà các nhà kinh doanh trong nước sẽ quan tâm. Nhu cầu nhập
khẩu của thị trường bên ngoài trở thành tất yếu và điều này sẽ tác
động đến việc xuất khẩu hàng hoá của các nhà kinh doanh trong nước.
Tuy nhiên các biểu hiện trên không có tính tuyệt đối mà nó chỉ
là một trong các yếu tố dẫn đến xu hướng thay đổi trong hoạt động
XNK. Thông thường một chính phủ bao giờ cũng có những chính sách
để bảo hộ sản xuất trong nước mình phát triển nhằm tránh sự mất cân
đối trong nền kinh tế hoặc sự quá phụ thuộc vào nước ngoài ở một mặt
hàng nào đó mà sản xuất trong nước vẫn có khả năng tuy với chi phí
cao hơn hoặc chất lượng thấp hơn. Hoặc đôi khi để tránh sự độc
quyền, tạo ra sự cạnh tranh khuyến khích sản xuất phát triển mà nhà
nước sẽ ban hành các chính sách nhằm khuyến khích hoạt động nhập
khẩu một loại hàng.
2.4. Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái và tỷ xuất ngoại tệ của hàng
XNK.
9

§Ò ¸n m«n häc
Tỷ giá hối đoái là giá cả một đồng tiền quốc gia có thể đổi lấy
một đồng tiền khác. Nếu tỷ giá hối đoái cao thì việc nhập khẩu được
khuyến khích còn nếu tỷ giá hối đoái thấp thì việc xuất khẩu được
khuyến khích. Điều này giải thích tại sao có những nước đã tiến hành
phá giá đồng tiền nước mình để thúc đẩy xuất khẩu. Do vậy sự biến
động của tỷ giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động XNK.
Đối với tỷ xuất ngoại tệ thì khác, trong nhập khẩu tỷ xuất ngoại
tệ là tổng số tiền bán ra khi chi ra đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu. Nếu
tỷ xuất ngoại tệ mặt hàng đó lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì
việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu là có hiệu quả. Trong trường hợp
xuất khẩu, nó là số tiền bản tệ phải chi ra để có thể thu được một đơn
vị ngoại tệ. Nếu tỷ suất đưa ra thấp hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường
thì việc xuất khẩu là có hiệu quả.
2.5. Ảnh hưởng của môi trường chính trị và môi trường văn hoá xã
hội.
Các mối quan hệ XNK là các mối quan hệ thoả thuận, tự nguyện
trên cơ sở hai bên đều có lợi, không có một quyền lực chính trị nào ép
buộc. Tuy nhiên các quan hệ này chỉ được phát triển trên cơ sở có một
sự ổn định chính trị trong nước, các doanh nghiệp trong và ngoài nước
mới yên tâm tiến hành hoạt động XNK.
Trong hoạt động kinh doanh XNK thì môi trường văn hoá xã
hội, phong tục tập quán có ảnh hưởng rất sâu sắc. Trên thực tế cho
thấy chỉ những phong tục tập quán tiêu dùng rất nhỏ cũng có thể làm
ảnh hưởng rất lớn đến khối lượng, kích cỡ của các mặt hàng XNK.

10

§Ò ¸n m«n häc
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI.
1. Khái niệm đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
1.1. Khái niệm và bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
a. Khái niệm:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là phương thức đầu tư vốn, tài sản ở
nước ngoài để tiến hành sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ với
mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế xã hội nhất
định.
b. Bản chất:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế được đặc
trưng bởi quá trình xuất khẩu tư bản từ nước này sang nước khác, một
hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài được hiểu là một hoạt động kinh doanh, một dạng quan hệ kinh
tế có nhân tố nước ngoài. Nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ là sự
khác biệt về quốc tịch hoặc về lãnh thổ cư trú thường xuyên của các
bên tham gia vào quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn thể hiện
ở việc tư bản bắt buộc phải vượt qua khỏi tầm kiểm soát của một quốc
gia. Việc di chuyển tư bản này nhằm mục đích phục vụ kinh doanh tại
các nước tiếp nhận đầu tư, đồng thời lại là điều kiện để xuất khẩu máy
móc, vật tư, nguyên liệu và khai thác tài nguyên của nước chủ nhà.
2.2. Đặc điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
a. Về kinh tế:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa vốn vào nước tiếp nhận và đi
kèm với vốn là cả kỹ thuật, công nghệ, bí quyết kinh doanh và năng
11

§Ò ¸n m«n häc
lực Marketing. Chủ đầu tư đưa vốn vào đầu tư là tiến hành tổ chức sản
xuất kinh doanh và sản phẩm làm ra được tiêu thụ ở thị trường nước
sở tại hoặc thị trường quốc tế.
Việc tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài phát sinh nợ cho nước
nhận đầu tư. Thay cho lãi xuất, nước nhận đầu tư được phần lợi nhuận
thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả.Bên cạnh đó, nước
sở tại còn có điều kiện để phát triển tiềm năng trong nước.
Chủ thể đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu là các công ty xuyên
quốc gia. Các công ty này chiếm 90% khối lượng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài trên thế giới.
b. Về mặt pháp lý.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm là: chủ đầu tư nước
ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định tuỳ theo
luật đầu tư của mỗi nước. Đầu tư nước ngoài là hình thức đầu tư vốn
của tư nhân do cá chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất
kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lãi,lỗ. Hình thức này mang tính
khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài.
a. Năng lực tăng trưởng của nền kinh tế.
Xét về lâu dài thì đây là nhân tố quan trọng nhất để xác định
triển vọng thu hút và hiệu quả sử dụng của đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Vốn đầu tư nước ngoài không tự chảy vào các nước đang phát
triển nếu như triển vọng và năng lực phát triển nền kinh tế không sáng
sủa và lâu bền. Một năng lực tăng trưởng kinh tế là sự ổn định chính
trị kinh tế xã hội, một cơ cấu thích hợp và năng động cao, có lợi thế so
sánh của đất nước lớn, có hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển, trình độ
khoa học kỹ thuật cao. Thật vậy, năng lực phát triển có vai trò nổi bật
12

§Ò ¸n m«n häc
trong việc thu hút vốn và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bởi
vì chẳng ai muốn đầu tư vào nơi mà triển vọng tăng trưởng mù mịt.
Điều đó có nghĩa là nếu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được sử dụng
một cách có hiệu quả thì khả năng nhận vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài càng lớn. Khi đó cơ hội tăng trưởng nhanh vững chắc của quốc
gia đó càng trở nên hiện thực và năng lực thu hút sử dụng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài càng cao hơn.
b. Các yếu tố kinh tế vĩ mô.
Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết
của mọi ý định và hành vi đầu tư. Sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô
là sự ổn định các yếu tố kinh tế vĩ mô và gắn liền với năng lực tăng
trưởng. Sự ổn định đó sẽ kiểm soát nhịp độ tăng trưởng nhanh và lâu
bền và sẽ không gây ra một trạng thái "quá nóng" trong đầu tư. Một số
yếu tố kinh tế vĩ mô liên quan tới vấn đề thu hút và sử dụng có hiệu
quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như là:
-Yếu tố lạm phát và ổn định tiền tệ: Yếu tố này là tiêu chuẩn số
một để có thể ổn định môi trường kinh tế vĩ mô. Việc ổn định lạm
phát và giá trị tiền tệ sẽ tác động trực tiếp đến đồng vốn của đầu tư
nước ngoài. Nếu lạm phát cao, giá trị tiền tệ mất ổn định sẽ tác động
trực tiếp đến đồng vốn của đầu tư nước ngoài, lúc đó nhà đầu tư
không những không thu hồi được vốn mà còn mất hết vốn. Cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á vừa qua là một bài học thực
tiễn cho vấn đề này.
-Lãi suất: Về lý thuyết mức lãi suất của nước tiếp nhận vốn đầu
tư cao so với lãi suất quốc tế thì sức hút đối với nhà đầu tư nước ngoài
càng mạnh. Với lãi suất cao còn có tác dụng căn bản là cho phép huy
động được nhiều vốn trong nước lớn. Đây là nguồn vốn đối ứng trong
nước cực kỳ quan trọng để thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài hiệu quả hơn. Với lãi suất cao, ổn định không những thu
13

§Ò ¸n m«n häc
hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn là vũ khí hiệu
nghiệm để ngăn chặn được việc đào thoát vốn ra nước ngoài. Tuy vậy
nếu tăng quá cao lãi suất có nghĩa là phí tổn trong đầu tư cao và khi
phí tổn cao sẽ làm giảm lợi nhuận thực của nhà đầu tư.
-Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái tác động lớn tới sức hấp dẫn và
sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài. Tỷ giá hối đoái thấp làm
tăng xuất khẩu, từ đó làm tăng trưởng kinh tế và ngược lại. Mặt khác
tỷ giá hối đoái thấp tức là giá trị đồng tiền trong nước giảm so với
ngoại tệ, điều này làm cho giá hàng nhập khẩu đắt và giá hàng xuất
khẩu rẻ. Nếu kéo dài tình trạng này thì trong dài hạn nó làm tổn hại
đến tăng trưởng và phát triển kinh tế, do đó nó ảnh hưởng đến thu hút
và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Như vậy một
tỷ giá hối đoái phù hợp sẽ tạo khả năng thúc đẩy xuất khẩu, nền kinh
tế tăng trưởng vững chắc và từ đó nó có vai trò trực tiếp to lớn tới huy
động và sử dụng thật sự có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
-Nợ nước ngoài và cán cân thanh toán quốc tế: tình trạng nợ
nước ngoài và cán cân thanh toán quốc tế của nước nhận đầu tư có ảnh
hưởng mạnh đến thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong dài
hạn. Thật vậy, nếu một nền kinh tế mà nợ nước ngoài nhiều và cán cân
thanh toán quốc tế thường xuyên bị thâm hụt thì khả năng trả nợ sẽ
thấp và hàng năm nước đó phải trích ra nhiều nguồn lực để trả nợ, do
đó phần thặng dư dành cho đầu tư sẽ rất ít ỏi. Thật sự, là không có một
công ty nước ngoài nào lại muốn đầu tư vào nơi ít có khả năng thu hồi
vốn.
c. Các chính sách quốc tế.
Các chính sách kinh tế của nước chủ nhà có tác động rất lớn đối
với việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vì các
chính sách này sẽ điều chỉnh, quy định quyền lợi, nghĩa vụ của các
14

§Ò ¸n m«n häc
nhà đầu tư. Một số chính sách tiêu biểu liên quan trực tiếp đến thu hút
và sử dụng vồn đầu tư trực tiếp nước ngoài là:
-Chính sách thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của nhà
đầu tư. Do đó, ưu đãi về thuế có tác động rất lớn đến thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
-Chính sách tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến huy động nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo lý thuyết nếu mức lãi suất trong
nước cao thì khả năng hấp dẫn nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
cao và ngược lại.
-Chính sách thương mại: Chính sách này ảnh hưởng rất lớn tới
việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất là chinh sách ngoại
thương. Mức thuế nhập khẩu cao, Quota xuất khẩu thấp sẽ cản trở rất
mạnh tới lĩnh vực xuất nhập khẩu. Từ đó, sẽ cản trở tính hấp dẫn với
các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là sản xuất hàng hoá hướng về
xuất khẩu.
d. Môi trường pháp lý.
Yếu tố này có thể làm hạn chế hay cản trở hoàn toàn hoạt động
của các công ty nước ngoài trên nước sở tại. Một điều tất nhiên nếu
nước chủ nhà không đảm bảo về quyền sở hữu tài sản, môi trường
cạnh tranh lành mạnh thì sẽ chẳng có nhà đầu tư nước ngoài nào giám
vào nước họ. Dễ nhận thấy rằng, môi trường pháp lý thuận lợi an toàn
hơn cho vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thì khả năng thu hút vốn càng
cao.
2. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước đang
phát triển.
2.1. Tác động tích cực.
15

§Ò ¸n m«n häc
a. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nguồn bổ sung vốn quan
trọng để các nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Bù đắp cho sự thiếu hụt của nguồn vốn trong nước. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài là mọt hình thức huy động vốn để hỗ trợ cho nhu cầu
đầu tư của nền kinh tế, nó có ưu thế hơn hẳn so với các hình thức huy
động vốn khác như việc vay vốn nước ngoài luôn đi cùng với một
mức lãi suất nhất định và đôi khi trở thành gánh nặng cho nền kinh tế.
Ngoài ý nghĩa tăng trưởng vốn đầu tư nội địa, đầu tư trực tiếp
nước ngoài còn bổ sung đáng kể nguồn thu ngân sách của chính phủ
các nước đang phát triển thông qua thuế từ các xí nghiệp có vốn đầu
tư của nước ngoài. Đây là nguồn thu quan trọng cho vốn ngân sách và
nguồn ngoại tệ để đầu tư các dự án công cộng trong giai đoạn đầu
công nghiệp hoá. Vốn đầu tư ở các nước đang phát triển tăng và làm
tăng đầu tư, nhờ đó các nhân tố như lao động được sử dụng tăng lên,
năng suất lao động tăng lên theo. Qua đó làm tăng trưởng nền kinh tế
của đất nước này. Qua đây, ta thấy rõ vai trò to lớn của đầu tư trực
tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế và cả tiết kiệm của các nước
đang phát triển.
b. Tạo công ăn việc làm và nâng cao chất lượng lao động.
Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng thu hút một lượng
lớn lao động, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp ở các nước
đang phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến
cơ hội tạo công ăn việc làm thông qua việc cung cấp việc làm trong
các công ty có vốn trực tiếp nước ngoài và nó còn tạo ra cơ hội việc
làm trong các tổ chức khác của nước sở tại, khi mà các nhà đầu tư
nước ngoài mua hàng hoá dịch vụ từ các nhà sản xuất trong nước,
hoặc thuê họ qua các hợp đồng gia công chế biến.
16

§Ò ¸n m«n häc
Đầu tư nước ngoài còn góp phần phát triển nguồn nhân lực nâng
cao kỹ năng quản lý kinh doanh cho nước sở tại. Chính các chủ đầu tư
nước ngoài tổ chức mở các lớp đào tạo về quản lý, kỹ năng làm việc
đã góp phần tích cực vào việc bồi dưỡng đào tạo đội ngũ lao động ở
các nước sở tại. Để cán bộ và công nhân của nước sở tại có khả năng
quản lý và sử dụng công nghệ tiên tiến và yêu cầu của công việc. Đó
chính là đội ngũ nòng cốt trong việc học tập, tiếp thu kỹ thuật, công
nghệ tiên tiến, năng lực quản lý điều hành tiên tiến của nước ngoài.
Mặt khác các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có yêu cầu cao về chất
lượng nguồn lao động đã cố gắng nâng cao chất lượng để thích ứng
với trình độ khoa học, kỹ thuật tiên tiến.
c. Nâng cao năng lực công nghệ.
Song song với việc tạo nguồn vốn bổ sung cho các nước đang
phát triển đầu tư phát triển trực tiếp nước ngoài còn là một kênh quan
trọng để đưa kỹ thuật mới, kỹ năng sản xuất mới vào các nước đang
phát triển. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước sở tại có thể
tiếp nhận được công nghệ này. Qua đó đầu tư đầu tư nước ngoài có
thể thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật của nước nhận đầu tư, như góp phần
tăng năng suất của các yếu tố sản xuất thay đổi cấu thành sản phẩm và
xuất khẩu, thúc đẩy phát triển các nghề mới, đặc biệt là những nghề
đòi hỏi công nghệ cao. Qua chuyển giao công nghệ, làm trình độ công
nghệ của nước sở tại ngày một cao hơn, từ đó nâng cao dần năng lực
của nước sở tại.
d. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong điều kiện nền kinh tế mở các quan hệ kinh tế quốc tế tạo
ra động lực và điều kiện cho sự chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của
các quốc gia, trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là một động lực
mạnh mẽ có ý nghĩa to lớn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thông
qua đó các nước đang phát triển sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá
17

§Ò ¸n m«n häc
trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế thế
giới, tham gia vào quá trình liên kết giữa các nước đòi hỏi các nước
phát triển phải tự thay đổi cơ cấu kinh tế của nước mình cho phù hợp
với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu ở các nước
phát triển sẽ ngày càng tiến bộ hơn phù hợp với trình độ phát triển
kinh tế của thế giới.
2.2. Tác động tiêu cực.
a. Về kinh tế.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều khi làm lợi ích của
nhà đầu tư nước ngoài vượt qua lơị ích của nước sở tại nhận được. Vì
để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước nhận đầu tư phải áp dụng
một số ưu đãi cho các nhà đầu tư như: giảm thuế, miễn thuế trong một
thời gian khá dài cho phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài hoặc việc
trả tiền của họ cho việc thuê đất, nhà xưởng và một số dịch vụ trong
nước thấp hơn so với nhà đầu tư trong nước.
Ngoài ra còn có trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài thường
tính giá cao cho những nguyên vật liêụ, bán thành phẩm, máy móc
thiết bị mà họ nhập vào để thực hiện đầu tư. Việc làm này đã mang lại
nhiều lợi cho chủ đầu tư, chẳng hạn chốn được thuế của nước sở tại
đánh vào lợi nhuận của chủ đầu tư. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã
lợi dụng chỗ sơ hở của pháp luật và thiếu kinh nghiệm quản lý của
nước sở tại để chốn thuế gian lận và vi phạm những quy định về bảo
vệ môi trường sinh thái và những lợi ích khác của nước sở tại.
b. Về chuyển giao công nghệ
Là một mặt tác động lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng
còn tồn tại nhiều hạn chế và tiêu cực, không chuyển giao đúng quy
định ( chuyển giao còn nhỏ giọt , từng phần và thông thường là công
18

§Ò ¸n m«n häc
nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm với giá cao hơn giá mặt bằng quốc tế, vì rất
khó tính được giá trị thực của máy móc chuyển giao đó nên hiệu quả
bị thua thiệt trong thu lợi nhuận ). Từ thực tế trên, việc chuyển giao
công nghệ lạc hậu đã gây ra nhiều thiệt hại cho nước nhận đầu tư.
c. Về cơ cấu.
Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều khi sản xuất và bán
những hàng hoá không thích hợp cho các nước đang phát triển thậm
chí đôi khi còn có hại cho sức khoẻ con người và gây ô nhiễm môi
trường. Đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cho cơ cấu đầu tư theo ngành
và theo lãnh thổ của nước chủ nhà bất hợp lý gây ra tình trạng đầu tư
tràn lan kém hiệu quả và tài nguyên thiên nhiên bị khai thác qúa mức.
Vì mục tiêu của nhà đầu tư là kiếm lợi nhuận nên họ đầu tư vào những
nơi có lợi nhất do vậy khi lượng vốn nước ngoài tăng thêm thì sẽ gây
ra sự mất cân đối giữa các vùng sự mất cân đối này có thể gây nên bất
ổn về chính trị.

CHƯƠNG II:
TÌM HIỂU MỐI QUAN HỆ GIỮA TMQT VÀ ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI.

I. MỐI QUAN HỆ GIỮA TMQT VÀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI.
Đứng trên góc độ phân tích về mặt lý thuyết có thể thấy giữa
TMQT và đầu tư trực tiếp nước ngoài có mối quan hệ tương hỗ lẫn
nhau. Thật vậy, nếu xét trên bình diện một quốc gia ta có thể ví hoạt
19

§Ò ¸n m«n häc
động như là khâu nhập các yếu tố đầu vào (nguyên vật liệu bán thành
phẩm, máy móc thiết bị...) phục vụ cho quá trình sản xuất - ví như
hoạt động đầu tư, còn hoạt động xuất khẩu được ví như hoạt động bán
hàng. Do đó nếu như hoạt động xuất nhập khẩu phát triển, nghĩa là
việc nhập các yếu tố đầu vào được ổn định và hoạt động bán hàng
được xúc tiến tốt thì điều đó sẽ kích thích hoạt động sản xuất hay nói
khác đi là hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được đẩy mạnh. Mặt
khác khi hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được đẩy mạnh đồng
nghĩa với việc sản xuất năng lực của nước sở tại tăng lên và hàng hoá
sản xuất ra có chất lượng tốt hơn, giá thành rẻ hơn do đó sẽ thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu.
Đối với các nước đang phát triển, thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài được coi là giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu phát
triển kinh tế nói chung và thúc đẩy xuất khẩu nói riêng. Việc thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo điều kiện cho việc thúc đẩy xuất
khẩu, biểu hiện ở các khía cạnh sau:
-Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư có hiệu quả
vào các lĩnh vực thay thế nhập khẩu.
-Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào các
ngành có hàm lượng vốn và có trình độ công nghệ cao.
-Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào các
ngành hướng mạnh ra xuất khẩu.

II. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN
XUẤT NHẬP KHẨU.
Từ những năm đầu của thập kỷ 70, chiến lược công nghiệp hoá
hướng vào xuất khẩu với sự tham gia sâu rộng của đầu tư trực tiếp
20

Tải về bản full

Sự khác nhau giữa kinh doanh thương mại và kinh doanh quốc tế

By
Nguyễn Thị Ngân
-
25/09/2021
0
247
Facebook
Twitter
Pinterest
Sự khác biệt giữa thương mại quốc tế đầu tư nước ngoài và kinh doanh quốc tế
Đánh giá post

Kinh doanh thương mại và kinh doanh quốc tế đều là những ngành được khá nhiều bạn trẻ quan tâm và lựa chọn theo học hiện nay. Nhiều bạn nghĩ rằng, Kinh doanh quốc tế cũng tương tự như Kinh doanh thương mại là việc mua bán trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ, chỉ có điểm khác biệt là kinh doanh quốc tế được thực hiện giữa các quốc gia với nhau nên yêu cầu ngoại ngữ mà thôi. Điều này có phần đúng tuy nhiên chưa đầy đủ.Những thông tin cơ bản liên quan đến hai ngành này? Cùng tham khảo bài viết dưới đây để có câu trả lời xác thực nhất nhé.

Sự khác biệt giữa thương mại quốc tế đầu tư nước ngoài và kinh doanh quốc tế
Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật doanh nghiệp, gọi Tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198

Mục lục

  • 1 Nguyên nhân của hoạt động thương mại quốc tế
  • 2 Các lý thuyết thương mại quốc tế
    • 2.1 Mô hình Ricardo
    • 2.2 Mô hình Heckscher-Ohlin
    • 2.3 Mô hình yếu tố sản xuất đặc định
    • 2.4 Mô hình lực hấp dẫn
  • 3 Quy tắc điều chỉnh thương mại quốc tế
  • 4 Chức năng của hoạt động ngoại thương
  • 5 Nhiệm vụ của ngoại thương
  • 6 Các rào cản của hoạt động ngoại thương
    • 6.1 Hàng rào Thuế quan
    • 6.2 Hàng rào phi thuế quan
  • 7 Rủi ro trong thương mại quốc tế
    • 7.1 Rủi ro kinh tế
    • 7.2 Rủi ro chính trị
  • 8 Chú thích
  • 9 Xem thêm
  • 10 Liên kết ngoài
    • 10.1 Số liệu