So sánh vùng văn hóa bắc bộ và vùng văn hóa nam bộ

So sánh văn hóa Tây Nam Bộ và văn hóa Bắc Trung Bộ từ góc nhìn không gian

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [980.6 KB, 27 trang ]

Môn: Lý luận Văn hóa học
Giảng viên: GS. TSKH Trần Ngọc Thêm
So sánh văn hóa Tây Nam Bộ
và văn hóa Bắc Trung Bộ
từ góc nhìn không gian
2
I. GIỚI THIỆU:

Đề tài So sánh văn hóa Tây Nam Bộ và văn
hóa Bắc Trung Bộ từ góc nhìn không gian sử
dụng biện pháp so sánh để tiến hành nghiên cứu
và xem xét nền văn hoá Việt Nam trong sự
thống nhất và đa dạng.
3
II. NỘI DUNG

A. LOẠI HÌNH VĂN HÓA NHÌN TỪ K-C-T
4
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
Địa hình
Không
gian
Đồng bằng phù sa rộng
lớn, tính sông nước đậm
đặc, ít núi đồi.
Đồng bằng nhỏ hẹp.
Sông ngắn ít phù sa. Núi
non trùng điệp hướng ra
biển, có độ dốc.
Khí hậu
-


Hai mùa rõ rệt.
-
Khí hậu ôn hòa, thuận
lợi cho đời sống sinh hoạt
của người dân.
-
Khắc nghiệt, gây khó
khăn cho sản xuất và
sinh hoạt.
5
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
6
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
Chủ
thể
-
Nhiều tộc người cộng
cư [dân lưu tán từ thế
kỷ XVII].
-
Sống hòa đồng, luôn
tôn trọng sự khác biệt
và linh hoạt học hỏi.
-
Nguồn gốc chủ yếu là
người Thanh - Nghệ - Tĩnh
thiên di vào Bình Trị Thiên
từ thời Lý- Trần- Lê.
-
Sống định cư khép kín


theo kiểu truyền thống để
tồn tại. Không chấp nhận
việc ra khỏi làng cũng như
người khác đến định cư.
7
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
Chủ
thể
-
Điều kiện tự nhiên
thuận lợi hình thành tính
cách thoáng mở, dương
tính.
-
Phương tiện giao tiếp:
tiếng Việt miền Nam.
-
Âm tính.
-
Phương tiện giao tiếp:
tiếng Việt miền Bắc.
8
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
9
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
Thời
gian
-
Giao lưu văn hóa sớm
với phương Tây.


-
Lịch sử tộc người gắn
bó với các sinh hoạt văn
hoá dân gian nói chung.
1
0
II. NỘI DUNG [tiếp theo]

B. VĂN HÓA NHẬN THỨC, VĂN HÓA TỔ
CHỨC, VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA NGƯỜI VIỆT
TRONG SO SÁNH GIỮA MIỀN TÂY NAM BỘ
VÀ BẮC TRUNG BỘ
1
1
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
Nhận thức chung:
-
Tư duy chủ quan, cảm tính thiên về tổng hợp biện
chứng.
-
Tư duy theo triết lý âm dương.
 Văn hóa nhận thức
1
2
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
-
Trong nhận thức về cách
sống chịu ảnh hưởng của
quy luật âm dương,
chuộng sự hài hòa.


-
Ngoài nhận thức âm
dương, còn bao hợp cả
nhận thức trong không
gian văn hóa biển đảo,
văn hóa duyên hải, văn
hóa nông thôn – đồng
bằng và văn hóa miền núi
– trung du.
 Văn hóa nhận thức
1
3
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
-
Gia đình đóng vai trò
quan trong nhất:
“Việc nhà, việc nước”
-
Gia tộc: Không tồn tại gia
tộc nên không có trưởng
tộc, trưởng họ.
-
Vai trò làng xã, họ tộc lớn
hơn gia đình:
“Việc làng, việc nước”
-
Gia tộc chặt chẽ. Trưởng
tộc, trưởng họ có quyền lực
tối cao đối với gia tộc.
 Văn hóa tổ chức


1
4
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
* Nhận xét chung:
- Không bị ràng buộc
bởi tính lễ nghi phong
tục.
- Ít chịu ảnh hưởng của
Nho giáo.
-
Dân chủ, tình cảm.
* Nhận xét chung:
- Bị ràng buộc tuyệt đối
bới tính lễ nghi phong
tục. Các mối quan hệ
chặt chẽ, khuôn phép.
- Chịu ảnh hưởng nhiều
của Nho giáo.
-
Tôn ti, trật tự.
 Văn hóa tổ chức
1
5
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
Làng mở, đô thị và nông
thôn, coi trọng gia đình
và gia tộc rất nhẹ nhàng.
Ở rể là việc bình thường
“coi trọng con rể”.
Làng đóng, đô thị và


nông thôn, coi trọng gia
tộc. Việc ở rể bị mọi
người trong tộc cười
chê, vì “dâu là con, rể là
khách”.
Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
1
6
Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
Tín
ngưỡng
Thờ cọp [ông 30],
thờ cúng tổ tiên, thờ
Trời Đất, ông Địa và
ông thần Tài, Thành
hoàng, Bà Chúa Xứ,
cá Ông.
Thờ cọp [ông 30],
thờ cúng tổ tiên, thờ
thần rừng, thần núi,
thần biển, thờ Thành
hoàng, thờ Mẫu
[thánh mẫu Liễu
Hạnh].
1
7
Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
Tôn


giáo
- Bản địa: Đạo Bửu Sơn
Kỳ Hương và Tứ Ân
Hiếu Nghĩa, Tịnh Độ Cư
Sỹ, Phật Giáo Hòa Hảo,
Đạo Dừa, Đạo Cao Đài.
- Du nhập từ nước ngoài:
Phật giáo Nam Tông và
Bắc Tông, Tin Lành, Hồi
giáo, Thiên Chúa giáo.
- Bản địa: không có.
- Du nhập từ nước
ngoài: Phật giáo Bắc
Tông, Tin Lành, Hồi
giáo, Thiên Chúa
giáo.
1
8
Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
Phong
tục
- Hôn nhân: nhà gái
thách cưới cao và
bằng vàng, không
cần môn đăng hộ
đối, không có tục
nộp cheo cho làng,
lấy chồng ngoại rất
nhiều: Hàn Quốc,


Đài Loan, Trung
Quốc.
- Hôn nhân: coi
trọng môn đăng hộ
đối, ép buộc trong
việc sắp đặt kết hôn,
có tục nộp cheo cho
làng, hiện tượng lấy
chồng ngoại rất ít.
1
9
Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
Phong
tục
- Tang ma: tổ chức
theo các tôn giáo tùy
theo gia đình [Phật
giáo, Thiên chúa,
Tin Lành, Hòa Hảo,
Cao Đài…]
- Tang ma: tổ chức
không theo các tôn
giáo mà theo truyền
thống kinh nghiệm.
2
0
Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
Văn hóa


giao tiếp
Bộc trực và thẳng
thắn, hồn hậu và
chất phác, dân chủ
và bình đẳng, trọng
nữ cao, tính mở
thoáng.
Hồn hậu và chất
phác, dân chủ và
bình đẳng, trọng nữ
cao.
2
1
Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
Nghệ
thuật
ngôn từ
Tính hiếu cổ, tính
biểu cảm mạnh, diễn
đạt cụ thể, ưa giản
tiện, mức độ dung
hợp văn hóa đậm
nét.
Tính hiếu cổ, tính
biểu cảm mạnh, diễn
đạt cụ thể.
Nghệ
thuật
thanh


sắc
Hát hội, hò, lý, nói
thơ, đờn ca tài tử,
cải lương.
Ca Huế, ca trù, nhã
nhạc cung đình Huế,
hò ví dặm, nói thơ,
hò đưa linh, hò sông
Mã.
2
2
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
[Đờn ca tài tử]
[Nhã nhạc cung đình]
Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
2
3
 Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
Đối với
đất và nước
Tận dụng Đất và ứng phó Nước trong:
định cư, lập nghiệp, sản xuất, sinh hoạt,
đi lại, buôn bán.
Khí hậu,
thời tiết
Chống nắng nóng: trong ẩm thực, trang
phục, kiến trúc và chống thiên tai [lũ lụt,
hạn hán].
2


4
TÂY NAM BỘ BẮC TRUNG BỘ
- Dung hợp và mềm dẻo
trong tiếp nhận
- Khó tiếp nhận
- Hoà nhập văn hóa Việt với các dân tộc khác trên
mảnh đất này [song phương và đa phương].
- Giao lưu tiếp biến với văn hóa Phật, Nho giáo.
- Ứng xử với văn hóa Phương Tây.

 Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
2
5
III. KẾT LUẬN

Như vậy, việc so sánh vùng văn hóa Tây Nam Bộ
và Bắc Trung Bộ đã giúp chúng ta hiểu thêm về
vùng đất và con người Việt Nam, văn hóa Việt
Nam trong sự thống nhất và đa dạng.

Quá trình này cũng giống như việc chúng ta có
một viên ngọc quý nhiều sắc vẻ, nhiều góc
cạnh. Khi ta ngắm từng góc cạnh, phân tích
từng sắc vẻ sẽ thấy được cái toàn vẹn, cái
thống nhất rực rỡ bên trong viên ngọc đó.

[Doc] Vùng Văn Hóa Bắc Bộ – Vùng Văn Hóa Đồng Bằng Châu Thổ Bắc Bộ

You are watching: [Doc] Vùng Văn Hóa Bắc Bộ – Vùng Văn Hóa Đồng Bằng Châu Thổ Bắc Bộ in indembassyhavana

Vùng châu thổ Bắc Bộ là vùng đất lịch sử lâu đời của người Việt, nơi khai sinh của các vương triều Đại Việt, đống thời cũng là quê hương của các nền văn hóa Đông Sơn, Thăng Long – Hà Nội… Đây là cái nôi hình thành văn hóa, văn minh Việt từ buổi ban đầu và hiện tại cũng là vùng văn hóa bảo lưu được nhiều giá trị truyền thống hơn cả.Trên đường đi tới xây dựng một nền văn hóa hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc, vùng văn hóa này vẫn có những tiềm năng nhất định.

Đang xem: Vùng văn hóa bắc bộ

I – Đặc điểm môi trường tự nhiên xã hội

Đồng bằng Bắc Bộ là vùng đất mang nhiều nét truyền thống của văn hóa Việt Nam. Đây được coi là cái nôi của văn hoá-lịch sử dân tộc. Xét về lãnh thổ vùng này có nhiều ý kiến khác nhau nhưng hầu hết các ý kiến cho rằng vùng đồng bằng Bắc Bộ là khu vực của ba hệ thống sông lớn: sông Hồng, sống Thái Bình và sông Mã. Như vậy thì có thể xác định vùng văn hoá đồng bằng Bắc Bộ bao gồm: Hà Tây, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình; thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng; phần đồng bằng của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Vùng văn hoá có những điểm không đồng nhất với vùng hành chính, vùng quân sự… Việc xét Thanh-Nghệ-Tĩnh vào vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ là dựa trên những căn cứ về văn hoá và lịch sử. Về vị trí địa lí vùng châu thổ Bắc Bộ là tâm điểm của con đường giao lưu quốc tế theo hai trục chính : Tây-Đông và Bắc-Nam. Vị trí này khiến cho nó trở thành vị trí tiền đồn để tiến tới các vùng khác trong nước và Đông Nam Á, là mục tiêu xâm lược đầu tiên của tất cả bọn xâm lược muốn bành trướng thế lực vào lãnh thổ Đông Nam Á. Nhưng cũng chính vị trí địa lí này tạo điều kiện cho cư dân có thuận lợi về giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Về mặt địa hình, châu thổ Bắc Bộ là địa hình núi xen kẽ đồng bằng hoặc thung lũng, thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ độ cao 10 – 15m giảm dần đến độ cao mặt biển. Toàn vùng cũng như trong mỗi vùng, địa hình cao thấp không đều, tại vùng có địa hình cao vẫn có nơi thấp úng như Gia Lương [Bắc Ninh], có núi Thiên Thai, nhưng vẫn là vùng trũng, như Nam Định, Hà Nam là vùng thấp nhưng vẫn có núi như Chương Sơn, núi Đọi v.v… Mặt khác, khí hậu vùng Bắc Bộ thật độc đáo, khác hẳn những đồng bằng khác. Đồng bằng Bắc Bộ có một mùa đông thực sự với ba tháng có nhiệt độ trung bình dưới 18 độ, do đó mà có dạng khí hậu bốn mùa với mỗi mùa tương đối rõ nét, khiến vùng này cấy được vụ lúa ít hơn các vùng khác. Hơn nữa, khí hậu vùng này lại rất thất thường, gió mùa đông bắc vừa lạnh vừa ẩm, rất khó chịu, gió mùa hè nóng và ẩm . Một đặc điểm nữa là môi trường nước, đồng bằng Bắc Bộ có một mạng lưới sông ngòi khá dày, khoảng 0,5 – l,0km/km2, gồm các dòng sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, cùng các mương máng tưới tiêu dày đặc. Do ảnh hưởng của khí hậu gió mùa với hai mùa khô và mưa nên thủy chế các dòng sông, nhất là sông Hồng cũng có hai mùa rõ rệt : mùa cạn, dòng chảy nhỏ, nước trong và mùa lũ dòng chảy lớn, nước đục. Ngoài khơi, thủy triều vịnh Bắc Bộ theo chế độ nhật triều, mỗi ngày có một lần nước lên và một lần nước xuống. Chính yếu tố nước tạo ra sắc thái riêng biệt trong tập quán canh tác, cư trú, tâm lí ứng xử cũng như sinh hoạt cộng đồng của cư dân trong khu vực, tạo nên nền văn minh lúa nước, vừa có cái chung của văn minh khu vực, vừa có cái riêng độc đáo của mình.

II. Đặc trưng văn hoá vùng Châu thổ Bắc bộ Như đã trình bày ở trên, Bắc Bộ là cái nôi hình thành dân tộc Việt, vì thế, cũng là nơi sinh ra các nền văn hóa lớn, phát triển nối tiếp lẫn nhau : Văn hóa Đông Sơn, văn hóa Đại Việt và văn hóa Việt Nam. Từ trung tâm này, văn hóa Việt lan truyền vào Trung Bộ rồi Nam Bộ. Sự lan truyền ấy, một mặt chứng tỏ sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt, một mặt chứng tỏ sự sáng tạo của người dân Việt. Trong tư cách ấy, văn hóa châu thổ vùng Bắc Bộ có những nét đặc trưng của văn hóa Việt, nhưng lại có những nét riêng của vùng này

1. Đặc trưng môi trường xã hội Cư dân ở đồng bằng Bắc Bộ là cư dân sống với nghề trồng lúa nước, làm nông nghiệp một cách thuần túy. Biển và rừng bao bọc quanh đồng bằng Bắc Bộ nhưng từ trong tâm thức, người nông dân Việt Bắc Bộ là những cư dân “xa rừng nhạt biển” – chữ dùng của PGS, PTS Ngô Đức Thịnh- Nói khác đi là, người nông dân Việt Bắc Bộ là người dân đồng bằng đắp đê lấn biển trồng lúa, làm muối và đánh cá ở ven biển. Hàng ngàn năm lịch sử, người nông dân Việt không có việc đánh cá được tổ chức một cách quy mô lớn, không có những đội tàu thuyền lớn. Nghề khai thác hải sản không mấy phát triển. Các làng ven biển thực ra chỉ là các làng làm nông nghiệp, có đánh cá và làm muối.Ngược lại, Bắc Bộ là một châu thổ có nhiều sông ngòi, mương máng, nên người dân chài trọng về việc khai thác thủy sản. Tận dụng ao, hồ đầm để khai thác thủy sản là một phương cách được người nông dân rất chú trọng. Đã có lúc việc khai thác ao hồ thả cá tôm được đưa lên hàng đầu như một câu ngạn ngữ: nhất canh trì, nhì canh viên, ba canh điền. Dù sao, phương thức canh tác chính của cư dân đồng bằng sông Hồng vẫn là trồng lúa nước [khoảng 82% diện tích trồng trọt cây lương thực]. Tuy nhiên, cùng cây lúa, diện mạo cây trồng ở Bắc Bộ còn nhiều loại cây khác phù hợp với chất đất từng vùng và khí hậu từng mùa. Trong khi đó, đất đai ở Bắc Bộ không phải là nhiều, dân cư lại đông. Vì thế, để tận dụng thời gian nhàn rỗi của vòng quay mùa vụ, người nông dân đã làm thêm nghề thủ công. ở đồng bằng sông Hồng, trước đây, người ta đã từng đếm được hàng trăm nghề thủ công, có một số làng phát triển thành chuyên nghiệp với những người thợ có tay nghề cao. Một số nghề đã rất phát triển, có lịch sử phát triển lâu đời như nghề gốm, nghề dệt, luyện kim, đúc đồng .v.v… Mặt khác những người nông dân này lại sống quần tụ thành làng. Làng là đơn vị xã hội cơ sở của nông thôn Bắc Bộ, tế bào sống của xã hội Việt. Nó là kết quả của các công xã thị tộc nguyên thủy sang công xã nông thôn. Các vương triều phong kiến đã chụp xuống công xã nông thôn ấy tổ chức hành chính của mình và nó trở thành các làng quê. Tiến trình lịch sử đã khiến cho làng Việt Bắc Bộ là một tiểu xã hội trồng lúa nước, một xã hội của các tiểu nông, nói như PGS. Nguyễn Từ Chi một biển tiểu nông tư hữu. Về mặt sở hữu ruộng đất, suốt thời phong kiến, ruộng công, đất công nhiều là đặc điểm của làng Việt Bắc Bộ. Do vậy, quan hệ giai cấp ở đây “nhạt nhòa” – chữ dùng của PGS. Nguyễn Từ Chi, chưa phá vỡ tính cộng đồng, tạo ra một lối sống ngưng đọng của nền kinh tế tư cấp tự túc, một tâm lí bình quân, ảo tưởng về sự “bằng vai”, “bằng vế” như kiểu câu tục ngữ “giàu thì cơm ba bữa, khó thì đỏ lửa ba lần”. Sự gắn bó giữa con người và con người trong cộng đồng làng quê, không chỉ là quan hệ sở hữu trên đất làng, trên những di sản hữu thể chung như đình làng, chùa làng v.v…, mà còn là sự gắn bó các quan hệ về tâm linh, về chuẩn mực xã hội, đạo đức. Đảm bảo cho những quan hệ này là các hương ước, khoán ước của làng xã. Các hương ước, hay khoán ước này là những quy định khá chặt chẽ về mọi phương diện của làng từ lãnh thổ làng đến sử dụng đất đai, từ quy định về sản xuất và bảo vệ môi trư­ờng đến quy định về tổ chức làng xã, ý thức cộng đồng làng xã, vì thế trở thành một sức mạnh tinh thần không thể phủ nhận. Nhưng cũng vì thế mà cá nhân, vai trò cá nhân bị coi nhẹ. Chính những đặc điểm ấy của làng Việt Bắc Bộ sẽ góp phần tạo ra những đặc điểm riêng của vùng văn hóa Bắc Bộ.

2. Đặc trưng văn hoá vật chất

– Văn hoá cư trú [nhà ở]. Hàng ngàn năm lịch sử, người dân Việt đã chinh phục thiên nhiên, tạo nên một diện mạo, đồng bằng như ngày nay, bằng việc đào mương, đắp bờ, đắp đê. Biết bao cây số đê cũng được tạo dựng dọc các triền sông thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Nói cách khác, đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Thái Bình là kết quả của sự chinh phục thiên nhiên của người Việt. Trong văn hóa đời thường, sự khác biệt giữa văn hóa Bắc Bộ và các vùng khác trong cả nước chính được tạo ra từ sự thích nghi với thiên nhiên này. Nhà ở của cư dân Việt Bắc Bộ thường là loại nhà không có chái, hình thức nhà vì kèo phát triển. PGS, PTS. Nguyễn Khắc Tụng đã thống kê được 10 loại nhà vì kèo khác nhau, sử dụng vật liệu nhẹ là chủ yếu nhưng cũng tiếp thu kĩ thuật và sử dụng các vật liệu bền như xi măng, sắt thép. Người nông dân Bắc Bộ thường muốn xây dựng ngôi nhà của mình theo kiểu bền chắc, to đẹp, tuy nhiên vẫn hòa hợp với cảnh quan.

– Văn hoá ẩm thực [ăn – uống]. Thường là người Việt Bắc Bộ muốn trồng cây cối quanh nơi cư trú, tạo ra bóng mát cho ngôi nhà ăn uống của cư dân Việt trên châu thổ Bắc Bộ vẫn như mô hình bữa ăn của người Việt trên các vùng đất khác : cơm + rau + cá, nhưng thành phần cá ở đây chủ yếu hướng tới các loại cá nước ngọt. Hải sản đánh bắt ở biển chủ yếu giới hạn ở các làng ven biển, còn các làng ở sâu trong đồng bằng, hải sản chưa phải là thức ăn chiếm ưu thế. Cư dân đô thị, nhất là Hà Nội, ít dùng đồ biển hơn cư dân ở các đô thị phía Nam như Huế, Nha Trang, Sài Gòn. Thích ứng với khí hậu ở châu thổ Bắc Bộ, người Việt Bắc Bộ có chú ý tăng thành phần thịt và mỡ, nhất là mùa đông lạnh, để giữ nhiệt năng cho cơ thể. Các gia vị có tính chất cay, chua, đắng, quen thuộc với cư dân Trung Bộ, Nam Bộ lại không có mặt trong bữa ăn của người Việt Bắc Bộ nhiều lắm.

– Văn hoá trang phục. Cách mặc của người dân Bắc Bộ cũng là một sự lựa chọn, thích ứng với thiên nhiên châu thổ Bắc Bộ đó là màu nâu. Đàn ông với y phục đi làm là chiếc quần lá tọa, áo cánh màu nâu sống. Đàn bà cũng chiếc váy thâm, chiếc áo nâu, khi đi làm. Ngày hội hè, lễ tết thì trang phục này có khác hơn: đàn bà với áo dài mớ ba mớ bảy, đàn ông với chiếc quần trắng, áo dài the, chít khăn đen. Ngày nay y phục của người Việt Bắc Bộ đã có sự thay đổi khá nhiều.

Xem thêm: Bài Viết Về Lễ Hội Halloween [2 Mẫu], Viết Một Đoạn Văn Về Lễ Halloween Bằng Tiếng Anh

– Di sản vật thể khác. Nói tới văn hóa ở châu thổ Bắc Bộ là nói tới một vùng văn hóa có một bề dày lịch sử cũng như mật độ dày đặc của các di tích văn hóa. Các di tích khảo cổ, các di sản văn hóa hữu thể tồn tại ở khắp các địa phương. Đền, đình, chùa, miếu v.v…, có mặt ở hầu khắp các địa bàn, tận các làng quê. Nhiều di tích nổi tiếng không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài như đền Hùng, khu vực Cổ Loa, Hoa Lư, Lam Sơn, phố Hiến, chùa Dâu, chùa Hương, chùa Tây Phương, đình Tây Đằng v.v…

3. Đặc trưng văn hoá tinh thầnCùng với các di sản văn hóa hữu thể, các di sản văn hóa vô thể của đồng bằng Bắc Bộ cũng khá đa dạng và phong phú.

Kho tàng văn học dân gian Bắc Bộ có thể coi như một loại mỏ với nhiều khoáng sản quý hiếm. Từ thần thoại đến truyền thuyết, từ ca dao đến tục ngữ, từ truyện cười đến truyện trạng,mỗi thể loại đều có một tầm dày dặn, mang nét riêng của Bắc Bộ, chẳng hạn truyện trạng ở Bắc Bộ như truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn v..v.. sử dụng các hình thức câu đố, câu đối, nói lái, chơi chữ nhiều hơn truyện trạng ở các vùng khác. Có những thể loại chỉ ở Bắc Bộ mới tồn tại, kiểu như thần thoại. Ca dao xứ Bắc trau chuốt, tỉa gọt hơn ca dao Nam Bộ. Các thể loại thuộc nghệ thuật biểu diễn dân gian cũng khá đa dạng và mang sắc thái vùng đậm nét. Đó là hát quan họ, hát xoan, hát trống quân, hát chầu văn, hát chèo, múa rối v.v… Đáng kể nhất là những sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân Việt Bắc Bộ. Mọi tín ngưỡng của cư dân trồng lúa nước như thờ Thành hoàng, thờ Mẫu, thờ các ông tổ nghề v.v…, có mặt trên hầu khắp các làng quê Bắc Bộ. Các tín ngưỡng này tiềm ẩn trong tâm thức con người và tồn tại trong lễ Hội – một ra thành lễ hội mùa xuân, một ra thành lễ hội mùa thu. Dù thuộc loại nào, khởi nguyên, các lễ hội ấy đều là các hội làng của cư dân nông nghiệp, nói khác đi là các lễ hội nông nghiệp. Tiến trình lịch sử đã lắng đọng ở đây những lớp văn hóa, khiến cho trên lát cắt đồng đại, khó nhận ra gương mặt ban đầu của lễ – hội nông nghiệp. Tuy nhiên, những trò diễn trong các lễ hội vẫn gợi lại các nghi lễ nông nghiệp. Chẳng hạn như các lễ thức thờ Mẹ Lúa, cầu mưa, thờ thần mặt trời, các trò diễn mang tính chất phồn thực như múa gà phủ, múa các vật biểu trưng âm vật, dương vật v.v… Chính vì vậy mà lễ hội ở đồng bằng Bắc Bộ có thể ví như một bảo tàng văn hóa tổng hợp lưu giữ khá nhiều các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp. Với cư dân ở làng quê Việt Bắc Bộ, lễ hội là môi trường cộng cảm văn hóa, “công mệnh” – chữ dùng của PGS, PTS. Ngô Đức Thịnh – về mặt tâm linh. Cùng với văn hoá dân gian, vùng châu thổ Bắc Bộ theo GS. Đinh Gia Khánh còn là “nơi phát sinh nền văn hóa bác học” . Sự phát triển của giáo dục, truyền thống trọng người có chữ trở thành nhân tố tác động tạo ra một tầng lớp trí thức ở Bắc Bộ. Thời tự chủ, Thăng Long với vai trò là một kinh đô cũng đảm nhận vị trí một trung tâm giáo dục. Năm 1078, Văn Miếu đã xuất hiện, năm 1076 đã có Quốc Tử Giám, chế độ thi cử để kén chọn người hiền tài v.v.. đã tạo ra cho xứ Bắc một đội ngũ trí thức đông đảo, trong đó có nhiều danh nhân văn hóa tầm cỡ trong nước, ngoài n­ước. GS. Đinh Gia Khánh nhận xét : “Trong thời kì Đại Việt, số người đi học, thi đỗ ở vùng đồng bằng miền Bắc tính theo tỉ lệ dân số thì cao hơn rất nhiều so với các nơi khác. Trong lịch sử 850 năm [l065-1915] khoa cử dưới các triều vua, cả nước có 56 trạng nguyên thì 52 người là ở vùng đồng bằng miền Bắc”. Thời thuộc Pháp, Hà Nội là nơi có các cơ sở giáo dục, khoa học, thu hút các trí thức mọi vùng. ở thời hiện đại, PGS, PTS. Ngô Đức Thịnh nhận xét : “Với đội ngũ trí thức mới, không những ở đây là nơi đầu mối các trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học [90% các viện nghiên cứu và 64% các trường đại học], mà đội ngũ trí thức cũng tập trung đông đảo nhất, chiếm 57% tổng số trí thức cả nước.!”Lễ hội đồng bằng Bắc bộ

Chính sự phát triển của giáo dục ở đây tạo ra sự phát triển của văn hóa bác học, bởi chủ thể sáng tạo nền văn hóa bác học này chính là đội ngũ trí thức được sinh ra từ nền giáo dục ấy Đội ngũ này, tiếp nhận vốn văn hóa dân gian, vốn văn hóa bác học Trung Quốc, Ấn Độ, phương Tây, tạo ra dòng văn hóa bác học. Xin đơn cử, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ chính là sản phẩm được tạo ra từ quá trình sáng tạo của trí thức, thể hiện rõ đặc điểm này. nói đến văn hóa bác học, không thể không kể đến văn học nghệ thuật. Những tác giả như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương v.v… đều trưởng thành và gắn bó với vùng văn hóa này.

Hơn nữa, nói tới vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ, là nói tới một vùng văn hóa mà quá trình tiếp biến văn hóa diễn ra lâu dài hơn cả và với nội dung phong phú hơn cả. Thực ra, quá trình tiếp biến văn hóa là đặc điểm chung của văn hóa Việt Nam, hay nói như trây là sự không chối từ, nhưng ở châu thổ Bắc Bộ, nhận xét của GS. Đinh Gia Khánh là nhận xét đúng.

Thời tiền sử và sơ sử, thời tự chủ, việc tiếp thu văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ trên địa bàn Bắc Bộ, có những nét riêng do vị thế địa – văn hóa, địa chính trị của nó quyết định. Thời thuộc Pháp, đồng bằng Bắc Bộ cũng là một trong những vùng chịu ảnh hưởng văn hóa phương Tây đậm nét hơn cả. Có thể đơn cử sự tiếp nhận Phật giáo của cư dân Việt Bắc Bộ. Là một tôn giáo sinh ra ở Ấn Độ, vào Bắc Bộ, Phật giáo đã chịu ảnh hưởng của các tín ngưỡng dân gian bản địa, đã bản địa hóa thành Phật giáo dân gian. Sự phát triển của Phật giáo ở Bắc Bộ, vì thế sẽ khác với Phật giáo ở Nam Bộ.Đồng thời với đặc điểm Bắc Bộ là cội nguồn văn hóa của các vùng Trung Bộ, Nam Bộ, và từ vùng đất cội nguồn này, văn hóa Việt phát triển ở mọi vùng khác. Vai trò “hướng đạo” của vùng văn hóa Bắc Bộ cũng rất rõ, khi đặt trong t­ơng quan với các vùng văn hóa khác.

Xem thêm: Tài Liệu Đặc Điểm Của Nông Lâm Thủy Sản Có Mấy Đặc Điểm Cơ Bản?

Tóm lại, vùng châu thổ Bắc Bộ là vùng đất lịch sử lâu đời của người Việt, nơi khai sinh của các vương triều Đại Việt, đống thời cũng là quê hương của các nền văn hóa Đông Sơn, Thăng long – Hà Nội. Đây là cái nôi hình thành văn hóa, văn minh Việt từ buổi ban đầu và hiện tại cũng là vùng văn hóa bảo lưu được nhiều giá trị truyền thống hơn cả. Trên đường đi tới xây dựng một nền văn hóa hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc, vùng văn hóa này vẫn có những tiềm năng nhất định.

See more articles in category: FAQ

About admin

View all posts by admin | Website

ĐỐI SÁNH LÀNG VIỆT BẮC BỘ VÀ LÀNG VIỆT NAM BỘ

Thứ ba - 25/09/2018 18:56

ThS. Nguyễn Thị Nhung

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho đến nay, làng luôn đóng vai trò quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Làng có vị trí đặc biệt đối với lịch sử đất nước nói chung và đối với mỗi người dân Việt Nam nói riêng. Làng là cơ sở, nền tảng của văn hóa, văn minh Việt. Đó là một đơn vị kinh tế xã hội độc lập nhưng không tách rời môi trường trồng lúa nước ở vùng nhiệt đới gió mùa. Làng Việt phát triển phong phú, đa dạng: làng Việt Bắc Bộ, Nam Bộ, Trung Bộ và mỗi vùng lại có những tiểu vùng riêng mà ở đó các làng Việt vừa chứa đựng những đặc điểm giống nhau đồng thời lại ẩn chứa nét riêng.

2. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Do các điều kiện, nhân tố khác nhau nên sự hình thành các làng Việt diễn ra ở các giai đoạn lịch sử, ở các vùng, tiểu vùng là khác nhau. Trong bài nghiên cứu này, tác giả xin đề cập những đặc trưng nổi bật nhất nhằm nhận diện, khu biệt làng Việt Bắc Bộ và làng Việt Nam Bộ.
2.1. Tuổi đời của làng
Làng Việt Bắc Bộ có lịch sử tồn tại lâu đời. Cách ngày nay khoảng 4000 năm, trên đất Bắc đã diễn ra quá trình tan rã của công xã thị tộc và thay vào đó là công xã nông thôn. Đây chính là quá trình hình thành làng Việt. Mỗi làng bao gồm một số gia đình sống quây quần trong một khu vực địa lý nhất định. Và ở đây, bên cạnh quan hệ địa lý – quan hệ láng giềng, quan hệ huyết thống được bảo tồn và củng cố đã tạo thành kết cấu vừa làng vừa họ rất đặc trưng cho làng của người Việt ở Bắc Bộ.
So với làng Việt Bắc Bộ, tuổi đời của làng Việt Nam Bộ ít hơn rất nhiều. Làng Việt ở Nam Bộ mới chỉ khoảng ba trăm tuổi, được tạo lập từ khi người Việt tới khai phá trong quá trình Nam tiến, mở rộng biên cương, xác lập chủ quyền. Người Việt đã có mặt ở vùng đất Nam Bộ trước thế kỷ XVII, nhưng lúc đó chưa đủ điều kiện để hình thành làng. Đến giai đoạn sau, nhất là khi Nguyễn Hữu Cảnh được chúa Nguyễn cử vào thiết lập bộ máy hành chính ở Đồng Nai – Gia Định [1698] thì việc hình thành làng Việt mới có những điều kiện thuận lợi. Làng Việt Nam Bộ ra đời trong bối cảnh xã hội Việt Nam đã phong kiến hóa mạnh mẽ, do đó có khác biệt so với làng Bắc Bộ. Ở Nam Bộ, không làng Việt nào có nguồn gốc từ thời nguyên thủy. Làng Việt Nam Bộ được hình thành trong quá trình khai phá nên rất nhiều làng có nguồn gốc là các đồn điền.
Có thể thấy làng Việt ở đồng bằng Bắc Bộ ra đời sớm hơn làng Việt Nam Bộ rất nhiều. Một bên là lịch sử tồn tại hàng nghìn năm còn một bên là làng Việt trên mảnh đất mới Nam Bộ mới chỉ tầm 300 năm tuổi.
2.2. Nguồn gốc hình thành và cách đặt tên làng
Đi liền với tuổi làng là khác biệt về sự hình thành và cách đặt tên làng.
Trước hết là làng Việt Bắc Bộ, làng được hình thành theo 3 cách: Thứ nhất, tan rã từ xã hội nguyên thủy; thứ hai hình thành từ việc định cư của một dòng họ, thứ ba là do vai trò của nhà nước. Rât nhiều làng Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ có nguồn gốc từ thời nguyên thủy. Các làng này vẫn mang nặng những tàn dư nguyên thủy với bộ phận đất công không nhỏ. Bên cạnh đó là sự hiện diện của các làng Việt từ việc khai khẩn của một hoặc nhiều dòng họ. Dân cư của một làng thường phát triển bởi sự tăng lên của các thành viên trong dòng họ. Theo thống kê ở miền Bắc có tới 192 họ đã được đặt tên cho làng. Trong đó hầu hết các trường hợp lấy tên họ đặt tên làng, mỗi tên một dòng họ thường chỉ dùng đặt tên cho một làng. Riêng họ Nguyễn được dùng để đặt đặt tên cho gần 50 làng. Cũng có những trường hợp tên làng do hai họ kết hợp lại để hình thành... như làng Đoàn – Đào ở Hưng Yên là sự kết hợp của hai dòng họ [1]. Bộ phận làng còn lại, chiếm số lượng khiêm tốn là các làng do nhà nước giữ vai trò chủ chốt trong việc phá hoang lập ấp. Những làng thuộc loại này chủ yếu hình thành ở các vùng ven biển. Tiêu biểu là các làng mới tại hai huyện Tiền Hải [Thái Bình] và Kim Sơn [Ninh Bình].
Xét về tên gọi, đa phần các làng Việt Bắc Bộ đều có tên Nôm phản ánh những đặc điểm tự nhiên, xã hội nơi cộng đồng đó cư trú. Những tên làng đó hiện nay vẫn còn tồn tại song song với những tên làng mới - tên chữ Hán – Việt được dùng trong hành chính [trong dân gian cư dân vẫn gọi tên làng theo tên cũ].
Ở Nam Bộ, không có sự hiện diện của các làng tan rã từ xã hội nguyên thủy mà làng chủ yếu hình thành theo 2 hướng: Một là do dân tự khai phá; hai là do sự hỗ trợ của chính quyền. Nhà nước tổ chức các làng đồn điền rồi huy động nhân dân, nhất là binh lính đến làm việc theo kỷ luật để duy trì quân đội với chính sách "ngụ binh ư nông". Dân cư trong làng Việt Nam Bộ được tập hợp từ nhiều nơi khác nhau, từ nhiều dòng họ khác nhau. Do vậy làng Việt Nam Bộ có thể gọi là làng khai phá. Ở Nam Bộ không có sự phân biệt chính cư và ngụ cư như trong làng Việt Bắc Bộ, tính cố kết không chặt chẽ. Những người trong cùng một làng không có quan hệ thân tộc cũng không phải là láng giềng lâu đời, sợi dây gắn bó giữa họ là tình người.
Các làng Việt Nam Bộ không có làng nào lấy tên họ đặt cho tên làng dù trong việc lập làng vai trò của cá nhân là rất quan trọng. Lí giải điều này có lẽ vì những người cùng nhau lập làng thuộc nhiều dòng họ. Người có công lập làng thì đã được nhà nước ban thưởng và vì thế không lấy tên của họ đặt tên cho làng. Tên gọi các làng Việt Nam Bộ thường là từ Hán – Việt mang ý nghĩa tốt đẹp như: an, bình, lợi, phú, lộc... Làng Việt Nam Bộ chỉ có tên chữ mà không có tên Nôm như làng Bắc Bộ.
2.3. Hình thái cư trú
Làng Việt Bắc Bộ thường bố trí theo ba hình thái: lối co cụm, từng khối, hoặc dọc theo ven sông hay ở men theo hai bờ sông trong đó tổ chức theo lối co cụm là phổ biến.[2, tr.132] Chính cách tổ chức làng như vậy đã tạo nên những ốc đảo, khu vực không gian cư trú riêng của mỗi làng. Và từ đặc điểm cư trú đó kéo theo hoạt động kinh tế khá khép kín, khác biệt văn hóa làng tại đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.
Đối với làng Việt Nam Bộ có các hình thái cư trú ven sông rạch, hình thái cư trú dọc kênh đào, hình thái cư trú tập trung nhưng lại cư trú trên diện rộng. Nói một cách khác, làng Nam Bộ được phân bố theo dạng kéo dài, “dọc tia tỏa tuyến”, lấy kênh mương hay đường giao thông làm trục. Làng Nam Bộ kéo dài nên không có lũy tre bao quanh, không thành một quần thể khu biệt với các làng khác như làng Việt ở đồng bằng Bắc Bộ. Và do cư trú trong không gian mở với ưu đãi của thiên nhiên nên làng Việt Nam Bộ dễ biến đổi dân số hơn đồng thời người dân không có thói quen tích trữ, phòng cơ mà luôn gắn bó với thị trường, tạo nên nền kinh tế hàng hóa. Người Nam Bộ yêu thích buôn bán, họ mở rộng giao lưu với tất cả các vùng, trở thành đầu mối giao dịch với các nơi trên thế giới. Sự phát triển kinh tế hàng hóa tạo cho làng Việt Nam Bộ một diện mạo năng động. Đặc trưng này cùng với tính chất không khép kín khiến người nông dân trên đồng bằng sông Cửu Long có điều kiện vươn ra những chân trời mới, rộng mở mà không bị bó buộc trong lũy tre làng như người dân Bắc Bộ.
2.4. Cơ cấu tổ chức làng
Trong cơ cấu tổ chức làng Việt Bắc Bộ có nét khác với làng Việt Nam Bộ đó là có sự hiện diện của cả tổ chức quan phương và cả tổ chức phi quan phương. Các tổ chức quan phương do Nhà nước đặt lên các làng, theo những quy định chung và có sự thống nhất của toàn bộ vùng đồng bắng Bắc Bộ theo tổ chức và nhiệm vụ quản lý. Thông qua các tổ chức ở mỗi làng, Nhà nước thể hiện quyền lực đến các công dân của mình. Tổ chức phi quan phương không nằm trong hệ thống của bộ máy hành chính, nó ẩn trong các làng Việt và vận hành theo những nét rất riêng của từng loại tổ chức. Làng Việt Bắc Bộ gồm đầy đủ các kiểu tập hợp theo khu vực như đường dong, ngõ xóm, theo mục tiêu văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng… hay các tập hợp theo mục tiêu kinh tế như: hội cấy, hội cày, hội buôn, phường hội thủ công… Các hội này có mục tiêu và nội dung riêng nhưng trong thực tế đã hòa quyện vào nhau, chồng xếp lên nhau tạo thành những sợi dây chằng chịt, ràng buộc người nông dân trong làng xã. Trong làng, người nông dân không chỉ tồn tại với tư cách công dân của đất nước mà còn đảm nhiệm tư cách là thành viên của một gia đình, một dòng họ, một cộng đồng làng.
Ở các làng Việt Nam Bộ, các tổ chức phi quan phương không có điều kiện phát triển, nếu có cũng thể hiện rất yếu ớt. Bởi lẽ đó là các làng khai phá, các thành viên được tập hợp từ các nơi khác nhau nên mối quan hệ thân tộc không có cơ sở thể hiện. Một thực tế là không làng Nam Bộ nào có giáp. Ở làng Nam Bộ ta có thể gặp một tổ chức là họ. Tuy nhiên sự tập hợp người theo huyết thống này không có tính cố kết chặt chẽ như ở đồng bằng sông Hồng. Nếu như ở Bắc Bộ, tổ chức họ được khẳng định bằng việc thờ phụng tổ tiên, có quy ước cho mọi thành viên, có nhà thờ họ thì ở Nam Bộ cũng hình thái thờ phụng lại chủ yếu là hoạt động trong từng gia đình nhỏ.
Điều đặc biệt tạo nên sự khác biệt lớn là làng Việt Bắc Bộ là sự vận hành của hương ước. Hầu hết các làng Việt Bắc Bộ đều có hương ước. Hương ước của từng làng tác động trực tiếp đến các thành viên của làng. Còn đối với làng Việt Nam Bộ thì không có hương ước, các làng ngay từ khi hình thành đã chịu sự quản lý trực tiếp của nhà nước.
Như vậy, xét trên phương diện quản lý, sự ràng buộc các thành viên ở các làng Việt Bắc Bộ chặt chẽ hơn so với các làng Việt Nam Bộ. Đồng thời làng Việt Bắc Bộ lại nhiều lệ làng, ít cởi mở, năng động so với làng Việt Bắc Bộ.

3. KẾT LUẬN
Có thể nói, làng Việt Bắc Bộ hình thành lâu đời, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, ổn định, khép kín, bền vững trên cơ sở liên kết nhiều tổ chức mà mỗi tổ chức đều có ảnh hưởng đến từng thành viên trong làng. Người nông dân sống gắn bó chặt chẽ với xóm giềng, họ tộc, gia đình, làng nước. Còn làng Việt ở Nam Bô là làng khai phá, tuổi đời còn trẻ, định cư kéo dài trên diện rộng nên thiếu chất kết dính đồng thời do sớm tiếp xúc với nền kinh tế hàng hoá nên phóng khoáng và năng động hơn.
Đặc điểm của làng Việt Bắc Bộ và Nam Bộ thể hiện cho hai vùng văn hóa lớn ở Việt Nam: vùng đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Nam Bộ vốn chứa đựng những nét văn hóa độc đáo, đa dạng nhưng vẫn nằm trong thể thống nhất là văn hóa Việt Nam. Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn...; cả làng Việt Bắc Bộ và Nam Bộ đều biến đổi không ngừng, mau lẹ. Đó là một quy luật tất yếu, phù hợp với sự phát triển, giao lưu, hội nhập của văn hóa Việt, đất nước và con người Việt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Văn Lệ, 2/5/2012, Làng và quan hệ dòng họ người Việt ở Nam Bộ, nguồn: //www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-nam-bo/2206-ngo-van-le-lang-va-quan-he-dong-ho-cua-nguoi-viet-nam-bo.html.
2. Lê Ngọc Trà [tập hợp và giới thiệu], 2003, Văn hóa Việt Nam đặc trưng và cách tiếp cận, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
3. Nguyễn Quang Ngọc, 2009, Một số vấn đề làng xã Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. GS. TSKH Trần Ngọc Thêm, 30/11/2011, Văn hóa làng Việt Nam hôm qua và hôm nay, nguồn: //www.nhandan.com.vn/cuoituan/doi-song-van-hoa/item/13594002-.html.
Bài đăng trên Tạp chí Khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, số 36 [4/2015], tr 73-78]

1. Vùng vănhóa Tây Bắc

Gồm các tỉnh Lai Châu, Lào Cao, Sơn La, Yên Bái và một phần tỉnh Hòa Bình, hiện có hơn hai mươi tộc người cùng cư trú xen cài với nhau, nhưng trong đó tộc Thái [với những yếu tố tiếp biến từ văn hóa Đông Nam Á] nổi lên như một sắc thái đại diện cho văn hóa Tây Bắc. Từ điều kiện cảnh quan, môi trường sống đã tạo nên những nét đặc trưng, cả về vật chất dẫn tinh thần, cho văn hóa vùng này. Các tộc người trong vùng đều có tín ngưỡng ''vạn vật hữu linh'' và tín ngưỡng nông nghiệp. Trong xã hội cổ truyền Tây Bắc tuy chưa có văn hóa chuyên nghiệp [bác học], nhưng mỗi tộc người đều có một kho văn hóa nghệ thuật riêng với ngôn từ giàu có và đủ thể loại, nghệ thuật múa dân tộc cũng là một nét đặc trưng của vùng Tây Bắc [''xoè'' Thái đã trở thành biểu tượng văn hóa Tây Bắc], âm nhạc và ca hát ở đây cũng rất đặc biệt: Hệ nhạc cụ hơi có lưỡi gà bằng tre, bằng đồng, hoặc bằng bạc... không thấy hoặc ít thấy ở các vùng khác, thơ ca Tây Bắc được sáng tác để hát chứ không phải để đọc, nghệ thuật trang trí trang phục đã ở một trình độ cao. Giao lưu văn hóa giữa các tộc người trong vùng diễn ra rất tự nhiên.

2. Vùng văn hóa Việt Bắc

Gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Thái, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, phần đồi núi Phú Thọ, Bắc Giang và tỉnh Quảng Ninh. Cư dân chủ yếu của vùng Việt Bắc là người Tày - Nùng, ngoài ra còn có các tộc khác như H'Mông, Dao, Hoa, Lô Lô, Sán Chày..., nhưng trong đó văn hóa Tày - Nùng giữ vai trò chủ thể và có ảnh hưởng tới văn hóa của các tộc người khác. Do vị trí địa lý - lịch sử mà từ lâuvùng đất này đã gắn bó chặt chẽ với trung tâm đất nước, với người Việt ở châu thổ Bắc Bộ. Đồng thời đây cũng là vùng cửa ngõ, hành lang giao lưu văn hóa giữa nước ta với phía Bắc, nên bên cạnh những ảnh hưởng văn hóa của người Kinh thì còn thấy rõ thống ảnh hưởng của văn hóa Hán. Những đặc trưng văn hóa chung của vùng được thể hiện qua nếp sống lâu đời của các cư dân ở đây, qua các phương thức lao động, qua cách ứng xử với môi trường tự nhiên, qua các thói quen trong sinh hoạt [ăn, mặc, ở, đi lại] của họ. Tín ngưỡng của các cư dân ở đây pha trộn giữa tín ngưỡng dân gian [tín ngưỡng nông nghiệp, thờ cúng tổ tiên...] với các ảnh hưởng Đạo giáo, Phật giáo và Khổng giáo.

Các sinh hoạt văn hóa cộng đồng thể hiện tập trung ở các lễ hội cổ truyền [mà điển hình là hộiLồng tồng- hội xuống đồng], và sinh hoạt văn hóa chợ, đây là một sinh hoạt văn hóa đặc thù ở vùng Việt Bắc. Các thể loại văn học dân gian Việt Bắc khá đa dạng và phong phú. Một điều đáng chú ý nữa là tầng lớp tri thức Tày Nùng hình thành từ rất sớm đầu tiên là các trí thức dân gian [như các thày Mo, Then, Tào, Pụt] và sau đó là tầng lớp trí thức Nho học, rồi Tây học. Ngày nay việc đào tạo trí thức, cán bộ khoa học cho Việt Bắc cũng được Nhà nước ta rất chú ý.

Giới thiệu về vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ

Khi nói vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ là nói tới vùng văn hóa thuộc địa phận các tỉnh bao gồm: Hà Tây; Nam Định; Hà Nam; Hưng Yên; Hải Dương; Thái Bình; thành phố Hà Nội; Hải Phòng; phần đồng bằng của các tỉnh Phú Thọ; Vĩnh Phúc; Bắc Ninh; Bắc Giang; Ninh Bình; Thanh Hóa; Nghệ An; Hà Tĩnh. Cũng cần lưu ý thêm về Nghệ An, Hà Tĩnh ngay từ thời văn minh Văn Lang – Âu Lạc, thậm chí ngược lên xa hơn; Nghệ An – Hà Tĩnh vẫn gắn bó với Bắc Bộ.

Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ nằm giữa lưu vực những dòng sông Hồng, sông Mã. Đây là vùng văn hoá đúng như PGS. TS. Ngô Đức Thịnh nhận xét “Trong các sắc thái phong phú và đa dạng của văn hóa Việt Nam; đồng bằng Bắc Bộ như là một vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc.”

Video liên quan

Chủ Đề