So sánh từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng hán và tiếng việt

So sánh từ, ngữ chỉ màu sắc trong tiếng hán và tiếng việt [về vài đặc điểm ngôn ngữ - văn hoá]

  • pdf
  • 167 trang
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC VÀ XÃ HỘI NHÂN VĂN

PHƯƠNG THẦN MINH

SÓ SÁNH TỪ, NGỮ CHỈ MÀU SẮC
TRONG TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT
[VỀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ -- VĂN HOÁ ]

CHUYÊN HÀNH: LÍ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số: 50408

luËn v¨n th¹c sÜ ng÷ v¨n

Hµ Néi - 2005

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC VÀ XÃ HỘI NHÂN VĂN

PHƯƠNG THẦN MINH

SÓ SÁNH TỪ, NGỮ CHỈ MÀU SẮC
TRONG TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT
[VỀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ -- VĂN HOÁ ]
CHUYÊN HÀNH: LÍ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số: 50408

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học :
Pgs. Ts . ®µo thanh lan

hµ néi - 2005

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Ý nghĩa và mục đích của luận văn...............................................................................4
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..............................................................................5
3. Nhiệm vụ của luận văn .. ................................................................................... .........5
4. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................6
5. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................................6

Chương I So sánh khái quát về ý nghĩa và số lƣợng của từ chỉ màu sắc trong
tiếng Hán và tiếng Việt
I. Cơ sở lý luận về từ chỉ màu sắc..................................................................................7
1.1. Khái quát về từ chỉ màu sắc......................................................................................7
1.2. Nguồn gốc của từ chỉ màu sắc..................................................................................8
1.3.Vai trò của từ chỉ màu sắc.........................................................................................10
1.4. Phân loại từ chỉ màu sắc .........................................................................................12
1.4.1. Phân loại từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán ..........................................................12
1.4.2. Phân loại từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt...........................................................18
II. So sánh khái quát về ý nghĩa và số lƣợng của từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán
và tiếng Việt........................................................................................................................20
2.1. Bảng thống kê những từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán .........................................20
2.2.Bảng tổng hợp thống kê từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán và tiếng Việt ...............69
3. So sánh về ý nghĩa và số lượng của từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán và tiếng
Việt........................................................................................................................................73

1

Chương II Đặc điểm ngữ pháp của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Hán và tiếng
Việt .......................................................................................................................................75
2.1. Đặc điểm cấu tạo của từ chỉ màu sắc tiếng Hán ...................................................75
2.1.1. Từ đơn ...................................................................................................................75
2.1.2. Từ hợp hành .........................................................................................................75
2.2. Đặc điểm ngữ pháp của những từ chỉ màu sắc tiếng Hán....................................79
2.2.1 Từ chỉ màu sắc làm tính từ ...................................................................................79
2.2.2. Từ chỉ màu sắc làm danh từ ................................................................................80
2.2.3. Tính chất ngữ pháp của từ chỉ màu sắc mang tính tính từ ................................81
2.2.4. Tính chất ngữ pháp của từ chỉ màu sắc mang tính danh từ ..............................83
2.3. Đặc điểm cấu tạo của các từ chỉ màu sắc tiếng Việt ............................................85
2.3.1. Từ chỉ màu phụ có hình thức cấu tạo là từ ghép ..............................................85
2.3.2. Từ chỉ màu phụ có hình thức cấu tạo là từ láy ..................................................86
2.3.3. Từ chỉ màu phụ có hình thức cấu tạo là dạng chuyển nghĩa hoán
dụ...............87
2.4. Đặc điểm ngữ pháp của những từ chỉ màu sắc tiếng Việt ...................................87
2.4.1. Đặc điểm ngữ pháp của từ chỉ màu mang tính danh từ ....................................87
2.4.2. Đặc điểm ngữ pháp từ chỉ màu mang tính tính từ .............................................88
2.5. Những điểm giống nhau về các hình thức cấu tạo từ chỉ màu sắc của tiếng Hán
và tiếng Việt ........................................................................................................................89
2.6. Những điểm khác nhau về các hình thức cấu tạo từ chỉ màu sắc của tiếng Hán


tiếng

Việt..............................................................................................................................90
2.7. Những điểm khác nhau và giống nhau về đặc điểm ngữ pháp của từ chỉ màu sắc

2

trong tiếng Hán và tiếng Việt ............................................................................................90

Chương III So sánh đặc trưng văn hoá dân tộc của từ chỉ màu sắc Ở tiếng Hán và
tiếng Việt..........................................................................................................................91
3.1. Quan niệm màu sắc của người Hán ......................................................................91
3.1.1. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu đỏ Ở tiếng Hán ........................................93
3.1.2. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu vàng Ở tiếng Hán ....................................96
3.1.3. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu xanh Ở tiếng Hán ....................................98
3.1.4. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu đen Ở tiếng Hán .......................................99
3.1.5. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu trắng Ở tiếng Hán ..................................101
3.2. Quan niệm màu sắc của người Việt .....................................................................104
3.2.1. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu đỏ Ở tiếng Việt .......................................105
3.2.2. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu vàng Ở tiếng Việt ................................. 107
3.2.3. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu xanh Ở tiếng Việt ............................... .. 109
3.2.4. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu đen Ở tiếng Việt ................................ ....109
3.2.5. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu trắng Ở tiếng Việt ................................. 110
3.2.6. Những điểm giống nhau về đặc trưng văn hoá dân tộc của từ chỉ màu sắc
tiếng Hán và tiếng Việt ....................................................................................................111
3.2.7.Những điểm khác nhau về đặc trưng văn hoá dân tộc của từ chỉ màu sắc tiếng
Hán và tiếng Việt ..............................................................................................................113
kết luận .............................................................................................................................115
Tài liệu tham khảo .........................................................................................................118

3

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Ý nghĩa và mục đích của luận văn
Trong ngôn ngữ học hiện đại, việc nghiên cứu ngôn ngữ không chỉ dừng ở bản
thể ngôn ngữ mà đã tiến tới những nhân tố bên ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến bản thể
ngôn ngữ và mối quan hệ giữa chúng với nhau. Chính vì thế xu hướng nghiên cứu
ngôn ngữ xuyên văn hoá đã trở thành bình diện không thể thiếu được đối với bất cứ
thứ tiếng nào trên thế giới.
Việc tồn tại của màu sắc là khách quan, nhưng khái quát về từ chỉ màu sắc trong
các ngôn ngữ khác nhau thì có khác biệt. Trong quá trình phát triển lịch sử lâu dài của
dân tộc Hán và dân tộc Việt, nhận thức, thái độ cũng như những phong tục liên quan
tới màu sắc của hai dân tộc này đã có biến đổi rất nhiều, những biến đổi này thể hiện ở
sự nảy sinh và phát triển của từ chỉ màu sắc liên quan với các yếu tố chính trị, kinh tế,
khoa học kỹ thuật, xã hội văn hoá v.v...Sự xuất hiện tên gọi của một số màu sắc nào đó,
sự biến đổi nội hàm của một số khái niệm màu sắc nào đó, đã phản ánh sự hình thành
và biến đổi của nhận thức về mặt phân biệt màu sắc của loài người. Loài người qua sự
biến đổi của thái độ nhận thức và phong tục có liên quan về màu sắc, đã phản ánh sự
biến đổi của bối cảnh xã hội, quan niệm tư tưởng và sự ảnh hưởng của văn hoá ngoại
lai.
Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng núi liền núi , sông liền sông. Sự
giao lưu văn hóa giữa hai nước đã bắt đầu có từ thời Tần Trung Quốc [năm 111 trước
công nguyên]. “ ... Giai đoạn 1: Giai đoạn này được tính từ sau thời đại An Dương
Vương — Triệu Đà [Triều Vũ Đế] tức từ năm111trước công nguyên cho đến thế kỷ thứ

4

VI sau công nguyên” [43, trang10]. Những giao lưu văn hoá này bao gồm chính trị,
kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hoá, nghệ thuật, âm nhạc, ngôn ngữ, tôn giáo, tín
ngưỡng, thiên văn, địa lý, lễ nghi, tập tục cũng như từ chỉ màu sắc v.v.. “… Trong tiếng
Việt hiện đại có hàng ngàn từ đơn Hán Việt cùng hoạt động bên cạnh những từ “thuần
Việt”. Chúng đã hoà lẫn vào nhau như một khối thống nhất, trở thành một bộ phận
không thể thiếu trong mảng từ vựng cơ bản của hệ thống từ vựng tiếng Việt. Từ đơn
Hán Việt từ rất sớm đã có mặt trên khắp mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nếu dựa
vào trường nghĩa và theo chức năng, chúng ta có thể tìm thấy chúng trong tên bốn
chục nhóm sau.” [43, trang 82] Trong đó có nhóm thứ 28 là nhóm từ chỉ màu sắc gồm
5 từ là:
sắc—色,lục—绿,lam—蓝,hồng—红,bạch—白,v.v..” [43, trang 93]
Luận văn này có nhiệm vụ : [1] Tìm hiểu được những từ chỉ màu sắc và cách sử
dụng những từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán. [2] Đối chiếu từ chỉ màu sắc tiếng Hán và
tiếng Việt, tìm ra những chỗ giống nhau và khác nhau về ý nghĩa, cách cấu tạo từ, ngữ
nghĩa từ chỉ màu sắc và đặc trưng văn hoá của hai dân tộc Hán và Việt qua cách tri
nhận về màu sắc.

2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn của chúng tôi lấy từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán làm cơ sở khảo sát, và
từ chỉ màu sắc tiếng Việt làm đối tượng so sánh, đối chiếu, thống kê những từ chỉ màu
sắc trong tiếng Hán và miêu tả cách sử dụng của chúng, đồng thời so sánh sự giống
nhau và khác nhau của các từ đơn, từ ghép, từ láy và đặc trưng văn hoá dân tộc của từ
chỉ màu sắc trong tiếng Hán và tiếng Việt.

5

3. Nhiệm vụ của luận văn
Luận văn tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau:
[1] Trình bày một số lí luận trực tiếp liên quan đến đề tài khảo sát như khái niệm,
đặc trưng, nguồn gốc của từ màu sắc; các nhân tố xã hội tác động đến việc sử dụng từ
màu sắc, nhất là mối liên hệ giữa từ chỉ màu sắc và đặc trưng văn hoá dân tộc.
[2] Thống kê, miêu tả cách sử dụng từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán. So sánh đối
chiếu những từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán và tiếng Việt, có gì khác biệt và giống
nhau về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa và đặc trưng văn hoá dân tộc.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp thống kê, miêu tả, so sánh... cụ thể
là:
Thống kê số lượng, tần số xuất hiện và tỉ lệ phần trăm của các từ chỉ màu sắc, từ
đó rút ra những nhận xét cần thiết.
Miêu tả, phân tích, so sánh các điểm tương đồng và khác biệt của từ chỉ màu sắc
trong tiếng Hán và tiếng Việt về mặt ngữ pháp như: cách cấu tạo từ, từ ghép và từ láy
cũng như đặc trưng văn hoá dân tộc, thể hiện qua ý gnhĩa biểu trưng của từ chỉ màu
sắc.

5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia thành
ba chương:
Chương I : Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài
Chương II : Đặc điểm của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Hán và tiếng Việt

6

Chương III : So sánh đặc trưng văn hoá dân tộc của các từ chỉ màu sắc trong tiếng
Hán và tiếng Việt.

CHƢƠNG I
SO SÁNH KHÁI QUÁT VỀ Ý NGHĨA VÀ SỐ LƢỢNG CỦA TỪ CHỈ
MÀU SẮC TRONG TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT

1.1. Khái quát về từ chỉ màu sắc
Màu sắc là một hiện tượng tự nhiện, màu sắc là ― ấn tượng do vật thể phát xạ,
phản xạ hoặc ánh sáng xuyên qua mà thông qua thị giác thể hiện ra. ‖ [29] Khoa học
chứng minh màu sắc là một dải liên tiếp tồn tại trong hiện tượng tự nhiên. Hegel từng
cho rằng: “tư duy là chia cắt ra các khâu thực tế liên kết với nhau của một đối tượng
để khảo sát.” [30] Từ chỉ màu sắc trong ngôn ngữ là sản vật tư duy loại này. Nói rõ
hơn, tức là con nguòi chia cắt màu sắc tồn tại trong hiện tượng tự nhiên theo một dải
liên tiếp thành các đoạn màu, và biểu hiện bằng ngôn ngữ, từ đó từ chỉ màu sắc được
khái niệm hoá và dấu hiệu hoá. Nói một cách khác, màu sắc là ―dấu hiệu tự nhiên‖ , từ
chỉ màu sắc là ―dấu hiệu nhân tạo‖. Như vậy là từ chỉ màu sắc vừa liên quan tới hiện
tượng ngôn ngữ, vừa liên quan tới hiện tượng tự nhiên. Việc nhận thức về màu sắc của
con người là một quá trình hoạt động lâu dài của hệ thống thần kinh thị giác và não, mà
nhờ đó các màu sắc dần dần được lưu lại trong đầu chúng ta và dần dần được ―gọi tên‖.
Trong ngôn ngữ khác nhau, người ta áp dụng hình thức khác nhau để vạch ra ranh giới
từ chỉ màu sắc, đã dẫn đến sự khác nhau về các màu và số lượng các màu trong ngôn
ngữ. Ví dụ trong tiếng Hán 青[thanh] bao hàm nghĩa của xanh, lam, đen ở tiếng Việt:
青草[cỏ xanh],青菜[cải xanh],青山绿水 [non xanh nước biếc],青天[bầu trời
7

xanh],青丝[tóc đen, chỉ tóc nữ],青衣[áo màu đen], v.v...
Trong bảng thống kê những từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán, Bảng tổng hợp thống
kê từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán và tiếng Việt, các từ chỉ màu sắc có thể là từ hoặc
ngữ. Một từ chỉ màu sắc nếu là từ đơn thì chắc chắn là từ, nếu là từ ghép thì rất khó
phân biệt nó là từ hay là ngữ.
Nhìn từ phương diện nghĩa, nghĩa của thành phần cấu thành một đơn vị ngữ âm
có thể hoà hợp thành một tổng thể thì là từ, ngược lại thì là ngữ. Nhìn từ phương diện
kết cấu, hình vị cấu thành từ kết hợp chặt chẽ, không thể tuỳ ý chia ra; thành phần tổ
hợp của đoản ngữ hơi rời rạc, giữa có thể xen vào các thành phần khác.[31, trang 238]
Ví dụ: 黝黑[đen sạm] biểu thị đen, tối, nó không thể chia cắt được, nên là từ; 煤黑色
[đen như than] tương đương với than và màu đen, giữa có thể xen vào thành phần khác
như 煤一样的黑色[đen như than], nên là ngữ.

1.2. Nguồn gốc của từ chỉ màu sắc
Từ chỉ màu sắc là những từ dùng để miêu tả các loại màu sắc của sự vật, như đỏ,
đen, trắng ,vàng, xanh, tím, v.v.
Từ chỉ màu sắc là một thành phần tổ chức quan trọng của từ vựng trong ngôn ngữ,
nó có thể làm cho ngôn ngữ biểu đạt phong phú, sinh động, bày ra một thế giới màu
sắc thần kỳ của nhân loại sinh tồn cho chúng ta, mà còn thông qua từ chỉ màu sắc,
chúng ta có thể tìm hiểu được ý nghĩa tượng trưng văn hóa phong phú của từ chỉ màu
sắc, sự chứa đựng tâm lí văn hoá dân tộc và màu sắc tình cảm sâu sắc nồng thắm của
từ chỉ màu sắc.
Trong cổ Hán ngữ, nghĩa đen của màu sắc là chỉ sắc mặt, vẻ mặt, nét mặt. Ví dụ:
trong Sử Từ Ngư Phụ [《楚辞•渔父》] có câu ―màu sắc tiều tuỵ‖ [颜色憔悴]. 颜[mặt]
cùng nghĩa với 额[trán], trong từ điển Giải Văn Thuyết Chữ của Hứa Thận có viết:

8

―颜,眉之间。‖ [trán ở giữa lông mày]. ―色,颜气也。‖[sắc, khí sắc của trán]. Cho nên,
cổ nhân nói ―察颜观色‖ [nghe lời nói, trông nét mặt] tức là nhìn theo vẻ mặt để tìm
hiểu hoạt động trong lòng của người. Sau đó, nghĩa của từ 颜色 [màu sắc] đã mở
rộng phạm vi sử dụng, nó không những chỉ màu sắc, vẻ mặt, mà còn bao gồm màu sắc
của các loại sự vật, từ đó đã hình thành nghĩa bóng của 颜色[màu sắc]. bây giờ nghĩa
bóng từ này đã trở thành nghĩa trung tâm của nó. Ví dụ như trong thành ngữ 五颜六
色[muôn màu sặc sỡ], 颜 [mặt] và 色[sắc] đồng nghĩa, đều chỉ màu sắc.
Tên gọi từ chỉ màu sắc trong giới Hán ngữ học xưa nay đều chưa thống nhất . Có
người gọi là 颜色词 [từ màu sắc], có người gọi là 色彩词 [từ sắc thái], trên thực tế
các đơn vị chỉ màu sắc hoặc sắc thái không những có từ mà còn có ngữ, cho nên cũng
có người dùng 色彩词语 [từ ngữ sắc thái] để khái quát.[21, trang 51] Trong tiếng
Việt cũng như vậy: ―...Chúng tôi cũng xin quy ước, gọi chung những yếu tố chỉ màu
thống kê được là những đơn vị hay từ ngữ chỉ màu sắc, chúng tôi tránh cách gọi là từ
chỉ màu vì thực ra cho đến nay cách quan niệm về ― từ ‖ trong tiếng Việt vẫn còn là
một vấn đề tranh cãi. ‖ [49, trang 6] Luận văn của chúng tôi sử dụng tên gọi ―từ ngữ
chỉ màu sắc‖.
Có người nêu ra, sự xuất hiện của dấu hiệu màu sắc liên quan với văn hoá. Trong
ngôn ngữ màu sắc và văn hoá loài người có một số quy luật và hiện tượng chung. Năm
1969, nhà nhân loại học Mỹ Bernt Berlin và Paul Kay đã nghiên cứu từ chỉ màu sắc
của ngót 100 ngôn ngữ trên thế giới và đã nêu ra lí thuyết về từ chỉ màu sắc cơ bản. [32,
trang 286 - 289] Họ nêu ra sự xuất hiện của từ chỉ màu sắc trong các ngôn ngữ thế giới
đều tuân theo một quy luật chung: tức là mọi ngôn ngữ đều có ít nhất 2 từ chỉ màu sắc:
đen và trắng; nếu ngôn ngữ nào có 3 từ chỉ màu sắc, từ thứ 3 ắt phải là màu đỏ; nếu có
4 từ chỉ màu sắc, từ thứ 4 nhất thiết là từ màu xanh hay màu vàng; nếu có 5 từ chỉ màu

9

sắc, từ này nhất thiết là từ màu xanh hay màu vàng; nếu có 6 từ chỉ màu sắc, nhất thiết
là từ biểu thị màu lam; nếu có 7 từ chỉ màu sắc, thì là từ màu nâu; nếu có 8 từ chỉ màu
sắc hay càng nhiều, nhất thiết là từ biểu thị màu tím, hồng nhạt, da cam, xám hoặc các
màu hỗn hợp khác. Tuy nhận xét về từ chỉ màu sắc khác nhau, nhưng có thể quy nạp
như sau: sự tri nhận màu sắc của con người, kể cả khác biệt loại hình màu sắc và thứ tự
xuất hiện của từ chỉ màu sắc, quyết định ở ba yếu tố: cơ chế sinh lí của người, thuộc
tính nội bộ của màu trong thiên nhiên và tình trạng văn hoá của người. [32, trang 289]
Bản thân màu sắc là khái niệm trừu tượng, ấn tượng thị giác của màu sắc để lại
trong người là thông qua muôn vật giới tự nhiên mà truyền đạt, nếu không có đối chiếu
với vật, người ta thường khó mà nhận biết và nhớ rõ được đặc trưng của màu sắc. Cho
nên, các dân tộc trên thế giới thường nhờ vào phương pháp dùng vật chất trực tiếp định
danh cho màu sắc, để gọi tên màu sắc mà họ nhìn thấy, để màu sắc từ trừu tượng biến
thành cụ thể, hơn nữa, cũng có thể phân biệt được các loại màu sắc, đây cũng là quá
trình đi từ cảm giác đến khái niệm qua dấu hiệu. Phương thức dùng vật chất định danh
cho màu sắc, làm cho hình ảnh màu sắc biểu thị bằng vật chất càng cụ thể, sinh động
và chính xác, nên các dân tộc đều áp dụng phương pháp định danh này.
Chúng tôi cho rằng, từ chỉ màu sắc chắc chắn là tuỳ theo nguồn gốc của ngôn ngữ
mà xuất hiện. Theo đà phát triển của văn hoá xã hội, số lượng của từ chỉ màu sắc
không những càng ngày càng nhiều, mà sự phân chia của từ chỉ màu sắc cũng càng
ngày càng chi tiết.
1.3. Vai trò của từ chỉ màu sắc
Trong kho từ vựng tiếng Hán và tiếng Việt hiện đại, từ chỉ màu sắc không những
tồn tại một khối lượng lớn, mà còn có vai trò tu từ đặt biệt, rõ rệt mà các từ ngữ khác
không thể so sánh được. Ta sống mãi trong thế giới màu sắc sặc sỡ, không thể tưởng

10

tượng được nếu từ ngữ không có miêu tả về màu sắc trong ngôn ngữ là như thế nào.
Chúng ta nói chuyện, viết bài văn, không những muốn viết được dễ hiểu, viết được trôi
chảy, mà còn hi vọng viết được nghệ thuật, viết được cụ thể và sinh động, khiến cho
người nghe quên ăn, người đọc quên ngủ. Như thế thì cần phải áp dụng thủ pháp nhất
định, trong đó dùng từ chỉ màu sắc là thủ pháp quan trọng. Giống như hoạ sĩ miêu tả
vật thể tự nhiên và nhân vật bằng sắc liệu, tác thẩm văn học thông qua từ chỉ màu sắc
để miêu tả cảnh quan tự nhiên, tranh chân dung nhân vật, bầu không khí hoàn cảnh
chung quanh, tình huống đời sống v.v... Có khi sự miêu tả màu sắc cảnh quan tự nhiên
có thể để lại ấn tượng khó quên cho độc giả. Ví dụ: trong tiếng Hán, như văn xuôi Từ
Bách Thảo Viên đến nhà đọc Tam vị của Lỗ Tấn, văn xuôi Ngũ sắc thổ của Tần Mục,
văn xuôi Trà hoa phú của Dương Sóc, văn xuôi Mặt trời mọc trên sông Trường của
Lưu Bạch Vũ, đều đã sử dụng các màu sắc rực rỡ để miêu tả vật thể và cảnh quan tự
nhiên, khiến cho người đọc dường như đích thân tới nơi đó, mắt đã nhìn thấy vật và
cảnh đó. Không những như vậy, sự miêu tả màu sắc trong tác phẩm văn học còn giữ
vai trò làm nền cho bầu không khí và tô vẽ cho tình cảm. Các bạn hãy thưởng thức sự
miêu tả của Lỗ Tấn trong văn xuôi Quê Hương : “từ khe mui thuyền nhìn ra, dưới mặt
trời vàng võ, gần xa ngang mấy làng xóm hoang vắng hiu hắt, chẳng có tí nào sức
sống. [ ......从蓬隙往外一望, 苍黄的天底下, 远近横着几个萧索的荒村, 没有一些活气。]”
Đọc đến đoạn văn miêu tả này, trước mắt ta dường như xuất hiện một cảnh tượng mùa
đông lạnh lẽo cỏ cây tàn tạ. Đoạn văn dùng vàng võ thể hiện thời tiết lúc cuối đông,
không những rất thích đáng, mà còn phối hợp chặt chẽ với tấm lòng lúc bấy giờ của Lỗ
Tấn, tạo ra một bầu không khí buồn thảm.
Trong thơ, màu sắc là một chất liệu hầu như không thể thiếu. Có những câu thơ,
bài thơ rực rỡ như một bức tranh màu, có nhiều nhà thơ thích dùng màu. Trong tiếng

11

Việt, ta nhớ thi sĩ Nguyễn Khuyến ngày trước đã có lần đưa màu sắc vào đôi câu đối
viết cho bà thợ nhuộm khóc chồng, tạo một lối chơi chữ độc đáo:
Thiếp nhớ từ lá thắm xe duyên, khi vận tía, lúc cơn đen, diều dại điều khôn nhờ
bố đỏ;
Chàng ở dưới suối vàng có thấu, vợ má hồng, con răng trắng, tím gan tím ruột
với trời xanh.
Nhà thơ Đoàn Văn Cừ hồi xưa đã từng viết những bài thơ như Đám cưới mùa,
Chợ Tết, trong đó sắc màu hiện lên thật vui mắt:
Giải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà gianh,
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh...
Trong tiếng Hán, trong thơ tứ tuyệt Thuyền Đỗ Qua Châu của Vương An Thạch
[nhà Tống], câu thứ ba là ―gió xuân lại thổi xanh cây cỏ trên bờ phía nam sông Trường
[春风又绿江南岸]‖,nghe nói chữ xanh [绿] tác giả từng nghĩ đi nghĩ lại, đã dùng
mười mấy chữ như đến [到], nhập [入], qua [过], mãn [满] v.v... Cuối cùng mới quyết
định chọn chữ 绿[xanh]. Đây là những từ ngữ không thể thay thế được, từ đó có thể
thấy địa vị quan trọng và đặc biệt của từ chỉ màu sắc.
1.4. Phân loại những từ chỉ màu sắc
Từ chỉ màu sắc là một loại từ phân chia theo ý nghĩa khái niệm, không phải là
phân loại theo ngữ pháp, từ chức năng của từ chỉ màu sắc mà thấy, từ chỉ màu sắc chủ
yếu là dùng để miêu tả tính chất và trạng thái màu sắc của các loại sự vật trên thế giới.
1.4.1. Phân loại những từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán
Do số lượng từ chỉ màu sắc hết sức phong phú, hơn nữa, phương phức cấu tạo
của nó từ đầu đến cuối ở vào một quá trình trạng thái hoạt động, phát triển và biến đổi,

12

cho nên, ý kiến về việc nghiên cứu phương thức phân loại và cấu tạo của từ chỉ màu
sắc tiếng Hán cũng không thống nhất, thường xuất hiện xu hướng đa dạng hoá. Ví dụ:
ông Lưu Quân Kiệt xuất phát từ góc độ nguồn gốc từ, chia từ chỉ màu sắc tiếng Hán
thành 4 loại: từ chỉ màu sắc thuần tuý, từ chỉ màu sắc vật thể, từ chỉ màu sắc vật
thuần[sự tổ hợp của từ chỉ màu sắc vật thể và từ chỉ màu sắc thuần tuý], hình thức sinh
động của từ chỉ màu sắc thuần; [33, trang 23] ông Chiêm Nhân Phượng chia từ chỉ
màu sắc thành 2 loại lớn: từ chỉ màu sắc cơ bản và từ chỉ màu sắc phi cơ bản; [34,
trang 41] Diệp Quân chủ yếu chia từ chỉ màu sắc thành 2 loại lớn: từ chỉ màu sắc cụ
thể [gồm từ chỉ màu sắc cơ bản và từ chỉ màu sắc phổ thông ] và từ chỉ màu sắc trừu
tượng [gồm từ chỉ màu sắc trừu tượng liên tưởng và từ chỉ màu sắc tri giác]; [21, trang
35] Luận văn chúng tôi theo số lượng âm tiết của từ chỉ màu sắc, chia từ chỉ màu sắc
thành hai loại lớn: từ chỉ màu sắc đơn âm tiết và từ chỉ màu sắc đa âm tiết.

1.4.1.1. Từ chỉ màu sắc đơn âm tiết
Từ chỉ màu sắc đơn âm tiết tức là từ chỉ màu sắc do một âm tiết cấu thành, ví dụ:
红[đỏ], 黄[vàng], 绿[lục], 白[trắng], 黑[đen], 青[thanh], 蓝[lam], 灰[xám], 紫
[tím], 褐[màu hạt dẻ], 橙[màu da cam], 赤[đỏ], 绯[đỏ], 朱[đỏ son], 绛[đỏ thẫm],
翠[xanh biếc], 碧[ngọc xanh biếc / xanh biếc], 苍[xanh lá cây / xanh biếc [gồm cả
lam và lục]], 乌[đen], 玄[đen], 漆[đen], 殷[đỏ đen], 粉[hồng] ,素[trắng], 缟[trắng],
葱[xanh], 赭[đỏ], 黛[đen vàng], 黝[đen xanh],... loại từ chỉ màu sắc cơ bản này
chiếm tỉ lệ rất ít trong tất cả các loại từ chỉ màu sắc tiếng Hán. Về cấu tạo từ chỉ màu
sắc cơ bản, trong tiếng Hán cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Ông Lưu Quân Kiệt, Lưu
Vân Tuyền cho rằng, từ chỉ màu sắc cơ bản Hán ngữ hiện đại có 10 từ là 红[đỏ], 黄
[vàng], 绿[lục], 白[trắng], 黑[đen], 青[xanh], 蓝[lam], 灰[xám], 紫[tím], 褐[màu

13

hạt dẻ]; ông Lưu Đan Thanh thì cho rằng có 9 từ, bỏ 褐[màu hạt dẻ] đi. Ông Chiêm
Nhân Phượng cho rằng 6 từ 红[đỏ], 黄[vàng], 绿[lục], 白[trắng], 黑[đen], 蓝[lam]
là từ chỉ màu sắc cơ bản; 青[xanh] và 灰[xám] có thể gọi là từ chỉ màu sắc chuẩn cơ
bản. 青[xanh] là một từ chỉ màu sắc rất đặc biệt, từ trước thời nhà Tần, thì kiêm chỉ 3
màu là 绿[lục], 蓝[lam], 黑[đen], muốn biết 青[xanh] là màu gì, phải xét trường hợp
sử dụng cụ thể từ này mà quyết định. 灰[xám] là một màu quá độ, còn là một từ chỉ
màu sắc hiện vật mà cấu tạo bằng mượn tên gọi hiện vật.
Trong giao tiếp bình thường, từ chỉ màu sắc cơ bản có thể cùng với các hình vị khác
tổ hợp thành nhiều từ chỉ màu sắc. Từ chỉ màu sắc đơn âm tiết trong tiếng Hán ngoài
10 từ chỉ màu sắc cơ bản như 红[đỏ], 黄[vàng], 绿[lục], 白[trắng], 黑[đen], 青
[xanh], 蓝[lam], 灰[xám], 紫[tím], 褐[màu hạt dẻ]ra, phần lớn là từ cổ ngữ, trong cổ
Hán ngữ có thể độc lập thành từ, trong Hán ngữ hiện đại, phần lớn từ cổ ngữ không
hoặc rất ít sử dụng độc lập, có một số từ chỉ có vai trò cấu tạo từ, còn phần lớn chỉ
dùng vào văn bản, ví dụ: 赤卫队[đội xích vệ], 彤云[mây đỏ, ráng đỏ], 丹枫[cây
bàng], 绯红的晚霞[ráng chiều màu đỏ], v.v...
Từ đơn âm tiết trên đây cơ bản là tính từ, đằng sau thêm vào chữ 色[màu] có thể
tạo thành danh từ, ví dụ như 红色[đỏ], 黄色[vàng], 绿色[lục], 赭色[đỏ], 黛色[đen
vàng], 粉色[hồng] ,素色[trắng], 乌色[đen], 玄色[đen], 翠色[xanh biếc], 碧色
[ngọc xanh biếc / xanh biếc]...

1.4.1.2. Từ chỉ màu sắc đa âm tiết
Từ vựng tiếng Hán có một quá trình phát triển từ đơn âm tiết đến đa âm tiết. Từ
chỉ màu sắc tiếng Hán trong quá trình phát triển này, cũng đã được phát triển đầy đủ,
về số lượng đã vượt ra khỏi phạm vi từ chỉ màu sắc đơn âm tiết vốn rất có hạn, sử dụng

14

nhiều thứ phương thức cấu tạo, khiến hình tượng vật thể ngày càng rõ ràng, cụ thể.
Phương thức cấu tạo của từ chỉ màu sắc đa âm tiết là đa dạng và phong phú. Mấy loại
hình thường gặp như sau:
[1] Phương thức tổ hợp: tức là từ chỉ màu sắc do hai từ chỉ màu sắc đơn âm tiết tổ
hợp với nhau mà hình thành. Trong đó lại có thể chia thành hai loại:
A. Do hai từ chỉ màu sắc đơn âm tiết thuộc phạm trù màu sắc khác nhau tổ hợp
hình thành, ví dụ như 绛紫[tím đỏ], 紫红[đỏ tía], 青紫[xanh tím], 灰白[xám trắng],
苍白[trắng xanh],... chúng biểu thị một màu hỗn hợp, hình vị màu sắc đứng trước biểu
thị màu phụ, hình vị màu sắc đứng sau biểu thị màu chính, giữa hai hình vị hình thành
một quan hệ chính- phụ tu từ và bị tu từ. Ví dụ: 绛紫[tím đỏ] là trong tím thẫm mang
một tí đỏ, 紫红[đỏ tía] là trong đỏ thẫm mang một tí tía, 苍白[trắng xanh] là trắng
mang một tí màu xanh.
B. Do hai từ chỉ màu sắc đơn âm tiết cùng một phạm trù màu sắc hình thành với
quan hệ liên hiệp. Ví dụ: 赤红[đỏ], 朱红[đỏ son], 绯红[đỏ ửng], 绛红[đỏ thẫm]...
Từ góc độ Hán ngữ hiện đại mà thấy, ngữ nghĩa chủ yếu thể hiện ở hình vị sau.
Hai loại từ chỉ màu sắc A và B thông thường có thể thêm vào một từ biểu thị khái niệm
màu sắc---色(màu)tạo thành cụm danh từ. Ví dụ: 紫红色[màu đỏ tía], 灰白色[màu
xám trắng],赤红色[màu đỏ], 朱红色[màu đỏ son], 绯红色[màu đỏ ửng], 绛红色
[màu đỏ thẫm], v.v...
[2] Phương thức ví von: tức là hình vị trước trong từ chỉ màu sắc gồm ý vị ví von,
biểu thị ý nghĩa giống như cái gì đó. Phương thức ví von có thể chia thành hai loại:
A. Thêm chữ 色[màu] vào sau hình vị gọi tên vật thể, ví dụ: 米色[màu kem], 驼
色[màu lạc đà], 茶色[màu nước chè], 桃色[màu hoa đào], 肉色[màu da người], 咖
啡色[màu cà-phê], 玫瑰色[màu hoa hồng], v.v... Loại từ chỉ màu sắc này mang tính

15

hình tượng, thường khiến người nghe nghĩ đến nét đặc trưng của các vật thể, ví dụ:
古铜色的皮肤[da dẻ màu đồng cổ], màu đồng cổ đây ngoài ngữ nghĩa màu be, còn
khiến người ta nghĩ đến tính chất bóng láng của màu đồng cổ.
B. Kiểu B do hình vị gọi tên vật thể được thêm vào từ chỉ màu sắc đơn âm tiết mà
thành. Phạm vi màu sắc của hình vị danh từ đằng trước tương đối hẹp, phạm vi màu
sắc của từ chỉ màu sắc đơn âm tiết đằng sau tương đối rộng. Ví dụ:
a. 米黄 [màu kem], 杏黄[vàng mơ], 桔黄[màu da cam], 桃红[hoa đào], 银白
[trắng bạc], 玫瑰红[ màu hoa hồng], 孔雀蓝[ màu xanh lông công], 月白[trắng
xanh], v.v...
b. 雪白[trắng tuyết], 乌黑[đen như cốc], 漆黑[đen như mực], 铁青[xanh thẫm],
火红[đỏ gay], 血红[đỏ lòm], 蜡黄[vàng bệch], v.v...
Trong đó loại a chủ yếu biểu thị bản thân màu sắc, đằng sau thường có thể thêm
vào chữ 色[màu], ví dụ: 米黄色[màu kem], 杏黄色[vàng mơ], 桔黄色[màu da
cam], 桃红色[màu hoa đào], nhưng từ chỉ màu sắc phương thức ví von đa âm tiết,
như 玫瑰红[ màu hoa hồng], 孔雀蓝[ màu xanh lông công] ... do bị hạn chế về
nguyên tắc tiết tấu ngữ âm và tiết kiệm ngôn ngữ, thông thường đằng sau chúng không
được thêm vào chữ 色[màu]. Ví dụ: 一件玫瑰红的毛衣[một chiếc áo len màu hoa
hồng], thông thường không thể nói: 一件玫瑰红色的毛衣. Loại b chủ yếu biểu thị
một thứ trạng thái, đằng sau không thể thêm vào chữ 色[màu], thông thường không
thể nói: 雪白色[trắng tuyết], 漆黑色[đen như mực],火红色[đỏ gay], nhưng chúng có
thể láy, ví dụ như 雪白雪白的[trắng như tuyết], 火红火红的[đỏ như lửa], còn có thể
làm vị ngữ của nhóm từ chủ-vị, ví dụ: 墙壁雪白[bức tường trắng tinh], 头发乌黑
[mái tóc đen nhánh]; loại a không láy được, cũng không thể làm vị ngữ.
Loại từ chỉ màu sắc này là nhờ vào hiện vật để biểu thị màu sắc, nên thông

16

thường không láy bản thân hiện vật. Ví dụ không nói 桃红的桃花[hoa đào màu hoa
đào], 驼色的驼毛[lông lạc đà màu lạc đà], 玫瑰红的玫瑰[hoa hồng màu hoa hồng],
v.v...
[3] Phương thức gợi tả: Do một tính từ biểu thị cảm giác, tính chất và trạng thái
hoặc mức độ thêm vào một từ chỉ màu sắc đơn âm tiết hình thành, ví dụ như 嫩绿
[xanh nhạt], 深红 [đỏ thẫm], 鲜红 [đỏ tươi], 浅红[hồng nhạt], 浓黑[đen đậm], 惨
白[tái xanh],... loại từ chỉ màu sắc này thông thường có thể thêm vào chữ 色[màu] để
biểu thị khái niệm màu sắc, nhưng bản thân chúng đã tỏ ra ý nghĩa mức độ, nên thông
thường không được tu từ của từ biểu thị ý nghĩa mức độ nữa .
[4] Phương thức láy: chỉ từ chỉ màu sắc cấu tạo bằng phương thức từ chỉ màu sắc
đơn âm tiết thêm vào thành phần hậu tố láy. Phương thức cấu tạo này chủ yếu có hai
loại:
A. Từ chỉ màu sắc đơn âm tiết + hậu tố có hai âm tiết, ví dụ như 黑洞洞[tối mò
mò], 白茫茫[trắng xóa một màu], 红通通[đỏ rực / đỏ sẫm], 黄灿灿[vàng ối], 灰蒙
蒙[mờ mịt / mù mịt], 绿油油[xanh mướt / xanh biếc], v.v...
B. Từ chỉ màu sắc đơn âm tiết + hậu tố ba âm tiết, ví dụ như 黑不溜秋[đen sì sì /
đen thui], 白不呲咧[bạc phênh phếch/ nhạt phèo phèo],灰不叽叽[xám xìn xịt], v.v…
Từ chỉ màu sắc bằng phương thức láy thông thường kèm theo cảm giác và ấn
tượng nào đó xuất hiện trong tình huống khác nhau của con người, tính quan trọng
của cảm giác và ấn tượng kèm theo này không kém hơn bản thân từ chỉ màu sắc
trong đa số tình huống. Ví dụ: 黑压压的一群人[một đám người đông nghịt] cố
nhiên là nhấn mạnh 黑[đen], nhưng càng quan trong hơn là nhấn mạnh một đám
người mờ nhạt. Từ chỉ màu sắc có thêm hậu tố, thường tạo một thứ cảm giác [sống
động] gợi tả, như 黄澄澄[vàng rộm / vàng óng], 白花花[trắng ngần / trắng muốt ],

17

蓝盈盈[xanh biếc / xanh thẳm / bầu trời xanh thẳm], ... đã miêu tả một cách sinh
động sự vật khách thể. Nhưng phạm vi sử dụng của loại từ chỉ màu sắc này tương
đối có hạn, chỉ kết hợp sau một số từ nhất định. Kiểu này có cấu tạo theo trật tự
giống tiếng Việt: C + P [chính trước, phụ sau] , vídụ như 黑洞洞[tối mò mò] gợi
tả không gian, 黑茫茫[tối đen thăm thẳm] gợi tả cảnh sắc ban đêm tối đen, 红彤彤
[đỏ rực/ đỏ sẫm]gợi tả mặt trời mới mọc và ráng chiều, 黄澄澄[vàng rộm / vàng óng]
gợi tả đồ vật màu vàng và chói mắt như vàng, hạt thóc, 白花花[trắng ngần / trắng
muốt ] gợi tả bạc và nước, 白皑皑[trắng xoá / trắng phau] gợi tả tuyết, 绿茵茵
[xanh mơn mởn] gợi tả bãi cỏ, 绿油油[xanh mướt / xanh biếc] gợi tả mùa màng và
rau cỏ.
Từ chỉ màu sắc đa âm tiết ngoài phương thức cấu tạo mấy loại thường gặp như
trên, còn có mấy phương thức cấu tạo đặc biệt. Ví dụ: 军绿[màu bộ đội], 公安蓝
[xanh lam công an], 海军蓝[xanh lam hải quân], 学生蓝[xanh lam học sinh], v.v... thì
là lấy những người sử dụng màu sắc thuộc một khối xã hội đặc biệt, tư cách xã hội của
họ cố định, số người đông, màu sắc nào đó mà họ cùng sử dụng dần dần đã hình thành
một thứ ―màu tiêu chí‖. Còn có 刚果红[màu hồng Công - gô], 中国白[màu trắng
Trung Quốc], 巴黎绿[màu xanh Pa-ri], 北京蓝[màu xanh lam Bắc Kinh], 淮安红
[màu hồng Hoài An], 西洋红[màu đỏ Tây], v.v...thì là lấy nơi sản xuất để gọi tên màu
sắc; 永乐鲜红[đỏ tươi Vĩnh Lạc], 景泰蓝[ Cảnh Thái lam ] ... thì dùng niên hiệu thời
xưa để tu từ màu sắc.
1.4.2. Phân loại những từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt
Phân loại những từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt cũng có ý kiến khác nhau, ví dụ
như chia từ chỉ màu sắc thành hai loại: từ chỉ màu cơ bản và từ chỉ màu phụ.[39,
trang142; 40, trang 35 ] Còn Nguyễn Thị Thu Trang chia từ chỉ màu sắc thành hai loại:

18

Tải về bản full

So sánh từ, ngữ chỉ màu sắc trong tiếng hán và tiếng việt [về vài đặc điểm ngôn ngữ văn hoá]

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [3.5 MB, 167 trang ]

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC VÀ XÃ HỘI NHÂN VĂN

PHƯƠNG THẦN MINH

SÓ SÁNH TỪ, NGỮ CHỈ MÀU SẮC
TRONG TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT
[VỀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ -- VĂN HOÁ ]

CHUYÊN HÀNH: LÍ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số: 50408

luËn v¨n th¹c sÜ ng÷ v¨n

Hµ Néi - 2005


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC VÀ XÃ HỘI NHÂN VĂN

PHƯƠNG THẦN MINH

SÓ SÁNH TỪ, NGỮ CHỈ MÀU SẮC
TRONG TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT
[VỀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ -- VĂN HOÁ ]
CHUYÊN HÀNH: LÍ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số: 50408

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học :


Pgs. Ts . ®µo thanh lan

hµ néi - 2005


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Ý nghĩa và mục đích của luận văn...............................................................................4
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..............................................................................5
3. Nhiệm vụ của luận văn .. ................................................................................... .........5
4. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................6
5. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................................6

Chương I So sánh khái quát về ý nghĩa và số lƣợng của từ chỉ màu sắc trong
tiếng Hán và tiếng Việt
I. Cơ sở lý luận về từ chỉ màu sắc..................................................................................7
1.1. Khái quát về từ chỉ màu sắc......................................................................................7
1.2. Nguồn gốc của từ chỉ màu sắc..................................................................................8
1.3.Vai trò của từ chỉ màu sắc.........................................................................................10
1.4. Phân loại từ chỉ màu sắc .........................................................................................12
1.4.1. Phân loại từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán ..........................................................12
1.4.2. Phân loại từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt...........................................................18
II. So sánh khái quát về ý nghĩa và số lƣợng của từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán
và tiếng Việt........................................................................................................................20
2.1. Bảng thống kê những từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán .........................................20
2.2.Bảng tổng hợp thống kê từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán và tiếng Việt ...............69
3. So sánh về ý nghĩa và số lượng của từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán và tiếng
Việt........................................................................................................................................73


1


Chương II Đặc điểm ngữ pháp của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Hán và tiếng
Việt .......................................................................................................................................75
2.1. Đặc điểm cấu tạo của từ chỉ màu sắc tiếng Hán ...................................................75
2.1.1. Từ đơn ...................................................................................................................75
2.1.2. Từ hợp hành .........................................................................................................75
2.2. Đặc điểm ngữ pháp của những từ chỉ màu sắc tiếng Hán....................................79
2.2.1 Từ chỉ màu sắc làm tính từ ...................................................................................79
2.2.2. Từ chỉ màu sắc làm danh từ ................................................................................80
2.2.3. Tính chất ngữ pháp của từ chỉ màu sắc mang tính tính từ ................................81
2.2.4. Tính chất ngữ pháp của từ chỉ màu sắc mang tính danh từ ..............................83
2.3. Đặc điểm cấu tạo của các từ chỉ màu sắc tiếng Việt ............................................85
2.3.1. Từ chỉ màu phụ có hình thức cấu tạo là từ ghép ..............................................85
2.3.2. Từ chỉ màu phụ có hình thức cấu tạo là từ láy ..................................................86
2.3.3. Từ chỉ màu phụ có hình thức cấu tạo là dạng chuyển nghĩa hoán
dụ...............87
2.4. Đặc điểm ngữ pháp của những từ chỉ màu sắc tiếng Việt ...................................87
2.4.1. Đặc điểm ngữ pháp của từ chỉ màu mang tính danh từ ....................................87
2.4.2. Đặc điểm ngữ pháp từ chỉ màu mang tính tính từ .............................................88
2.5. Những điểm giống nhau về các hình thức cấu tạo từ chỉ màu sắc của tiếng Hán
và tiếng Việt ........................................................................................................................89
2.6. Những điểm khác nhau về các hình thức cấu tạo từ chỉ màu sắc của tiếng Hán


tiếng

Việt..............................................................................................................................90
2.7. Những điểm khác nhau và giống nhau về đặc điểm ngữ pháp của từ chỉ màu sắc


2


trong tiếng Hán và tiếng Việt ............................................................................................90

Chương III So sánh đặc trưng văn hoá dân tộc của từ chỉ màu sắc Ở tiếng Hán và
tiếng Việt..........................................................................................................................91
3.1. Quan niệm màu sắc của người Hán ......................................................................91
3.1.1. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu đỏ Ở tiếng Hán ........................................93
3.1.2. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu vàng Ở tiếng Hán ....................................96
3.1.3. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu xanh Ở tiếng Hán ....................................98
3.1.4. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu đen Ở tiếng Hán .......................................99
3.1.5. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu trắng Ở tiếng Hán ..................................101
3.2. Quan niệm màu sắc của người Việt .....................................................................104
3.2.1. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu đỏ Ở tiếng Việt .......................................105
3.2.2. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu vàng Ở tiếng Việt ................................. 107
3.2.3. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu xanh Ở tiếng Việt ............................... .. 109
3.2.4. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu đen Ở tiếng Việt ................................ ....109
3.2.5. Đặc trưng văn hoá dân tộc của màu trắng Ở tiếng Việt ................................. 110
3.2.6. Những điểm giống nhau về đặc trưng văn hoá dân tộc của từ chỉ màu sắc
tiếng Hán và tiếng Việt ....................................................................................................111
3.2.7.Những điểm khác nhau về đặc trưng văn hoá dân tộc của từ chỉ màu sắc tiếng
Hán và tiếng Việt ..............................................................................................................113
kết luận .............................................................................................................................115
Tài liệu tham khảo .........................................................................................................118

3



PHẦN MỞ ĐẦU

1. Ý nghĩa và mục đích của luận văn
Trong ngôn ngữ học hiện đại, việc nghiên cứu ngôn ngữ không chỉ dừng ở bản
thể ngôn ngữ mà đã tiến tới những nhân tố bên ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến bản thể
ngôn ngữ và mối quan hệ giữa chúng với nhau. Chính vì thế xu hướng nghiên cứu
ngôn ngữ xuyên văn hoá đã trở thành bình diện không thể thiếu được đối với bất cứ
thứ tiếng nào trên thế giới.
Việc tồn tại của màu sắc là khách quan, nhưng khái quát về từ chỉ màu sắc trong
các ngôn ngữ khác nhau thì có khác biệt. Trong quá trình phát triển lịch sử lâu dài của
dân tộc Hán và dân tộc Việt, nhận thức, thái độ cũng như những phong tục liên quan
tới màu sắc của hai dân tộc này đã có biến đổi rất nhiều, những biến đổi này thể hiện ở
sự nảy sinh và phát triển của từ chỉ màu sắc liên quan với các yếu tố chính trị, kinh tế,
khoa học kỹ thuật, xã hội văn hoá v.v...Sự xuất hiện tên gọi của một số màu sắc nào đó,
sự biến đổi nội hàm của một số khái niệm màu sắc nào đó, đã phản ánh sự hình thành
và biến đổi của nhận thức về mặt phân biệt màu sắc của loài người. Loài người qua sự
biến đổi của thái độ nhận thức và phong tục có liên quan về màu sắc, đã phản ánh sự
biến đổi của bối cảnh xã hội, quan niệm tư tưởng và sự ảnh hưởng của văn hoá ngoại
lai.
Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng núi liền núi , sông liền sông. Sự
giao lưu văn hóa giữa hai nước đã bắt đầu có từ thời Tần Trung Quốc [năm 111 trước
công nguyên]. “ ... Giai đoạn 1: Giai đoạn này được tính từ sau thời đại An Dương
Vương — Triệu Đà [Triều Vũ Đế] tức từ năm111trước công nguyên cho đến thế kỷ thứ

4


VI sau công nguyên” [43, trang10]. Những giao lưu văn hoá này bao gồm chính trị,
kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hoá, nghệ thuật, âm nhạc, ngôn ngữ, tôn giáo, tín
ngưỡng, thiên văn, địa lý, lễ nghi, tập tục cũng như từ chỉ màu sắc v.v.. “… Trong tiếng

Việt hiện đại có hàng ngàn từ đơn Hán Việt cùng hoạt động bên cạnh những từ “thuần
Việt”. Chúng đã hoà lẫn vào nhau như một khối thống nhất, trở thành một bộ phận
không thể thiếu trong mảng từ vựng cơ bản của hệ thống từ vựng tiếng Việt. Từ đơn
Hán Việt từ rất sớm đã có mặt trên khắp mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nếu dựa
vào trường nghĩa và theo chức năng, chúng ta có thể tìm thấy chúng trong tên bốn
chục nhóm sau.” [43, trang 82] Trong đó có nhóm thứ 28 là nhóm từ chỉ màu sắc gồm
5 từ là:
sắc—色,lục—绿,lam—蓝,hồng—红,bạch—白,v.v..” [43, trang 93]
Luận văn này có nhiệm vụ : [1] Tìm hiểu được những từ chỉ màu sắc và cách sử
dụng những từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán. [2] Đối chiếu từ chỉ màu sắc tiếng Hán và
tiếng Việt, tìm ra những chỗ giống nhau và khác nhau về ý nghĩa, cách cấu tạo từ, ngữ
nghĩa từ chỉ màu sắc và đặc trưng văn hoá của hai dân tộc Hán và Việt qua cách tri
nhận về màu sắc.

2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn của chúng tôi lấy từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán làm cơ sở khảo sát, và
từ chỉ màu sắc tiếng Việt làm đối tượng so sánh, đối chiếu, thống kê những từ chỉ màu
sắc trong tiếng Hán và miêu tả cách sử dụng của chúng, đồng thời so sánh sự giống
nhau và khác nhau của các từ đơn, từ ghép, từ láy và đặc trưng văn hoá dân tộc của từ
chỉ màu sắc trong tiếng Hán và tiếng Việt.

5


3. Nhiệm vụ của luận văn
Luận văn tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau:
[1] Trình bày một số lí luận trực tiếp liên quan đến đề tài khảo sát như khái niệm,
đặc trưng, nguồn gốc của từ màu sắc; các nhân tố xã hội tác động đến việc sử dụng từ
màu sắc, nhất là mối liên hệ giữa từ chỉ màu sắc và đặc trưng văn hoá dân tộc.
[2] Thống kê, miêu tả cách sử dụng từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán. So sánh đối

chiếu những từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán và tiếng Việt, có gì khác biệt và giống
nhau về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa và đặc trưng văn hoá dân tộc.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp thống kê, miêu tả, so sánh... cụ thể
là:
Thống kê số lượng, tần số xuất hiện và tỉ lệ phần trăm của các từ chỉ màu sắc, từ
đó rút ra những nhận xét cần thiết.
Miêu tả, phân tích, so sánh các điểm tương đồng và khác biệt của từ chỉ màu sắc
trong tiếng Hán và tiếng Việt về mặt ngữ pháp như: cách cấu tạo từ, từ ghép và từ láy
cũng như đặc trưng văn hoá dân tộc, thể hiện qua ý gnhĩa biểu trưng của từ chỉ màu
sắc.

5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia thành
ba chương:
Chương I : Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài
Chương II : Đặc điểm của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Hán và tiếng Việt

6


Chương III : So sánh đặc trưng văn hoá dân tộc của các từ chỉ màu sắc trong tiếng
Hán và tiếng Việt.

CHƢƠNG I
SO SÁNH KHÁI QUÁT VỀ Ý NGHĨA VÀ SỐ LƢỢNG CỦA TỪ CHỈ
MÀU SẮC TRONG TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT

1.1. Khái quát về từ chỉ màu sắc

Màu sắc là một hiện tượng tự nhiện, màu sắc là ― ấn tượng do vật thể phát xạ,
phản xạ hoặc ánh sáng xuyên qua mà thông qua thị giác thể hiện ra. ‖ [29] Khoa học
chứng minh màu sắc là một dải liên tiếp tồn tại trong hiện tượng tự nhiên. Hegel từng
cho rằng: “tư duy là chia cắt ra các khâu thực tế liên kết với nhau của một đối tượng
để khảo sát.” [30] Từ chỉ màu sắc trong ngôn ngữ là sản vật tư duy loại này. Nói rõ
hơn, tức là con nguòi chia cắt màu sắc tồn tại trong hiện tượng tự nhiên theo một dải
liên tiếp thành các đoạn màu, và biểu hiện bằng ngôn ngữ, từ đó từ chỉ màu sắc được
khái niệm hoá và dấu hiệu hoá. Nói một cách khác, màu sắc là ―dấu hiệu tự nhiên‖ , từ
chỉ màu sắc là ―dấu hiệu nhân tạo‖. Như vậy là từ chỉ màu sắc vừa liên quan tới hiện
tượng ngôn ngữ, vừa liên quan tới hiện tượng tự nhiên. Việc nhận thức về màu sắc của
con người là một quá trình hoạt động lâu dài của hệ thống thần kinh thị giác và não, mà
nhờ đó các màu sắc dần dần được lưu lại trong đầu chúng ta và dần dần được ―gọi tên‖.
Trong ngôn ngữ khác nhau, người ta áp dụng hình thức khác nhau để vạch ra ranh giới
từ chỉ màu sắc, đã dẫn đến sự khác nhau về các màu và số lượng các màu trong ngôn
ngữ. Ví dụ trong tiếng Hán 青[thanh] bao hàm nghĩa của xanh, lam, đen ở tiếng Việt:
青草[cỏ xanh],青菜[cải xanh],青山绿水 [non xanh nước biếc],青天[bầu trời
7


xanh],青丝[tóc đen, chỉ tóc nữ],青衣[áo màu đen], v.v...
Trong bảng thống kê những từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán, Bảng tổng hợp thống
kê từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán và tiếng Việt, các từ chỉ màu sắc có thể là từ hoặc
ngữ. Một từ chỉ màu sắc nếu là từ đơn thì chắc chắn là từ, nếu là từ ghép thì rất khó
phân biệt nó là từ hay là ngữ.
Nhìn từ phương diện nghĩa, nghĩa của thành phần cấu thành một đơn vị ngữ âm
có thể hoà hợp thành một tổng thể thì là từ, ngược lại thì là ngữ. Nhìn từ phương diện
kết cấu, hình vị cấu thành từ kết hợp chặt chẽ, không thể tuỳ ý chia ra; thành phần tổ
hợp của đoản ngữ hơi rời rạc, giữa có thể xen vào các thành phần khác.[31, trang 238]
Ví dụ: 黝黑[đen sạm] biểu thị đen, tối, nó không thể chia cắt được, nên là từ; 煤黑色
[đen như than] tương đương với than và màu đen, giữa có thể xen vào thành phần khác

như 煤一样的黑色[đen như than], nên là ngữ.

1.2. Nguồn gốc của từ chỉ màu sắc
Từ chỉ màu sắc là những từ dùng để miêu tả các loại màu sắc của sự vật, như đỏ,
đen, trắng ,vàng, xanh, tím, v.v.
Từ chỉ màu sắc là một thành phần tổ chức quan trọng của từ vựng trong ngôn ngữ,
nó có thể làm cho ngôn ngữ biểu đạt phong phú, sinh động, bày ra một thế giới màu
sắc thần kỳ của nhân loại sinh tồn cho chúng ta, mà còn thông qua từ chỉ màu sắc,
chúng ta có thể tìm hiểu được ý nghĩa tượng trưng văn hóa phong phú của từ chỉ màu
sắc, sự chứa đựng tâm lí văn hoá dân tộc và màu sắc tình cảm sâu sắc nồng thắm của
từ chỉ màu sắc.
Trong cổ Hán ngữ, nghĩa đen của màu sắc là chỉ sắc mặt, vẻ mặt, nét mặt. Ví dụ:
trong Sử Từ Ngư Phụ [《楚辞•渔父》] có câu ―màu sắc tiều tuỵ‖ [颜色憔悴]. 颜[mặt]
cùng nghĩa với 额[trán], trong từ điển Giải Văn Thuyết Chữ của Hứa Thận có viết:

8


―颜,眉之间。‖ [trán ở giữa lông mày]. ―色,颜气也。‖[sắc, khí sắc của trán]. Cho nên,
cổ nhân nói ―察颜观色‖ [nghe lời nói, trông nét mặt] tức là nhìn theo vẻ mặt để tìm
hiểu hoạt động trong lòng của người. Sau đó, nghĩa của từ 颜色 [màu sắc] đã mở
rộng phạm vi sử dụng, nó không những chỉ màu sắc, vẻ mặt, mà còn bao gồm màu sắc
của các loại sự vật, từ đó đã hình thành nghĩa bóng của 颜色[màu sắc]. bây giờ nghĩa
bóng từ này đã trở thành nghĩa trung tâm của nó. Ví dụ như trong thành ngữ 五颜六
色[muôn màu sặc sỡ], 颜 [mặt] và 色[sắc] đồng nghĩa, đều chỉ màu sắc.
Tên gọi từ chỉ màu sắc trong giới Hán ngữ học xưa nay đều chưa thống nhất . Có
người gọi là 颜色词 [từ màu sắc], có người gọi là 色彩词 [từ sắc thái], trên thực tế
các đơn vị chỉ màu sắc hoặc sắc thái không những có từ mà còn có ngữ, cho nên cũng
có người dùng 色彩词语 [từ ngữ sắc thái] để khái quát.[21, trang 51] Trong tiếng
Việt cũng như vậy: ―...Chúng tôi cũng xin quy ước, gọi chung những yếu tố chỉ màu

thống kê được là những đơn vị hay từ ngữ chỉ màu sắc, chúng tôi tránh cách gọi là từ
chỉ màu vì thực ra cho đến nay cách quan niệm về ― từ ‖ trong tiếng Việt vẫn còn là
một vấn đề tranh cãi. ‖ [49, trang 6] Luận văn của chúng tôi sử dụng tên gọi ―từ ngữ
chỉ màu sắc‖.
Có người nêu ra, sự xuất hiện của dấu hiệu màu sắc liên quan với văn hoá. Trong
ngôn ngữ màu sắc và văn hoá loài người có một số quy luật và hiện tượng chung. Năm
1969, nhà nhân loại học Mỹ Bernt Berlin và Paul Kay đã nghiên cứu từ chỉ màu sắc
của ngót 100 ngôn ngữ trên thế giới và đã nêu ra lí thuyết về từ chỉ màu sắc cơ bản. [32,
trang 286 - 289] Họ nêu ra sự xuất hiện của từ chỉ màu sắc trong các ngôn ngữ thế giới
đều tuân theo một quy luật chung: tức là mọi ngôn ngữ đều có ít nhất 2 từ chỉ màu sắc:
đen và trắng; nếu ngôn ngữ nào có 3 từ chỉ màu sắc, từ thứ 3 ắt phải là màu đỏ; nếu có
4 từ chỉ màu sắc, từ thứ 4 nhất thiết là từ màu xanh hay màu vàng; nếu có 5 từ chỉ màu

9


sắc, từ này nhất thiết là từ màu xanh hay màu vàng; nếu có 6 từ chỉ màu sắc, nhất thiết
là từ biểu thị màu lam; nếu có 7 từ chỉ màu sắc, thì là từ màu nâu; nếu có 8 từ chỉ màu
sắc hay càng nhiều, nhất thiết là từ biểu thị màu tím, hồng nhạt, da cam, xám hoặc các
màu hỗn hợp khác. Tuy nhận xét về từ chỉ màu sắc khác nhau, nhưng có thể quy nạp
như sau: sự tri nhận màu sắc của con người, kể cả khác biệt loại hình màu sắc và thứ tự
xuất hiện của từ chỉ màu sắc, quyết định ở ba yếu tố: cơ chế sinh lí của người, thuộc
tính nội bộ của màu trong thiên nhiên và tình trạng văn hoá của người. [32, trang 289]
Bản thân màu sắc là khái niệm trừu tượng, ấn tượng thị giác của màu sắc để lại
trong người là thông qua muôn vật giới tự nhiên mà truyền đạt, nếu không có đối chiếu
với vật, người ta thường khó mà nhận biết và nhớ rõ được đặc trưng của màu sắc. Cho
nên, các dân tộc trên thế giới thường nhờ vào phương pháp dùng vật chất trực tiếp định
danh cho màu sắc, để gọi tên màu sắc mà họ nhìn thấy, để màu sắc từ trừu tượng biến
thành cụ thể, hơn nữa, cũng có thể phân biệt được các loại màu sắc, đây cũng là quá
trình đi từ cảm giác đến khái niệm qua dấu hiệu. Phương thức dùng vật chất định danh

cho màu sắc, làm cho hình ảnh màu sắc biểu thị bằng vật chất càng cụ thể, sinh động
và chính xác, nên các dân tộc đều áp dụng phương pháp định danh này.
Chúng tôi cho rằng, từ chỉ màu sắc chắc chắn là tuỳ theo nguồn gốc của ngôn ngữ
mà xuất hiện. Theo đà phát triển của văn hoá xã hội, số lượng của từ chỉ màu sắc
không những càng ngày càng nhiều, mà sự phân chia của từ chỉ màu sắc cũng càng
ngày càng chi tiết.
1.3. Vai trò của từ chỉ màu sắc
Trong kho từ vựng tiếng Hán và tiếng Việt hiện đại, từ chỉ màu sắc không những
tồn tại một khối lượng lớn, mà còn có vai trò tu từ đặt biệt, rõ rệt mà các từ ngữ khác
không thể so sánh được. Ta sống mãi trong thế giới màu sắc sặc sỡ, không thể tưởng

10


tượng được nếu từ ngữ không có miêu tả về màu sắc trong ngôn ngữ là như thế nào.
Chúng ta nói chuyện, viết bài văn, không những muốn viết được dễ hiểu, viết được trôi
chảy, mà còn hi vọng viết được nghệ thuật, viết được cụ thể và sinh động, khiến cho
người nghe quên ăn, người đọc quên ngủ. Như thế thì cần phải áp dụng thủ pháp nhất
định, trong đó dùng từ chỉ màu sắc là thủ pháp quan trọng. Giống như hoạ sĩ miêu tả
vật thể tự nhiên và nhân vật bằng sắc liệu, tác thẩm văn học thông qua từ chỉ màu sắc
để miêu tả cảnh quan tự nhiên, tranh chân dung nhân vật, bầu không khí hoàn cảnh
chung quanh, tình huống đời sống v.v... Có khi sự miêu tả màu sắc cảnh quan tự nhiên
có thể để lại ấn tượng khó quên cho độc giả. Ví dụ: trong tiếng Hán, như văn xuôi Từ
Bách Thảo Viên đến nhà đọc Tam vị của Lỗ Tấn, văn xuôi Ngũ sắc thổ của Tần Mục,
văn xuôi Trà hoa phú của Dương Sóc, văn xuôi Mặt trời mọc trên sông Trường của
Lưu Bạch Vũ, đều đã sử dụng các màu sắc rực rỡ để miêu tả vật thể và cảnh quan tự
nhiên, khiến cho người đọc dường như đích thân tới nơi đó, mắt đã nhìn thấy vật và
cảnh đó. Không những như vậy, sự miêu tả màu sắc trong tác phẩm văn học còn giữ
vai trò làm nền cho bầu không khí và tô vẽ cho tình cảm. Các bạn hãy thưởng thức sự
miêu tả của Lỗ Tấn trong văn xuôi Quê Hương : “từ khe mui thuyền nhìn ra, dưới mặt

trời vàng võ, gần xa ngang mấy làng xóm hoang vắng hiu hắt, chẳng có tí nào sức
sống. [ ......从蓬隙往外一望, 苍黄的天底下, 远近横着几个萧索的荒村, 没有一些活气。]”
Đọc đến đoạn văn miêu tả này, trước mắt ta dường như xuất hiện một cảnh tượng mùa
đông lạnh lẽo cỏ cây tàn tạ. Đoạn văn dùng vàng võ thể hiện thời tiết lúc cuối đông,
không những rất thích đáng, mà còn phối hợp chặt chẽ với tấm lòng lúc bấy giờ của Lỗ
Tấn, tạo ra một bầu không khí buồn thảm.
Trong thơ, màu sắc là một chất liệu hầu như không thể thiếu. Có những câu thơ,
bài thơ rực rỡ như một bức tranh màu, có nhiều nhà thơ thích dùng màu. Trong tiếng

11


Việt, ta nhớ thi sĩ Nguyễn Khuyến ngày trước đã có lần đưa màu sắc vào đôi câu đối
viết cho bà thợ nhuộm khóc chồng, tạo một lối chơi chữ độc đáo:
Thiếp nhớ từ lá thắm xe duyên, khi vận tía, lúc cơn đen, diều dại điều khôn nhờ
bố đỏ;
Chàng ở dưới suối vàng có thấu, vợ má hồng, con răng trắng, tím gan tím ruột
với trời xanh.
Nhà thơ Đoàn Văn Cừ hồi xưa đã từng viết những bài thơ như Đám cưới mùa,
Chợ Tết, trong đó sắc màu hiện lên thật vui mắt:
Giải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà gianh,
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh...
Trong tiếng Hán, trong thơ tứ tuyệt Thuyền Đỗ Qua Châu của Vương An Thạch
[nhà Tống], câu thứ ba là ―gió xuân lại thổi xanh cây cỏ trên bờ phía nam sông Trường
[春风又绿江南岸]‖,nghe nói chữ xanh [绿] tác giả từng nghĩ đi nghĩ lại, đã dùng
mười mấy chữ như đến [到], nhập [入], qua [过], mãn [满] v.v... Cuối cùng mới quyết
định chọn chữ 绿[xanh]. Đây là những từ ngữ không thể thay thế được, từ đó có thể
thấy địa vị quan trọng và đặc biệt của từ chỉ màu sắc.
1.4. Phân loại những từ chỉ màu sắc

Từ chỉ màu sắc là một loại từ phân chia theo ý nghĩa khái niệm, không phải là
phân loại theo ngữ pháp, từ chức năng của từ chỉ màu sắc mà thấy, từ chỉ màu sắc chủ
yếu là dùng để miêu tả tính chất và trạng thái màu sắc của các loại sự vật trên thế giới.
1.4.1. Phân loại những từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán
Do số lượng từ chỉ màu sắc hết sức phong phú, hơn nữa, phương phức cấu tạo
của nó từ đầu đến cuối ở vào một quá trình trạng thái hoạt động, phát triển và biến đổi,

12


cho nên, ý kiến về việc nghiên cứu phương thức phân loại và cấu tạo của từ chỉ màu
sắc tiếng Hán cũng không thống nhất, thường xuất hiện xu hướng đa dạng hoá. Ví dụ:
ông Lưu Quân Kiệt xuất phát từ góc độ nguồn gốc từ, chia từ chỉ màu sắc tiếng Hán
thành 4 loại: từ chỉ màu sắc thuần tuý, từ chỉ màu sắc vật thể, từ chỉ màu sắc vật
thuần[sự tổ hợp của từ chỉ màu sắc vật thể và từ chỉ màu sắc thuần tuý], hình thức sinh
động của từ chỉ màu sắc thuần; [33, trang 23] ông Chiêm Nhân Phượng chia từ chỉ
màu sắc thành 2 loại lớn: từ chỉ màu sắc cơ bản và từ chỉ màu sắc phi cơ bản; [34,
trang 41] Diệp Quân chủ yếu chia từ chỉ màu sắc thành 2 loại lớn: từ chỉ màu sắc cụ
thể [gồm từ chỉ màu sắc cơ bản và từ chỉ màu sắc phổ thông ] và từ chỉ màu sắc trừu
tượng [gồm từ chỉ màu sắc trừu tượng liên tưởng và từ chỉ màu sắc tri giác]; [21, trang
35] Luận văn chúng tôi theo số lượng âm tiết của từ chỉ màu sắc, chia từ chỉ màu sắc
thành hai loại lớn: từ chỉ màu sắc đơn âm tiết và từ chỉ màu sắc đa âm tiết.

1.4.1.1. Từ chỉ màu sắc đơn âm tiết
Từ chỉ màu sắc đơn âm tiết tức là từ chỉ màu sắc do một âm tiết cấu thành, ví dụ:
红[đỏ], 黄[vàng], 绿[lục], 白[trắng], 黑[đen], 青[thanh], 蓝[lam], 灰[xám], 紫
[tím], 褐[màu hạt dẻ], 橙[màu da cam], 赤[đỏ], 绯[đỏ], 朱[đỏ son], 绛[đỏ thẫm],
翠[xanh biếc], 碧[ngọc xanh biếc / xanh biếc], 苍[xanh lá cây / xanh biếc [gồm cả
lam và lục]], 乌[đen], 玄[đen], 漆[đen], 殷[đỏ đen], 粉[hồng] ,素[trắng], 缟[trắng],
葱[xanh], 赭[đỏ], 黛[đen vàng], 黝[đen xanh],... loại từ chỉ màu sắc cơ bản này

chiếm tỉ lệ rất ít trong tất cả các loại từ chỉ màu sắc tiếng Hán. Về cấu tạo từ chỉ màu
sắc cơ bản, trong tiếng Hán cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Ông Lưu Quân Kiệt, Lưu
Vân Tuyền cho rằng, từ chỉ màu sắc cơ bản Hán ngữ hiện đại có 10 từ là 红[đỏ], 黄
[vàng], 绿[lục], 白[trắng], 黑[đen], 青[xanh], 蓝[lam], 灰[xám], 紫[tím], 褐[màu

13


hạt dẻ]; ông Lưu Đan Thanh thì cho rằng có 9 từ, bỏ 褐[màu hạt dẻ] đi. Ông Chiêm
Nhân Phượng cho rằng 6 từ 红[đỏ], 黄[vàng], 绿[lục], 白[trắng], 黑[đen], 蓝[lam]
là từ chỉ màu sắc cơ bản; 青[xanh] và 灰[xám] có thể gọi là từ chỉ màu sắc chuẩn cơ
bản. 青[xanh] là một từ chỉ màu sắc rất đặc biệt, từ trước thời nhà Tần, thì kiêm chỉ 3
màu là 绿[lục], 蓝[lam], 黑[đen], muốn biết 青[xanh] là màu gì, phải xét trường hợp
sử dụng cụ thể từ này mà quyết định. 灰[xám] là một màu quá độ, còn là một từ chỉ
màu sắc hiện vật mà cấu tạo bằng mượn tên gọi hiện vật.
Trong giao tiếp bình thường, từ chỉ màu sắc cơ bản có thể cùng với các hình vị khác
tổ hợp thành nhiều từ chỉ màu sắc. Từ chỉ màu sắc đơn âm tiết trong tiếng Hán ngoài
10 từ chỉ màu sắc cơ bản như 红[đỏ], 黄[vàng], 绿[lục], 白[trắng], 黑[đen], 青
[xanh], 蓝[lam], 灰[xám], 紫[tím], 褐[màu hạt dẻ]ra, phần lớn là từ cổ ngữ, trong cổ
Hán ngữ có thể độc lập thành từ, trong Hán ngữ hiện đại, phần lớn từ cổ ngữ không
hoặc rất ít sử dụng độc lập, có một số từ chỉ có vai trò cấu tạo từ, còn phần lớn chỉ
dùng vào văn bản, ví dụ: 赤卫队[đội xích vệ], 彤云[mây đỏ, ráng đỏ], 丹枫[cây
bàng], 绯红的晚霞[ráng chiều màu đỏ], v.v...
Từ đơn âm tiết trên đây cơ bản là tính từ, đằng sau thêm vào chữ 色[màu] có thể
tạo thành danh từ, ví dụ như 红色[đỏ], 黄色[vàng], 绿色[lục], 赭色[đỏ], 黛色[đen
vàng], 粉色[hồng] ,素色[trắng], 乌色[đen], 玄色[đen], 翠色[xanh biếc], 碧色
[ngọc xanh biếc / xanh biếc]...

1.4.1.2. Từ chỉ màu sắc đa âm tiết
Từ vựng tiếng Hán có một quá trình phát triển từ đơn âm tiết đến đa âm tiết. Từ

chỉ màu sắc tiếng Hán trong quá trình phát triển này, cũng đã được phát triển đầy đủ,
về số lượng đã vượt ra khỏi phạm vi từ chỉ màu sắc đơn âm tiết vốn rất có hạn, sử dụng

14


nhiều thứ phương thức cấu tạo, khiến hình tượng vật thể ngày càng rõ ràng, cụ thể.
Phương thức cấu tạo của từ chỉ màu sắc đa âm tiết là đa dạng và phong phú. Mấy loại
hình thường gặp như sau:
[1] Phương thức tổ hợp: tức là từ chỉ màu sắc do hai từ chỉ màu sắc đơn âm tiết tổ
hợp với nhau mà hình thành. Trong đó lại có thể chia thành hai loại:
A. Do hai từ chỉ màu sắc đơn âm tiết thuộc phạm trù màu sắc khác nhau tổ hợp
hình thành, ví dụ như 绛紫[tím đỏ], 紫红[đỏ tía], 青紫[xanh tím], 灰白[xám trắng],
苍白[trắng xanh],... chúng biểu thị một màu hỗn hợp, hình vị màu sắc đứng trước biểu
thị màu phụ, hình vị màu sắc đứng sau biểu thị màu chính, giữa hai hình vị hình thành
một quan hệ chính- phụ tu từ và bị tu từ. Ví dụ: 绛紫[tím đỏ] là trong tím thẫm mang
một tí đỏ, 紫红[đỏ tía] là trong đỏ thẫm mang một tí tía, 苍白[trắng xanh] là trắng
mang một tí màu xanh.
B. Do hai từ chỉ màu sắc đơn âm tiết cùng một phạm trù màu sắc hình thành với
quan hệ liên hiệp. Ví dụ: 赤红[đỏ], 朱红[đỏ son], 绯红[đỏ ửng], 绛红[đỏ thẫm]...
Từ góc độ Hán ngữ hiện đại mà thấy, ngữ nghĩa chủ yếu thể hiện ở hình vị sau.
Hai loại từ chỉ màu sắc A và B thông thường có thể thêm vào một từ biểu thị khái niệm
màu sắc---色(màu)tạo thành cụm danh từ. Ví dụ: 紫红色[màu đỏ tía], 灰白色[màu
xám trắng],赤红色[màu đỏ], 朱红色[màu đỏ son], 绯红色[màu đỏ ửng], 绛红色
[màu đỏ thẫm], v.v...
[2] Phương thức ví von: tức là hình vị trước trong từ chỉ màu sắc gồm ý vị ví von,
biểu thị ý nghĩa giống như cái gì đó. Phương thức ví von có thể chia thành hai loại:
A. Thêm chữ 色[màu] vào sau hình vị gọi tên vật thể, ví dụ: 米色[màu kem], 驼
色[màu lạc đà], 茶色[màu nước chè], 桃色[màu hoa đào], 肉色[màu da người], 咖
啡色[màu cà-phê], 玫瑰色[màu hoa hồng], v.v... Loại từ chỉ màu sắc này mang tính


15


hình tượng, thường khiến người nghe nghĩ đến nét đặc trưng của các vật thể, ví dụ:
古铜色的皮肤[da dẻ màu đồng cổ], màu đồng cổ đây ngoài ngữ nghĩa màu be, còn
khiến người ta nghĩ đến tính chất bóng láng của màu đồng cổ.
B. Kiểu B do hình vị gọi tên vật thể được thêm vào từ chỉ màu sắc đơn âm tiết mà
thành. Phạm vi màu sắc của hình vị danh từ đằng trước tương đối hẹp, phạm vi màu
sắc của từ chỉ màu sắc đơn âm tiết đằng sau tương đối rộng. Ví dụ:
a. 米黄 [màu kem], 杏黄[vàng mơ], 桔黄[màu da cam], 桃红[hoa đào], 银白
[trắng bạc], 玫瑰红[ màu hoa hồng], 孔雀蓝[ màu xanh lông công], 月白[trắng
xanh], v.v...
b. 雪白[trắng tuyết], 乌黑[đen như cốc], 漆黑[đen như mực], 铁青[xanh thẫm],
火红[đỏ gay], 血红[đỏ lòm], 蜡黄[vàng bệch], v.v...
Trong đó loại a chủ yếu biểu thị bản thân màu sắc, đằng sau thường có thể thêm
vào chữ 色[màu], ví dụ: 米黄色[màu kem], 杏黄色[vàng mơ], 桔黄色[màu da
cam], 桃红色[màu hoa đào], nhưng từ chỉ màu sắc phương thức ví von đa âm tiết,
như 玫瑰红[ màu hoa hồng], 孔雀蓝[ màu xanh lông công] ... do bị hạn chế về
nguyên tắc tiết tấu ngữ âm và tiết kiệm ngôn ngữ, thông thường đằng sau chúng không
được thêm vào chữ 色[màu]. Ví dụ: 一件玫瑰红的毛衣[một chiếc áo len màu hoa
hồng], thông thường không thể nói: 一件玫瑰红色的毛衣. Loại b chủ yếu biểu thị
một thứ trạng thái, đằng sau không thể thêm vào chữ 色[màu], thông thường không
thể nói: 雪白色[trắng tuyết], 漆黑色[đen như mực],火红色[đỏ gay], nhưng chúng có
thể láy, ví dụ như 雪白雪白的[trắng như tuyết], 火红火红的[đỏ như lửa], còn có thể
làm vị ngữ của nhóm từ chủ-vị, ví dụ: 墙壁雪白[bức tường trắng tinh], 头发乌黑
[mái tóc đen nhánh]; loại a không láy được, cũng không thể làm vị ngữ.
Loại từ chỉ màu sắc này là nhờ vào hiện vật để biểu thị màu sắc, nên thông

16



thường không láy bản thân hiện vật. Ví dụ không nói 桃红的桃花[hoa đào màu hoa
đào], 驼色的驼毛[lông lạc đà màu lạc đà], 玫瑰红的玫瑰[hoa hồng màu hoa hồng],
v.v...
[3] Phương thức gợi tả: Do một tính từ biểu thị cảm giác, tính chất và trạng thái
hoặc mức độ thêm vào một từ chỉ màu sắc đơn âm tiết hình thành, ví dụ như 嫩绿
[xanh nhạt], 深红 [đỏ thẫm], 鲜红 [đỏ tươi], 浅红[hồng nhạt], 浓黑[đen đậm], 惨
白[tái xanh],... loại từ chỉ màu sắc này thông thường có thể thêm vào chữ 色[màu] để
biểu thị khái niệm màu sắc, nhưng bản thân chúng đã tỏ ra ý nghĩa mức độ, nên thông
thường không được tu từ của từ biểu thị ý nghĩa mức độ nữa .
[4] Phương thức láy: chỉ từ chỉ màu sắc cấu tạo bằng phương thức từ chỉ màu sắc
đơn âm tiết thêm vào thành phần hậu tố láy. Phương thức cấu tạo này chủ yếu có hai
loại:
A. Từ chỉ màu sắc đơn âm tiết + hậu tố có hai âm tiết, ví dụ như 黑洞洞[tối mò
mò], 白茫茫[trắng xóa một màu], 红通通[đỏ rực / đỏ sẫm], 黄灿灿[vàng ối], 灰蒙
蒙[mờ mịt / mù mịt], 绿油油[xanh mướt / xanh biếc], v.v...
B. Từ chỉ màu sắc đơn âm tiết + hậu tố ba âm tiết, ví dụ như 黑不溜秋[đen sì sì /
đen thui], 白不呲咧[bạc phênh phếch/ nhạt phèo phèo],灰不叽叽[xám xìn xịt], v.v…
Từ chỉ màu sắc bằng phương thức láy thông thường kèm theo cảm giác và ấn
tượng nào đó xuất hiện trong tình huống khác nhau của con người, tính quan trọng
của cảm giác và ấn tượng kèm theo này không kém hơn bản thân từ chỉ màu sắc
trong đa số tình huống. Ví dụ: 黑压压的一群人[một đám người đông nghịt] cố
nhiên là nhấn mạnh 黑[đen], nhưng càng quan trong hơn là nhấn mạnh một đám
người mờ nhạt. Từ chỉ màu sắc có thêm hậu tố, thường tạo một thứ cảm giác [sống
động] gợi tả, như 黄澄澄[vàng rộm / vàng óng], 白花花[trắng ngần / trắng muốt ],

17



蓝盈盈[xanh biếc / xanh thẳm / bầu trời xanh thẳm], ... đã miêu tả một cách sinh
động sự vật khách thể. Nhưng phạm vi sử dụng của loại từ chỉ màu sắc này tương
đối có hạn, chỉ kết hợp sau một số từ nhất định. Kiểu này có cấu tạo theo trật tự
giống tiếng Việt: C + P [chính trước, phụ sau] , vídụ như 黑洞洞[tối mò mò] gợi
tả không gian, 黑茫茫[tối đen thăm thẳm] gợi tả cảnh sắc ban đêm tối đen, 红彤彤
[đỏ rực/ đỏ sẫm]gợi tả mặt trời mới mọc và ráng chiều, 黄澄澄[vàng rộm / vàng óng]
gợi tả đồ vật màu vàng và chói mắt như vàng, hạt thóc, 白花花[trắng ngần / trắng
muốt ] gợi tả bạc và nước, 白皑皑[trắng xoá / trắng phau] gợi tả tuyết, 绿茵茵
[xanh mơn mởn] gợi tả bãi cỏ, 绿油油[xanh mướt / xanh biếc] gợi tả mùa màng và
rau cỏ.
Từ chỉ màu sắc đa âm tiết ngoài phương thức cấu tạo mấy loại thường gặp như
trên, còn có mấy phương thức cấu tạo đặc biệt. Ví dụ: 军绿[màu bộ đội], 公安蓝
[xanh lam công an], 海军蓝[xanh lam hải quân], 学生蓝[xanh lam học sinh], v.v... thì
là lấy những người sử dụng màu sắc thuộc một khối xã hội đặc biệt, tư cách xã hội của
họ cố định, số người đông, màu sắc nào đó mà họ cùng sử dụng dần dần đã hình thành
một thứ ―màu tiêu chí‖. Còn có 刚果红[màu hồng Công - gô], 中国白[màu trắng
Trung Quốc], 巴黎绿[màu xanh Pa-ri], 北京蓝[màu xanh lam Bắc Kinh], 淮安红
[màu hồng Hoài An], 西洋红[màu đỏ Tây], v.v...thì là lấy nơi sản xuất để gọi tên màu
sắc; 永乐鲜红[đỏ tươi Vĩnh Lạc], 景泰蓝[ Cảnh Thái lam ] ... thì dùng niên hiệu thời
xưa để tu từ màu sắc.
1.4.2. Phân loại những từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt
Phân loại những từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt cũng có ý kiến khác nhau, ví dụ
như chia từ chỉ màu sắc thành hai loại: từ chỉ màu cơ bản và từ chỉ màu phụ.[39,
trang142; 40, trang 35 ] Còn Nguyễn Thị Thu Trang chia từ chỉ màu sắc thành hai loại:

18


đơn vị chỉ màu đơn tiết và đơn vị chỉ màu đa tiết; [56, trang 66] Đơn vị chỉ màu đơn
tiết gồm yếu tố đơn tiết phụ thuộc [ô, hắc, mực, xích, thang, hoáng, bạch,...] và yếu tố

đơn tiết tự do [xanh, đỏ, tím, vàng , trắng , nâu, đen, xám,...]; đơn vị chỉ màu đa tiết
gồm đơn vị láy gợi tả sắc thái màu [đo đỏ, xanh xanh, trăng trắng, tim tím,...], đơn vị
ghép gợi tả màu[trắng ởn, vàng hoe, tím thẫm, xanh ngắt, đỏ au,...] và đơn vị ghép thực
thể hoá chủng loại màu[màu gan gà, màu hoa chanh,...]. Chúng tôi chia từ chỉ màu sắc
trong tiếng Việt thành từ chỉ màu cơ bản và từ chỉ màu phụ.
Số lượng các từ chỉ màu cơ bản của tiếng Việt theo B. Berlin và P. Kay, được
Paul Madarasz nghiên cứu và đưa ra số lượng gồm 9 màu là: trắng, đen, đỏ, vàng,
xanh, nâu, tím, hồng, xám; Còn với các nhà nghiên cứu trong nước, tuỳ từng mục đích
nghiên cứu đã đưa ra ý kiến khác nhau về số lượng: gồm 7 màu trắng, đen, đỏ, tím,
vàng, xanh, nâu [Đào Thản 1993] và 5 màu trắng, đen, đỏ, vàng, xanh[Chu Bích Thu,
1995]; Trịnh Thị Thu Hiền cho rằng, trong tiếng Việt từ chỉ màu cơ bản hợp lý nhất là
số lượng 8 màu cơ bản gồm: trắng, đen, đỏ, vàng, xanh, nâu, tím, xám, vì những màu
này mang đặc trưng riêng của từ chỉ màu cơ bản tiếng Việt:
-- Đây là những đơn vị đơn âm tiết, đơn giản về hình thái học – khác với sự phức
tạp về hình thái của các từ chỉ màu phụ[cánh gián, hoa cà, đen nhánh,...]. Các tiếng như
mun, bạch, hắc...là từ đơn ở tiếng Hán nhưng vào tiếng Việt, chúng chỉ là tiếng [ hình
vị], kết hợp hạn chế trong một số tổ hợp cố định như ngựa bạch, ngựa mun. Mà những
tổ hợp này là từ ghép đa tiết vì có bạch, mun là tiếng có nghĩa nhưng không hoạt động
độc lập, không phải là từ đơn, không nói : màu bạch.
– Mỗi từ chỉ màu cơ bản đều mang tên gọi chung cho một nhóm màu phụ tương
ứng.
– Hay nói cách khác, có thể làm trung tâm cho một nhóm màu tạo thành một

19


trường nghĩa. Như vậy, tương ứng với 8 từ chỉ màu cơ bản sẽ có 8 nhóm màu phụ là:
a] đen: mun, hắc, huyền. ô, đen kịt, đen sì, đen nhánh, thâm, mực,...
b] trắng: bạc, bạch, ngà, ngà voi, sữa, kem, trắng trẻo, trắng hếu,...
c] đỏ: điều, hồng, huyết dụ, tiết dê, son, đào bã trầu, cánh sen, hoa hiên, bồ quân,

mận chính, đỏ ối, đỏ quạch,...
d] vàng: mật ong, hoàng yến, nghệ, chanh, đồng, gừng, da cam, mỡ gà, lòng tôm,
nắng, hổ phách, mơ, vàng xuộm, vàng óng, vàng rơm,...
e] xanh: lam, chàm, lục, lơ, cánh trả, cổ vịt, lá mạ, cốm, nõn chuối, da trời, lá cây,
cô ban, ngọc bích, nước biển, rêu, trứng sáo, hồ thuỷ, biếc, xanh ngắt,...
f] tím: hoa cà, sim, hoa mua, tím huế, tím chết, tím than, tím ngắt, tím đỏ,...
g] nâu: gạch, gụ, đất, bánh mật, cánh kiến, hạt dẻ, nâu non, nâu đất,...
h] Xám: tái, tro, khói, lông chuột, ghi, ghi xám, muối tiêu, chì, xám xịt,...
Tám nhóm màu này là tám trường nghĩa về màu cụ thể, tập hợp thành trường lớn
là trường từ vựng ngữ nghĩa về màu sắc.
- Có phạm vi sử dụng rộng: tức là chúng có thể được sử dụng cho các đối tượng vật
thể đa dạng, Có thể thấy rõ điều này khi so sánh chúng với các từ chỉ màu phụ - là
những từ thường chỉ là sử dụng cho đối tượng nhất định nào đó. Ví dụ: xanh - đối
tượng có thể là người [da xanh...], vật, sự vật [quả xanh, mây xanh...]; trong khi xanh
bủng, xanh rớt chỉ dùng cho da người, nõn chuối, hồ thuỷ chỉ dùng cho vải vóc, v.v...
II. So sánh khái quát vế ý nghĩa và số lƣợng của từ chỉ màu sắc trong tiếng
Hán và tiếng
2.1. Bảng thống kê những từ chỉ màu sắc trong tiếng Hán
Với khối tư liệu thu thập được chúng tôi lập chúng thành một bảng thống kê. Các
từ chỉ màu sắc được sắp xếp theo từng nhóm. Ví dụ, các từ và tổ hợp từ cùng chỉ đen

20


được xếp vào một loại.
Theo tài liệu thống kê ở [5, trang 53- 60] tiếng Hán có hơn 1100 từ chỉ màu sắc,
bảng thống kê của luận văn này chỉ thu thập những từ chỉ màu sắc thường dùng mang
nghĩa màu. Ví dụ: 黑紫色[đen tía]、乌漆墨黑[đen sì]、雪白[trắng tuyết]、朱红[đỏ
son]、碧绿[xanh biếc]、鸭绿[xanh lông vịt]、密黄[vàng mật] ... Có số lượng là 629 từ.
Bảng thống kê này chưa thu thập những từ lấy vật để gợi tả màu sắc. Vi dụ: 湖色[màu

nước hồ]、荷花色[màu hoa sen]、虎皮色[màu da hổ]、蜂蜜色[màu mật]、葵花色
[màu hoa hướng dương]、马粪色[màu cứt ngựa]、泥土色[màu đất]、苹果色[màu táo
tây]、葡萄色[ màu nho]、咖啡色[màu cà-phê] v.v... [gần 200 từ ] vì ít phổ biến.
QuaBảng thống kê này ta có thể tìm hiểu được cách dùng của những từ chỉ màu
sắc trong tiếng Hán. Bảng thống kê này gồm 5 cột sau đây:
Cột 1: Số thứ tự
Cột 2: Từ chỉ màu sắc
Cột 3: Tổng số đơn vị mỗi nhóm màu
Cột 4: Tỉ lệ [%]
Cột 5: Vídụ trong các tác phẩm

BẢNG THỐNG KÊ NHỮNG TỪ CHỈ MÀU SẮC TRONG TIẾNG HÁN
Thứ
tự
1

Màu
sắc
黑色
[hei se]
mµu ®en

Luợng

Tỉ Lệ
[%]

92

14.65%


Số

Từ chỉ màu sắc xuất hiện trong các tác phẩm
那煤气管象黑色巨龙 火车赛过成群结队的猛虎 今天在这迷茫
的云雾里狂奔漫舞。……《征途》郭先红 上海人民出版社

21


2

黯黑
[an hei]
®en s×

最为奇特的是 偶尔 还有一缕色彩怪异的细微光芒 在黯黑的
贼狼滩上忽现忽灭 更使人感到神秘莫测 胆战心寒! ……《贼狼滩》
李北桂 长江文艺出版社

3

暗黑
[an hei]
®en s×

4

苍黑
[cang hei]

®en xanh

5

…… 林子深处 暗黑一团 什么也看不见。……《郭小刚诗选》河北
人民出版社
……闷雷般的泉声 像昂扬不绝的鼓点 激发着 如墨的泉水 一刻不
停地涌动。……《新桃花扇》 谷期范 上海文化出版社

茶黑色
[cha hei se]
mµu ®en chÌ

茶黑色眼圈的成因则和年龄增长息息相关 长期日晒造成色素沉
淀在眼周 久而久之就会形成挥之不去的茶黑色眼圈。……《大众医
学》 上海科技出版社

第 期

…… 我跟随母亲入宫观看歌舞表演.我遇见了我的弟弟。母亲疼爱的
溜黑
6

[chu hei]
đen lỏng

抱起他, 戏谑的说:彻儿长大了要讨媳妇,这些宫女你要哪一个?他
摇了摇脑袋。于是母亲接着问:那你要娶谁呀?他扑闪着溜黑的眼睛,
紧紧盯着躲在母亲身后的我, 大声的说:如果能娶到阿娇姐姐,我愿盖
金屋以藏之.。我的脸刷的红了。童言无忌.周围的人都咯咯的笑了。

《收
获》收获文学杂志出版社

第 期

属都岗湖畔是中甸有名的牧场,这里草场广阔,水草丰茂,每年
7

黔黑
春夏之际,成群的牛羊游弋于湖畔,牧棚星星点点,置身湖畔,背负
đen sì
[dai hei]

青山,面临绿水,牛群点点黔黑,牧笛声声入耳,让人深切地感受到
高原人闲放、悠游的生活情趣。
《中国旅游》时尚出版社





8

黑红
[hei hong]
®en ®á

9

黑黄


李德江黑红脸膛上堆满了笑容 扬了扬两道又黑又粗的大刀眉
敬重而又感叹地说…… 《征途》郭先红上海人民出版社
大家看时 写道是 “桂霭桐阴坐举觞 长安涎口盼重阳。眼前道

22


[hei huang]
®en vµng

路无经纬 皮里春秋空黑黄。”……《红楼梦》 曹雪芹 高鹗 岳麓
书社

10

黑灰
[hei hui]
®en x¸m

11

黑蓝
[hei lan]
®en lam

……居民纷纷拉记者到家中 看塞满黑灰的纱窗 看被粉尘腐蚀成
“麻子”的汽车。……《深圳晚报》
蓝羽是家鸽中最常见的羽毛 它的羽毛有浅蓝灰直至黑蓝灰 其
间还有许多中间色调。……《上海信鸽》上海信鸽协会出版社

第 期

12

黑绿
[hei lu]
®en xanh

13

黑青
[hei qing]
®en xanh

14

黑紫色
[hei zi se]
®en tÝa

15

黑棕色
[hei zhong se]
màu đen nâu

16

17


……第二个瘦长短髯 穿着领黑绿盘领木棉衫。
《水浒全传》施耐庵岳
麓书社
……它睁开眼睛 看了一眼基马 发现基马还是一身黑青 便慢慢地爬
了过去……《青色天堂》和夏 海南出版社
海燕那枣红的嘴甲 桔黄色的颈子 黑紫色的羽毛 显得多么美
丽诱人啊! ……《渔岛怒潮》姜树茂 人民文学出版社
……雄蜂体长

毫米 体色黑或黑棕色 全身被灰色绒毛……

《蜜蜂的品种》陈士平 中国农业出版社

黑赭色

……这里洞天跨度和空间极大 由近而远 重重叠叠 矗立着黑赭色

[hei zhe se]
màu đen son

的峰峦 环抱起伏 千岩竞秀 深得山之性情。《毕节晚报》

黑褐色

……恶鹫越加被激怒了 它将巨翅一拍 脖颈高昂 伸起黑褐色的铁

[hei he se]
màu đen nâu

喙 凶狠地对准小狼娃的太阳穴啄下来。……《贼狼滩》李北桂 长江

文艺出版社
黑龙潭是一个方圆大约一百平方米的天然湖泊 坐落在螺矶山半

18

幽黑
[you hei]
đen đen

山腰的一个山谷里 据说是上古一条神龙一次憩息时留下的痕迹
黑龙潭水深不见底 从岸上往下望去 潭水青绿中带着幽黑 就像是一

23


Tranh luận tiếp về tiếng Việt “lệch chuẩn”

VOV.VN - Ám ảnh sợ ngọng và “ép tiếng theo chữ” có thực sự khoa học và hữu ích?

Một trường hợp nữa là hệ thống 19 nước nói tiếng Tây Ban Nha ở châu Mỹ Latin – những nước này từ lâu không còn là một bộ phận của nước Tây Ban Nha ở châu Âu nữa dù 20 nước này cùng chung một ngôn ngữ. Không những vậy, 19 nước châu Mỹ Latin nói tiếng Tây Ban Nha kia cũng không sáp nhập với nhau thành một quốc gia dù cùng nói một ngôn ngữ, cùng chung một cội nguồn văn hóa và nằm cạnh nhau về mặt địa lý [ở vùng Nam Mỹ và Trung Mỹ]. Lịch sử vẫn có quy luật vận động riêng của nó.

Trung Đông đại bộ phận các nước nói tiếng Arab nhưng các nước này hiện nay không thống nhất thành một dân tộc Arab và một quốc gia Arab.

Ở Bắc Phi, người Ai Cập thậm chí bỏ cả tiếng mẹ đẻ của họ để chuyển sang dùng tiếng Arab. Nhưng đối với thế giới, dân tộc Ai Cập vẫn là dân tộc Ai Cập với các nét khác biệt với các dân tộc Trung Đông, dù cho hiện nay một bộ phận người Ai Cập tự nhận mình là người Arab.

Ở Đông Nam Á, hai nước Malaysia và Indonesia cùng nói chung một thứ tiếng Mã Lai [ở nước thứ nhất, ngôn ngữ này có tên gọi là Bahasa Malaysia, ở nước thứ 2 thì được gọi là Bahasa Indonesia] nhưng đây vẫn là 2 dân tộc riêng, 2 quốc gia riêng. Tương tự, Singapore nói tiếng Hán, một tỷ lệ lớn dân cư là người Hoa, nhưng nước này không tự nhận mình là một bộ phận lãnh thổ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Các trường hợp trên chứng tỏ một điều rằng nhiều dân tộc, nhiều quốc gia có thể cùng chung một ngôn ngữ, và ngôn ngữ chỉ là một khía cạnh của chủ nghĩa dân tộc.

Tinh thần Việt

Ngày nay khó ai có thể nghi ngờ tinh thần dân tộc “ngút trời” của người Nhật Bản. Tuy “nhập Âu thoát Á”, người Nhật vẫn tôn trọng truyền thống và có ý thức gìn giữ rất tốt bản sắc của họ. Với chủ nghĩa dân tộc cực đoan, họ còn từng tham gia Chiến tranh Thế giới thứ nhất và thứ hai. Đến nay quan hệ giữa họ và Trung Quốc vẫn căng thẳng do di sản của Thế chiến 2 và vấn đề quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Du khách Nhật khi ra nước ngoài nhìn chung đều rất trật tự và giữ gìn cẩn thận hình ảnh đất nước họ. Khi đối mặt với thảm họa thiên nhiên như động đất và sóng thần, người Nhật đã thể hiện một tinh thần đoàn kết và bản lĩnh Nhật mà cả thế giới phải nể phục. Nhật Bản còn đóng góp cho văn minh nhân loại bằng những phát triển công nghệ đầy sáng tạo.

Các Hán tự được sử dụng phổ biến trong báo chí Nhật Bản. [Ảnh chụp màn hình website báo Mainichi – một trong những tờ báo lớn nhất Nhật Bản].

Ấy vậy mà kho từ tiếng Nhật lại bao gồm rất nhiều từ “Hán-Nhật”. Không những thế, quốc gia Nhật Bản còn lấy Hán tự [Kanji] làm chữ viết chính thức và áp đảo của họ trong mọi mặt đời sống. Hiện không có dấu hiệu nào cho thấy Nhật Bản sẽ bỏ chữ Hán để chuyển sang dùng hoàn toàn chữ Hiragana và Katakana [2 loại chữ ghi âm tiết do họ tạo ra dựa trên Hán tự] cũng như chữ Latin. Cũng xin lưu ý, khác với Hàn Quốc/Triều Tiên, Nhật Bản chưa bao giờ bị một triều đại Trung Quốc nào cai trị. Do vậy việc “vay mượn” cả từ và chữ này là trên tinh thần tự nguyện khi người Nhật thấy những yếu tố vay mượn đó phục vụ đắc lực cho văn hóa dân tộc.

Thực tế này gợi ý rất có thể yếu tố quyết định trong thành công của Nhật Bản không nằm ở hình thức từ vựng và chữ viết của họ mà là ở tinh thần Nhật Bản, ý chí Nhật Bản.

Trở lại với vấn đề tiếng Việt, nhà trí thức Phạm Quỳnh từng nói “tiếng ta còn, nước ta còn” [tức tiếng Việt còn thì nước Việt còn]. Điều này không sai. Ngôn ngữ không chỉ phản ánh văn hóa và lối tư duy mà còn thể hiện sự độc lập chính trị.

Nhưng như các phân tích ở các phần trên, ngôn ngữ Việt tuy quan trọng nhưng chỉ là một phần của cái quan trọng hơn, bao trùm hơn, đó là tinh thần Việt, giá trị Việt, hồn cốt Việt.

Chính nhờ cái tinh thần Việt này mà tiếng Hán khi được đưa vào nước ta bằng gươm đao và vó ngựa xâm lược với mưu đồ đồng hóa đã không tài nào xâm nhập sâu vào cơ cấu xã hội Việt được, chỉ phổ biến ở một bộ phận dân cư thành thị và tầng lớp quan lại làm việc cho chính quyền phương bắc. Mãi đến khi Việt Nam giành độc lập tự chủ hoàn toàn sau 1.000 năm Bắc thuộc thì các từ gốc Hán mới bắt đầu xuất hiện nhiều và chủ động trong tiếng Việt, để phục vụ nhu cầu chấn hưng dân tộc và phát triển đất nước. Hay sau này, khi buộc phải nói tiếng Pháp dưới chế độ thực dân, người Việt vẫn âm thầm và kiên trì nuôi ý chí phục thù, giành lại độc lập dân tộc.

Độc lập dân tộc của Việt Nam trước các nước lớn

VOV.VN - Chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã, đang và sẽ tiếp tục soi sáng con đường chúng ta đi.

Vậy ngày nay chúng ta phải thể hiện và phát huy tinh thần Việt như thế nào?

Tất nhiên chúng ta có thể và nên cố gắng sử dụng ngôn ngữ Việt chuẩn mực. Phải biết tôn trọng tiếng mẹ đẻ. Những chỗ phải in song ngữ trên lãnh thổ mình thì phải ưu tiên tiếng Việt [không phải tiếng Anh hay tiếng Hán với tư cách là tiếng nước ngoài]. Khi ra nước ngoài thì đừng làm xấu hình ảnh người Việt trong mắt người ngoại quốc.

Nhưng quan trọng hơn, chúng ta cần nỗ lực tránh những thói xấu và tiêu cực gây bức xúc ở ngay trong nước mà báo chí đã nêu ra rất nhiều. Chẳng hạn, không thể vì lợi ích nhóm, vì chút lợi ích kinh tế từ các dự án nước ngoài mà phá hủy môi trường thiên nhiên. Nói như đương kim Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, chúng ta quyết không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng bằng mọi giá.

Về phần mình, bà con nông dân có thể bày tỏ tinh thần Việt bằng cách không đổ xô chạy theo các mức “giá hời” ban đầu mà khá nhiều thương lái Trung Quốc tung ra với ý đồ lũng đoạn thị trường, ảnh hưởng xấu đến kinh tế và môi trường đất nước ta, cũng như bản thân họ.

Trong khi đó bà con kinh doanh cần tránh hiện tượng nhập hàng lậu từ Trung Quốc vừa gây hại cho các doanh nghiệp trong nước, vừa có thể đe dọa sức khỏe người Việt.

Và gần gũi hơn, những người trồng rau nào đó hãy chấm dứt trình trạng chia lô: Rau sạch dành cho gia đình mình, còn rau bẩn - “phun thuốc các kiểu” thì để bán cho thiên hạ, sống chết mặc bay.

Tinh thần Việt còn thể hiện rất rõ trong việc nói KHÔNG với các hành động xấu xí như vòi vĩnh bệnh nhân, bán hàng rởm, rút ruột công trình, gian lận bán xăng tại các cây xăng,... cùng muôn vàn các thể loại tham nhũng vặt lẫn tham nhũng lớn khác./.

Triều đình Việt Nam bỏ thi chữ Hán năm 1919: Cơ hội để Quốc ngữ ''lên ngôi''?

Đăng ngày: 15/01/2020 - 14:55Sửa đổi ngày: 16/01/2020 - 21:04

Đăng Cổ Tùng Báo, báo song ngữ Hán - Quốc ngữ, do Nguyễn Văn Vĩnh chủ bút [năm 1907]. Trong ảnh, trang bìa chữ Hán và trang Quốc ngữ có bài ''Gái đảm'' của Tân Nam Tử. Báo Quốc ngữ đầu tiên tại Bắc Kỳ. Copy d'ecran
Trọng Thành

Năm 2019 vừa qua, trong lĩnh vực văn hóa tại Việt Nam, một hiện tượng đáng chú ý là có nhiều hoạt động xoay quanh dịp kỷ niệm 100 năm kỳ thi chữ Hán cuối cùng. Kỷ niệm 100 năm để trở lại với di sản gần 1.000 nămNho học [1]. Nhưng dịp kỷ niệm này cũng là cơ hội để soi tỏ một giai đoạn tương đối ngắnmới đây, tuy được coi là quyết định đối với sự lên ngôi của chữ Quốc ngữ, song trên thực tế còn rất ít được nghiên cứu.

Quảng cáo
Đọc tiếp

Khoa thi năm Kỷ Mùi [1919] là khoa thi Nho học cuối cùng ở Việt Nam. Lý do chấm dứt được vua Khải Định đưa ra trong lời phê tờ trình của bộ Học như sau: ''Trẫm nghĩ rằng quy chế cựu học đã không còn đáp ứng được điều mong muốn, trong khi con đường tương lai của tân học đang thênh thang mở rộng trước mặt'' [sách Khải Định chính yếu sơ tập] .... Quyết định bỏ thi chữ Hán năm 1919 của triều đình Việt Nam có phải là cơ hội để chữ Quốc ngữ lên ngôi?

Mời nghe Tạp chí Xã hội "Quốc ngữ lên ngôi và khoa cử Hán học"

Khoa cử Nho học chấm dứt nhường chỗ tự nhiên cho sự lên ngôi của chữ Quốc ngữ, về mặt lô-gic hình thức thông thường, đó là điều dễ chấp nhận. Thế nhưng trên thực tế, sự lên ngôi của chữ Quốc ngữ diễn ra như thế nào so với quyết định đặt dấu chấm hết này đối với khoa cử Nho học?

Đây là chủ đề đã được thảo luận khá rộng rãi trong năm vừa qua tại Việt Nam. Theo nhiều nhà nghiên cứu, sự lên ngôi của chữ Quốc ngữ trên thực tế đã diễn ra từ sớm, trước rất nhiều so với quyết định của vua Khải Định bỏ hoàn toàn thi cử Hán học năm 1919.

1915: Hồi trống báo ''chợ văn-chương'' sắp tàn

Sau đây là nhận định của nhà ngôn ngữ học Hoàng Dũng, Hội Ngôn Ngữ Học thành phố Hồ Chí Minh, với RFI tiếng Việt:''Tôi hoàn toàn đồng ý là đây là một cơ hội, một cái dịp để cho người ta nhìn lại. Chữ Quốc ngữ như một dòng sông, nó có khởi đầu, và trên dòng chảy của nó chúng ta cắt ra 100 năm để chúng ta kỷ niệm, thì cái đó có những lý do khách quan. […] Tại sao lại chọn cái đạo dụ của ông Khải Định, một ông vua mà lịch sử đánh giá rất là tệ hại ? Trong lời nói đầu của ông chủ tịch Hội ngôn ngữ học thành phố Hồ Chí Minh, để mở đầu cho hội thảo ngày 21/12 vừa rồi [2], tôi cho nói như vậy là đầy đủ, ông ấy nói thế này: Ta biết rằng chữ Quốc ngữ ở miền Nam sử dụng trước, sau đó lan dần ra cả nước. Và năm 1915, ở miền Bắc đã bãi bỏ thi Hương rồi. Ông Phạm Quỳnh nói đó là ''hồi trống sau cùng đã báo từ nay chợ văn-chương không họp nữa. Ai còn gồng nặng, gánh nhẹ mà quẩy về xoay nghề khác''.

Thực ra nói như thế là đúng, vì phải đến ba năm sau, tức 1918, khi Khải Định ra đạo dụ chính thức bãi bỏ khoa cử Nho học. Và năm 1919, khoa thi Hán học cuối cùng được tổ chức ở miền Trung, thì ''thần Cử-nghiệp'' đến đấy mới chính thức chia tay. Ta biết rằng trên sân khấu có hai nhân vật, một là chữ Nho, hai là chữ Quốc ngữ. Mà nhân vật chữ Nho bị đạo diễn cho đi xuống khỏi sân khấu rồi, thì chữ Quốc ngữ trở nên một mình một ngựa. Nếu không kể tiếng Pháp''.

Hơn một thập niên cải cách

Nhà nghiên cứu Hoàng Dũng đặc biệt chú ý đến giai đoạn cải cách giáo dục, kéo dài hơn một thập niên, nhằm thay thế dần dần nền khoa cử lâu đời bằng nền giáo dục mới, với chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Một chủ đề hiện còn rất ít được nghiên cứu và gần như không được công chúng đông đảo biết đến.

Nhà nghiên cứu Hoàng Dũng: ''Không phải là cái đạo dụ chính thức của Khải Định là một cái gì đó ghi nhận công lao của Khải Định đối với văn hóa Việt Nam. Tại sao nói như vậy ? Vì vua Khải Định chẳng qua là thực hiện một chính sách của người Pháp thời đó. Sau khi người Pháp chủ trương phổ biến chữ Quốc ngữ, thì họ đã có một chương trình cải cách giáo dục trong 10 năm, do ông toàn quyền Antony Klobukowski khởi xướng, rồi đến Albert Sarraut hoàn thành, để xóa bỏ dần nhà trường Hán học, bằng cách là trong các kỳ thi Hán học [thi Hương, thi Hội, thi Đình], họ đã xen cài chữ Quốc ngữ. Rồi cho đến lúc quen dần, thì 10 năm sau họ mới chính thức bãi bỏ bằng đạo dụ của Khải Định. Tôi nói rằng, theo cách nói của người Pháp, đấy là dấu chấm trên chữ i thôi, để kết thúc về mặt kỹ thuật, một tiến trình do chính người Pháp chủ trương, chứ không phải chủ trương của ông Khải Định''.

Cho đến nay, vai trò của những người có công đầu tiên trong việc chế tác chữ Quốc ngữ, như Francisco de Pina hay Alexandre de Rhodes đang ngày càng được công nhận trong xã hội Việt Nam, bất chấp một số phản đối ồn ào mới đây chống lại việc đặt tên đường Francisco de Pina và Alexandre de Rhodes tại Đà Nẵng. Tri ân công lao của những người đóng góp cho văn hóa Việt Nam, dù là người trong hay ngoài nước, là câu chuyện ngày càng trở nên một lẽ dĩ nhiên.

Tâm lý ức chế

Thế nhưng vấn đề chữ Quốc ngữ trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX dường như vẫn là một câu chuyện ít nhiều vẫn còn được coi là nhạy cảm, có lẽ do bởi gắn liền trực tiếp với giai đoạn thực dân. Và đây có thể là một trong những lý do chính tạo không khí ức chế trong tâm lý của không ít nhà nghiên cứu, giới quan tâm – nguồn gốc sâu xa của việc hầu như rất hiếm công trình nghiên cứu đáng kể nào về sự phát triển của chữ Quốc ngữ giai đoạn bản lề này. Và đây dường như cũng là một lĩnh vực không mấy thu hút các nhà nghiên cứu trẻ.

Tâm lý ức chế khá phổ biến này được nhà nghiên cứu Hồ Hải Thụy [Hà Nội] thuật lại với RFI tiếng Việt. Theo ông, các nhà nho cải cách Việt Nam đầu thế kỷ XX đã ''đành phải chấp nhận'' chữ Quốc ngữ như một chuyện đã rồi, không có cách nào khác, nếu muốn dân tộc đi lên, thì phải chấp nhận nó. Bởi vì chữ Hán tắc đường rồi, và chấp nhận chữ Quốc ngữ thì còn hơn là chấp nhận tiếng Pháp. ''Cái khôn'' của các cụ là ở chỗ ấy, nhưng là cái khôn ngoan trong tình thế bị áp đặt, trong sự đã rồi. Nhà nghiên cứu Hồ Hải Thụy cũng ghi nhận một thực tế là những người đứng đầu nhà nước quân chủ Nho giáo Việt Nam đã không tỉnh táo nghĩ đến việc mở đường cho chữ Quốc ngữ Latinh trở thành chữ viết quốc gia – trong thời kỳ còn kiểm soát toàn bộ hoặc một phần đất nước.

Trang Lời Tựa của cuốn truyện ngắn ''Thầy Lazaro Phiền'' của nhà văn Công Giáo P.J.B. Nguyễn Trọng Quản, ấn hành năm 1887. @RFI/Viet

Áp đặt hay dung hòa?

Chữ Quốc ngữ dần dần trở thành chữ viết chính thức ở Việt Nam có phải đơn thuần do người Pháp áp đặt hay không là một chủ đề còn để ngỏ. Nhà nghiên cứu Hoàng Dũng đặc biệt chú ý đến những mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền thực dân Pháp trong việc khuyến khích hay không chữ Quốc ngữ trong giai đoạn này:

''Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ít người chú ý là thực ra việc phổ biến chữ Quốc ngữ ngay cả người Pháp là một chủ trương không dễ dàng. Họ phải đấu tranh nội bộ. Tôi đưa một dẫn chứng. Etienne Aymonier, một người biết nói tiếng Khmer, biết nói tiếng Việt, rồi ông lấy vợ người Chăm. Ông là tác giả của cuốn sách ngữ pháp tiếng Chăm, từ điển Chăm – Pháp. Về mặt chính quyền, ông đã từng làm đến công sứ Bình Thuận, ông đã từng làm hiệu trưởng đầu tiên của trường Hậu Bổ. Aymonier đã hai lần công khai viết rằng: việc phổ biến chữ Quốc ngữ là nguy hiểm cho người Pháp [3]. Cách tốt nhất với người Pháp là biến người Việt trở thành một người Pháp gốc Á, tức là dạy tiếng Pháp cho người Việt. Trong nội bộ họ có những cuộc tranh luận rất là gay gắt. Và cuối cùng như ta đã biết là chủ trương phổ biến chữ Quốc ngữ thắng thế. Ý kiến của Aymonier bị gạt đi. Tôi chỉ nhắc lại một chút về lịch sử như thế để thấy rằng việc phổ biến chữ Quốc ngữ ở những năm này là vấn đề không dễ dàng''.

Từ Hà Nội, nhà nghiên cứu Hồ Hải Thụy cho biết thêm là, trên thực tế, việc thừa nhận chữ Quốc ngữ có thể coi là một ''biện pháp dung hòa''tốt nhất trong giai đoạn lịch sử này, khi chính quyền thực dân Pháp đã ra nhiều bài học kinh nghiệm từ những nơi khác, trong đó có việc thực dân Anh ở Ấn Độ, tuy thống trị tiểu lục địa này từ lâu, nhưng đã không thể áp đặt được tiếng Anh, đồng hóa được nền văn hóa Ấn Độ. Theo hướng nhìn nhận này, thì giải pháp thừa nhận chữ Quốc ngữ chính là một sự thỏa hiệp giữa quyền lực thống trị thực dân với xã hội bản địa.

Chữ Quốc ngữ là ''hồn trong nước''

Vẫn về bước ngoặt đầu thế kỷ XX, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đặc biệt lưu ý đến sự thức tỉnh bất ngờ của giới nhà nho cấp tiến. Trong hoàn cảnh đặc biệt này, đã nhận ra trong chữ Quốc ngữ, đến từ trời Tây, một phương tiện gây lại ''hồn nước'':

''Thái độ đối với chữ Quốc ngữ của nhà nho đương nhiên là phân hóa theo nhiều xu hướng. Xu hướng những nhà nho cấp tiến, chủ trương Duy Tân, đã tìm thấy ở chữ Quốc ngữ một phương tiện hết sức là tích cực, hết sức là căn bản, trong việc gây lại cái gọi là ''hồn nước'', diễn đạt cái tinh thần dân tộc, cái bản lĩnh dân tộc, tố chất dân tộc. Họ gửi gắm vào chữ Quốc ngữ rất là nhiều.

Mặc dù, nếu khảo sát kỹ, các nhà nghiên cứu thấy rằng các nỗ lực của các nhà nho người Việt suốt nhiều thế kỷ chế tác các chữ Nôm, và phương pháp làm chữ Nôm cũng rất đáng kể, đến mức có thể ghi được những sáng tác bằng tiếng Việt, mà điển hình là Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán… Ví dụ như vần điệu của các tác phẩm thơ như thế chứng tỏ những nỗ lực cực kỳ lớn của những người đã làm ra bộ chữ Nôm, dựa trên các mẫu tự chữ Hán.

Thế nhưng, các nhà nho ở thời hiện đại, đầu thế kỷ XX trở đi, thì lại nhìn thấy trong chữ Quốc ngữ rõ hơn cái tinh thần độc lập của dân tộc mình. Theo tôi, những nhà nho Duy Tân đó đã gửi vào trong chữ Quốc ngữ một kỳ vọng cực kỳ lớn. Đằng sau nó là những giá trị hết sức quan trọng, mang tính xu hướng, giá trị về tính độc lập. Rất có thể trước đó dùng các chữ mượn các phương cách của chữ Hán, thì đến lúc này người ta nhận ra là những cái bản sắc thể hiện ở đó không thể nào rõ bằng việc viết bằng chữ cái abc''.

Trong "Văn minh tân học sách" [bằng chữ Hán, ra đời trước năm 1907], cương lĩnh của phong trào Duy Tân, có đoạn "Biện pháp đầu tiên trong số 6 kế sách ''mở mang dân trí'' là ''dùng văn tự nước nhà'', tức chữ Quốc ngữ do ''mục sư Bồ Đào Nha'' chế tác. Copy d'ecran @nomfoundation.org

Vì sao Quốc ngữ bằng chữ cái Latinh vốn xa lạ, lại có thể trở nên thân thiết với người Việt đến như vậy trong nhãn quan của giới nho sĩ, trí thức Hán – Nôm đầu thế kỷ XX ? Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân cho biết cảm nhận của ông:

''Theo tôi, người ta nhìn thấy chữ viết Quốc ngữ ghi tiếng Việt ở dạng hoàn thiện của nó, như một cái gì đó cực kỳ gắn bó với tiếng Việt [4]. Bởi vì, cũng là abc, nhưng là một dòng chữ, một câu tiếng Pháp chẳng hạn, thì nó khác, dòng chữ Bồ Đào Nha thì nó khác. Nhưng đây là từng từ một của tiếng Việt. Người ta thấy tiếng Việt hiển hiện ra trong đó. Và người ta thấy: À, đây là Việt Nam! Còn cái việc đằng sau các ký tự này là chữ Latinh chẳng hạn, thì đối với họ, điều đó trở nên không quan trọng nữa. Theo tôi, [ý nghĩa gắn bó thiết thân của chữ Quốc ngữ với người Việt] là ở chỗ đó''.

Nhiều câu hỏi để ngỏ

Đối với nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam, kỷ niệm một thế kỷ chấm dứt nền khoa cử chữ Hán, tồn tại trong suốt gần 1.000 năm, đã là một cơ hội tốt để soi tỏ giai đoạn bản lề cuối thế kỷ XIX - đầu XX, khi chữ Latinh ghi âm tiếng Việt bằng nhiều ngả đường khác nhau, từng bước khẳng định, vươn lên trở thành chữ viết quốc gia. Sự lên ngôi của chữ Quốc ngữ, trên thực tế, gần như không gắn gì mấy với cái mốc bỏ thi chữ Hán, với kỳ thi Hội – thi Đình cuối cùng tại Huế năm 1919. Sự lên ngôi của chữ Quốc ngữ và sự suy tàn của khoa cử Hán học rất có thể là hai quá trìnhvề cơ bản diễn ra song song, cho dù có vô vàntương tác.

Một số nhà nghiên cứu đặc biệt nhấn mạnh, để phục dựng lịch sử chữ Quốc ngữ giai đoạn này, rất cần khai thác những mảng tư liệu lớn trong đó có các loại sách dạy Quốc ngữ, chương trình giảng dạy liên quan đến Quốc ngữ, do các chủ thể khác nhau soạn thảo, từ chính quyền cho đến các tổ chức tư nhân, nội bộ Giáo hội Công Giáo…

Nhiều vấn đề mang tính lý thuyết cần được đào sâu, như quan hệ giữa chữ viết với tiếng nói, sự trưởng thành của chữ Quốc ngữ Latinh có ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển của bản thân tiếng Việt? Vì sao chữ Quốc ngữ Latinh lại trở nên gần gũi, gắn bó với người Việt hơn chữ Nôm truyền thống? Do dễ học, dễ đọc hay còn vì một lý do nào khác [4]? Cú pháp tiếng Việt đã phát triển ra sao trong giai đoạn đột biến này, trong bối cảnh tiếp xúc mạnh mẽ với tiếng Pháp [5]?

RFI xin chân thành cảm ơn các nhà nghiên cứu Hoàng Dũng, Hồ Hải Thụy và Lại Nguyên Ân.

Ghi chú :

1 - Tháng 8/2019, Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam tổ chức hội thảo quốc tế ''Khoa cử Nho học Việt Nam [1075 - 1919]''. Theo cơ quan này, đâylàdịpthảo luận về toàn bộ tiến trình phát triển của khoa cử Nho học tại Việt Nam, các giai đoạn manh nha, phát triển, đỉnh cao, thoái trào, ảnh hưởng sâu rộng của khoa cử Nho học trong văn hóa Việt Nam, trong so sánh với các nền văn hóa sử dụng chữ Hán.

2-Hội Ngôn Ngữ Học thành phố Hồ Chí Minh tổ chức một hội thảo mang tựa đề ''100 năm chữ Quốc ngữ'', cuối tháng 12/2019, quy tụ hơn 30 báo cáo, tham luận.

3 - ''Chính sách giáo dụctại Nam Kỳ cuối thế kỷ 19'', Lại Như Bằng dịch và giới thiệu, NXB Thế giới, 2018.

4 – Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng hệ chữ cái abc ghi tiếng Việt, dễ hiểu, dễ học, minh bạch, gắn bó rõ ràng với phát âm của tiếng nói hàng ngày, người bản địa dù ít học cũng có thể dễ dàng sử dụng, trong lúc những con chữ Nôm, để hiểu được thường phải thông qua chữ Hán. Xét trên phương diện phát âm, một số nhà nghiên cứu nhấn mạnh đến tính chất phản dân chủ tiềm tàng của chữ Hán. Các nhà nho trên thực tế, ngay từ trước Công Nguyên, đã biết cách phân tách phụ âm, phần vần và thanh điệu [kỹ thuật phiên thiết trong các sách về Vận Thư]. Tuy nhiên, kiến thức này đã không được phổ biến rộng, và không phát triển theo hướng trở thành công cụ ghi âm vị. Chỉ giới nhà nho mới có thể sử dụng. Sự tồn tại và hưng thịnh của chữ Hán về cơ bản gắn liền với sự độc quyền về văn hóa của tầng lớp nho sĩ. Về các xã hội Đông Á sử dụng chữ Hán, nhiều nhà nghiên cứu tại Việt Nam, vì lý do này hay khác, đã cố tình bỏ qua việc xã hội Hàn Quốc [hay Triều Tiên], ngay từ thế kỷ XV, đã chế tác ra được hệ chữ cái phiên âm vị[Hangul], hệ chữ vốn bị lép vế, hoặc bị cấm đoán trong suốt thời kỳ chữ Hán thống trị, nhưng đã trở thành chữ viết chính thức của người Triều Tiên, người Hàn Quốc hiện nay. Hệ chữ phiên âm Hangul của dân Hàn được giới nghiên cứu đánh giá rất cao trên phương diện ghi âm. Chữ Hangul ắt hẳn đã là một phương tiện giúp cho xã hội Triều Tiên thoát khỏi sự thống trị của văn hóa Hán.

5 – Nhà ngôn ngữ học Hoàng Tuệ [1922-1999], cố viện trưởng Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam, từng nhấn mạnh đến ý nghĩa của tiếp xúc Pháp – Việt trong sự phát triển của tiếng Việt nói chung và chữ Quốc ngữ nói riêng: ''thời tiếng Việt tiếp xúc với tiếng Pháp đâu có dài. Nhưng tuy ngắn mà rất quan trọng trong ý nghĩa một đổi mới. Xã hội Việt Nam vốn khép kín đã, với tiếng Pháp, mở rộng dần tầm nhìn ngôn ngữ và văn hoá sang một không gian khác lạ là Pháp và phương Tây. […] Ảnh hưởng quan trọng của tiếng Pháp đối với tiếng Việt là về hành văn, như có thể thấy rõ trong thơ mới và trong văn xuôi mới, văn xuôi mới nghệ thuật […] văn xuôi báo chí và văn xuôi khoa học cũng đã tiếp nhận ảnh hưởng của văn xuôi báo chí và văn xuôi khoa học Pháp. […] Như vậy, tiếng Pháp đã có mặt trong tiếng Việt. Sự có mặt ấy vẫn còn sức sống. Mất đi đâu được! Nó đã được đưa vào trong ý thức của người Việt qua những câu thơ Việt, những câu văn xuôi Việt'' [bài ''Nhìn lại thời tiếng Việt tiếp xúc với tiếng Pháp'', Tạp chí Ngôn ngữ, số 3/1997].

Các bài liên quan

Gian nan phổ biến chữ quốc ngữ tại Nam Kỳ [1862-1871]

Trương Vĩnh Ký và những nỗ lực phổ biến chữ quốc ngữ cuối thế kỷ XIX

Nam Kỳ, cái nôi của nền báo chí Việt Nam [giai đoạn cuối thế kỷ XIX]

"Nông-cổ mín-đàm", tờ báo kinh tế đầu tiên của Việt Nam

François-Henri Schneider và tờ Lục-tỉnh Tân-văn

Di sản văn chương báo chí chữ Quốc ngữ đầu thế kỷ XX bị đe dọa

Đại-Nam đồng-văn nhật-báo, tờ báo chữ Hán đầu tiên tại Bắc Kỳ

Nguyễn Văn Vĩnh và tờ Đăng-cổ tùng-báo

Trước tác của dịch giả, nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh còn ở trong tình trạng tản mát

Nguồn sáng lạ Thiên Chúa Giáo và cách tân văn học Việt Nam

  • Việt Nam
  • Văn hóa
  • Lịch sử
  • ngôn ngữ
  • quốc ngữ
  • chữ hán
  • tiếng pháp
  • Xã hội
  • quân chủ
  • thực dân
  • nhà nho
  • Cải cách
  • Châu Á
  • Tạp chí

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề