Những người muôn năm cũ hồn ở đâu bây giờ ý nghĩa

Đề bài: Phân tích đoạn thơ: "Năm nay đào lại nở... Hồn ở đâu bây giờ ?" trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên

Bài văn mẫu Phân tích đoạn thơ: "Năm nay đào lại nở... Hồn ở đâu bây giờ ?" trong bài thơ Ông đồ

Bài làm:

Vũ Đình Liên bước vào Thơ mới với tấm lòng cảm thương chân thành mang nặng niềm hoài cổ "Ông đồ" là một kiệt tác của nhà thơ. Bài thơ khép lại với hình ảnh:

"Năm nay đào lại nởKhông thấy ông đồ xưaNhững người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?"

Bài thơ được mở ra bằng hình ảnh rất nhẹ và khép lại cũng rất khẽ khàng. Năm xưa, khi hoa đào nở, ta thấy hình ảnh ông đồ hiện lên đẹp và rực rỡ làm sao: tay viết câu đối dỏ. Nhưng nay, cũng thời điểm khi đào nở, ông đồ đã không còn nữa. Hình ảnh cũng đã nhạt dần và biến mất vào thời gian. Câu hỏi đặt ra như xoáy sâu vào lòng người đọc:

"Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa".

Tại sao thi sĩ không nói là hoa đào nở mà lại cảm nhận bằng cảm giác "đào lại nở". Chính hình ảnh này cũng đã gợi lên trong ta những đổi thay mới. Tết đến,

xuân về, hoa đào lại đến kì nở rộ, người người háo hức đi chợ sắm tết, đón chào năm mới đầy hi vọng và niềm tin. Tất cả đều rộn ràng, háo hức. Cảnh thì còn đó nhưng người thì đâu rồi? Hình ảnh ông đồ giờ đây chỉ còn là " cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn" [Vũ Đình Liên]. Ông đồ đã không còn nữa, trong mỗi dịp tết đến xuân về, để góp vui cho mọi nhà. Hình ảnh ông đã đi vào dĩ vãng. Và có lẽ không ai còn mảy may nghĩ về ông, ngoài một thi sĩ Vũ Đình Liên. Dòng đời đã cuốn đi cuộc sống thanh bình đẹp đẽ. Giờ đây chỉ là sự trống trải, bâng khuâng. Thi sĩ Vũ Đình Liên xót xa về một thời đại, về cái "di tích tiều tụy đúng thương của một thời tàn". Thời gian đã nhấn chim cuộc sống oủa các ông đổ Vũ Đình Liên xót xa:

"Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?"

Hai câu cuối là sự chốt lại rất mạnh mẽ mà rất khẽ khàng. Lời thơ đã trực tiếp diễn tả những xúc cảm dâng trào, kết đọng và mang chiều sâu khái quát. Từ hình ảnh ông đồ, thi sĩ đã liên tưởng tới hình ảnh "Những người muôn năm cũ" và

thi sĩ hỏi, hỏi một cách xót xa: hỏi trời, hỏi mây, hỏi cuộc sống, hỏi cả một thời đại, hỏi để mà cảm thông cho thân phận của ông đồ. Câu hỏi tu từ đặt ra là một lời tự vấn, như tiếng gọi hồn. ''Những người muôn năm cũ" không còn nữa. Ôi, những giá trị tinh thần, những linh hồn đã làm phong phú cho văn hoá đất nước thì bây giờ ở đâu? Câu hỏi tiềm ẩn sự ngậm ngùi day dứt. Đó là nỗi niềm trắc ẩn, xót thương cho những người như ông đồ đã bị thời thế khước từ. Tất cả những gì của một thời hoàng kim giờ chỉ còn là một sắc màu nhạt phai, ngập ngừng, quấn quanh, đầy tê tái. Bài thơ đã gợi lên "mối sầu vạn kỉ", cái ra đi của ngày hôm qua khiến hôm nay chúng ta phải nao lòng. Ông đồ đã phai nhạt và biến mất cũng bởi thời thế đổi thay. Chữ quốc ngữ xuất hiện và người ta không còn để ý đến chữ Nho nữa. Chữ Nho dần dần như một thứ cũ kĩ bị thái đi. Đó là sự sụp đổ, ra đi của cả một thời đại, là tấn bi kịch, là nỗi buồn rơi rụng tàn phai. Ông đồ không còn cũng như xã hội đương thời không quan tâm thậm chí đã vứt bỏ đi vẻ đẹp cuộc sống tinh thần. Mất nước là mất tất cả.

Với cách sử dụng thành công các biện pháp tu từ, Vũ Đình Liên đã tái hiện hình ảnh ông đồ, trong chúng ta, với cái "vết tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn". Chúng ta cảm thương cho số phận của ông đồ. Ông đã không còn trong mùa hoa đào năm ấy và những giá trị tinh thần của một thời đại cũng biến theo. Lời thơ khép lại với cuộc đời đầy bất hạnh của ông đồ nhưng lại làm sáng lên một tấm lòng - tấm lòng thi sĩ Vũ Đình Liên.

-------------------HẾT-------------------

Bên cạnh Phân tích đoạn thơ: "Năm nay đào lại nở... Hồn ở đâu bây giờ ?" trong bài thơ Ông đồ các em cần tìm hiểu thêm những nội dung khác như Cảm nhận về bài thơ Ông đồ hay phần Bình giảng 2 khổ thơ trong bài Ông đồ nhằm củng cố kiến thức của mình.

Tìm hiểu về hình ảnh của ông Đồ khi chữ Nho không được trọng dụng và mối đồng cảm của tác giả trước những giá trị tốt đẹp bị mai một trong bài thơ Ông đồ, các em có thể tham khảo bài phân tích bài thơ Ông đồ đoạn thơ:"Năm nay đào lại nở... Hồn ở đâu bây giờ ?" mà chúng tôi giới thiệu dưới đây.

Ông đồ

Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua.

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

“Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay”

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu?

Giấy đỏ buồn không thắm;

Mực đọng trong nghiên sầu…

Ông đồ vẫn ngồi đấy,

Qua đường không ai hay.

Lá vàng rơi trên giấy;

Ngoài trời mưa bụi bay.

Năm nay đào lại nở,

Không thấy ông đồ xưa.

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

Từ những chợ quê, đến phố phường, nhất là ở chốn kinh kỳ, lại xuất hiện hình ảnh ông đồ ngồi trên tấm chiếu, viết thuê câu đối, nhằm đáp ứng phong tục: “Cây nêu, tràng pháo bánh chưng xanh - thịt mỡ dưa hành, câu đối đỏ”:

Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua.

Hình ảnh hoa đào nở, không hiện lên trực diện, làm nền cho bức tranh mà chỉ thấp thoáng đâu đó, qua lời gợi kể, làm điểm tựa về không gian và thời gian để tái hiện hình ảnh ông đồ già. Tác giả cũng không khắc họa bức chân dung ông đồ già, nhưng không hiểu vì sao, dáng vẻ ông đồ chăm chú, cắm cúi xuống tờ giấy đỏ, múa ngọn bút lông, thảo những nét chữ như “phượng múa rồng bay” và hồn ông cũng như bay lên cùng con chữ, cứ hiện lên trong ta, rõ mồn một:

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay

Chữ Hán, vốn là loại chữ tượng hình, qua tay những nhà nho tài hoa, sáng tạo ra kiểu chữ thảo mà ta quen gọi là “thư pháp”, chẳng khác nào những bức tranh, đã đem đến vẻ đẹp hào hoa, tô điểm cho mỗi căn nhà trong dịp tết. Đây là một món ăn tinh thần, không thể nào thiếu được trong ngày tết cổ truyên, nhất là đối với những gia đình quyền quý. Có lẽ vì thế mà mọi người nô nức xúm quanh ông đồ, thuê viết và khen ngợi tài năng:

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài.

Nhưng mọi thứ trên đời, đều có quy luật thịnh - suy của nó. Khi Nho học còn chiếm địa vị độc tôn, thì thư pháp và ông đồ còn được coi trọng. Nhưng khi đạo Nho rơi vào cảnh úa tàn: “Đạo học ngày nay đã chán rồi/ Mười người đi học chín người thôi/ Cô hàng bán sách lim dim ngủ/ Thầy khóa tư lương nhấp nhổm ngồi”... [Tú Xương] thì vai trò của bút lông và thư pháp cũng bị hạ bệ. Mọi kẻ sĩ đều “vứt bút lông đi giắt bút chì”. Do đấy khách thuê viết ngày càng thưa vắng dần:

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu?

Câu hỏi như một nỗi niềm khắc khoải, tiếc nuối, đào xoáy vào lòng người và cũng là lời thông báo về tình trạng suy tàn của đạo Nho. Sự suy tàn ấy như thấm vào cả những vật vô tri, được thể hiện qua hình ảnh nhân hóa:

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu…

Những tờ giấy đỏ rực rỡ, xưa kia nâng đỡ những niềm vui, nay như cũng nhuộm nỗi buồn phai nhạt. Mực nho, vào cái thời ông đồ đắt khách, phải mài luôn tay mà nghiên vẫn cạn, nay đọng đen xỉn lại, vì ngọn bút lông vẫn còn khô. Nghiên mài mực như cũng mang nặng nỗi sầu nhân thế. Dấu ba chấm cuối dòng thơ như muốn mở vào lòng người đọc biết bao điều suy tư mà thi nhân không nói hết. Hình ảnh ông đồ như là chứng nhân tội nghiệp của Nho học trong cái thời lao xuống dốc của nó:

Ông đồ vẫn ngồi đấy,

Qua đường không ai hay.

Đúng như nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét: “Ông chính là cái di tích, tiều tụy đáng thương của một thời tàn”. Thư pháp, sản phẩm của nền Nho học, khi thịnh thì khách xúm vào nâng niu, trân trọng, nhưng khi suy thì mọi người quay mặt, không thèm nhìn ngó, thói đời là như thế! Cho nên cũng vẫn là hình ảnh tờ giấy đỏ, nhưng luôn biến hóa theo chiều đi xuống. Nếu như trên kia đã nhuộm màu tàn phai, thì giờ đây còn chứa đựng sắc vàng tàn lụi, gợi sầu, gợi thảm:

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay

Hình ảnh ông đồ buồn rười rượi, lặng lẽ, nhìn lá vàng rụng rơi, cùng với tờ giấy đỏ, bút lông, mực tàu, như bị nhòe đi trong mưa bụi sao mà thảm thương đến thế! Đây cũng là cảnh thương tâm của nền Nho học. Hình ảnh thơ cũng là tiếng khóc thầm lặng mà xót xa cho cái cảnh thương tâm đó, được thi nhân gửi vào.

Hình tượng ông đồ già, được thể hiện qua kết cấu tương phản, song trùng với hình ảnh hoa đào, theo chiều đi xuống:

Năm nay đào lại nở,

Không thấy ông đồ xưa

Đào lại nở theo tiếng gọi của mùa xuân, như một sự ngẫu nhiên, vô tình, khi nền Nho học đã mang theo ông đồ già ra đi, như khêu gợi một điều gì. Cảnh còn mà người trống vắng, đường phố quạnh hiu. Hình ảnh ông đồ múa bút, thổi hồn vào con chữ cho nó bay lên, mới hôm nào như vẫn đấy, thế mà giờ đây đã thành chuyện xưa, thành người của ngày xưa, của muôn năm cũ, thì thương xót biết bao nhiêu!

Bài thơ kết thúc bằng một câu hỏi nhưng ý thơ lại mở vào lòng người đọc những điều băn khoăn trăn trở mãi không thôi:

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

Vào cái thời Nho học cùng với chữ Hán suy tàn, những người trong phái tân học “xúm nhau lại chế giễu họ quê mùa, mạt sát họ hủ lậu”, thì nhà thơ Vũ Đình Liên đã có sự cảm thông sâu sắc với họ. Vì vậy mà nhà văn Hoài Thanh cho rằng: “Bài thơ của người [Vũ Đình Liên], có thể xem là một việc nghĩa cử” và “ít khi có một bài thơ bình dị mà cảm động như vậy”.

        Vũ Đình Liên bước vào Thơ mới với tấm lòng cảm thương chân thành mang nặng niềm hoài cổ. Trong đó, "Ông đồ" là một kiệt tác của nhà thơ. Bài thơ khép lại với hình ảnh:

"Năm nay đào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?"

        Bài thơ được mở ra bằng hình ảnh rất nhẹ và khép lại cũng rất khẽ khàng. Năm xưa, khi hoa đào nở, ta thấy hình ảnh ông đồ hiện lên đẹp và rực rỡ làm sao: tay viết câu đối dỏ. Nhưng nay, cũng thời điểm khi đào nở, ông đồ đã không còn nữa. Hình ảnh cũng đã nhạt dần và biến mất vào thời gian. Câu hỏi đặt ra như xoáy sâu vào lòng người đọc:

                                   "Năm nay đào lại nở                                                

                                    Không thấy ông đồ xưa".

        Tại sao thi sĩ không nói là hoa đào nở mà lại cảm nhận bằng cảm giác "đào lại nở". Chính hình ảnh này cũng đã gợi lên trong ta những đổi thay mới. Tết đến, xuân về, hoa đào lại đến kì nở rộ, người người háo hức đi chợ sắm tết, đón chào năm mới đầy hi vọng và niềm tin. Tất cả đều rộn ràng, háo hức. Cảnh thì còn đó nhưng người thì đâu rồi? Hình ảnh ông đồ giờ đây chỉ còn là " cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn" [Vũ Đình Liên]. Ông đồ đã không còn nữa, trong mỗi dịp tết đến xuân về, để góp vui cho mọi nhà. Hình ảnh ông đã đi vào dĩ vãng. Và có lẽ không ai còn mảy may nghĩ về ông, ngoài một thi sĩ Vũ Đình Liên. Dòng đời đã cuốn đi cuộc sống thanh bình đẹp đẽ. Giờ đây chỉ là sự trống trải, bâng khuâng. Thi sĩ Vũ Đình Liên xót xa về một thời đại, về cái "di tích tiều tụy đúng thương của một thời tàn”. Thời gian đã nhấn chim cuộc sống oủa các ông đổ Vũ Đình Liên xót xa:

                            "Những người muôn năm cũ

                             Hồn ở đâu bây giờ?"

        Hai câu cuối là sự chốt lại rất mạnh mẽ mà rất khẽ khàng. Lời thơ đã trực tiếp diễn tả những xúc cảm dâng trào, kết đọng và mang chiều sâu khái quát. Từ hình ảnh ông đồ, thi sĩ đã liên tưởng tới hình ảnh "Những người muôn năm cũ" và thi sĩ hỏi, hỏi một cách xót xa: hỏi trời, hỏi mây, hỏi cuộc sống, hỏi cả một thời đại, hỏi để mà cảm thông cho thân phận của ông đồ. Câu hỏi tu từ đặt ra là một lời tự vấn, như tiếng gọi hồn. ''Những người muôn năm cũ" không còn nữa. Ôi, những giá trị tinh thần, những linh hồn đã làm phong phú cho văn hoá đất nước thì bây giờ ở đâu? Câu hỏi tiềm ẩn sự ngậm ngùi day dứt. Đó là nỗi niềm trắc ẩn, xót thương cho những người như ông đồ đã bị thời thế khước từ. Tất cả những gì của một thời hoàng kim giờ chỉ còn là một sắc màu nhạt phai, ngập ngừng, quấn quanh, đầy tê tái. Bài thơ đã gợi lên "mối sầu vạn kỉ", cái ra đi của ngày hôm qua khiến hôm nay chúng ta phải nao lòng. Ông đồ đã phai nhạt và biến mất cũng bởi thời thế đổi thay.  Chữ quốc ngữ xuất hiện và người ta không còn để ý đến chữ Nho nữa. Chữ Nho dần dần như một thứ cũ kĩ bị thái đi. Đó là sự sụp đổ, ra đi của cả một thời đại, là tấn bi kịch, là nỗi buồn rơi rụng tàn phai. Ông đồ không còn cũng như xã hội đương thời không quan tâm thậm chí đã vứt bỏ đi vẻ đẹp cuộc sống tinh thần. Mất nước là mất tất cả.

        Với cách sử dụng thành công các biện pháp tu từ, Vũ Đình Liên đã tái hiện hình ảnh ông đồ, trong chúng ta, với cái "vết tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn". Chúng ta cảm thương cho số phận của ông đồ. Ông đã không còn trong mùa hoa đào năm ấy và những giá trị tinh thần của một thời đại cũng biến theo. Lời thơ khép lại với cuộc đời đầy bất hạnh của ông đồ nhưng lại làm sáng lên một tấm lòng -  tấm lòng thi sĩ Vũ Đình Liên.

Ngô Thị Phương Anh Trường THCS chuyên Ý Yên

Loigiaihay.com

Video liên quan

Chủ Đề