Nhà giáo, nhà quan sử nổi tiếng ở nước ta

20/11 – TƯỞNG NHỚ  NHỮNG NHÀ GIÁO VĨ ĐẠI TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM

Không chỉ trên thế giới mà ở Việt Nam cũng có những nhà giáo ưu tú đã cống hiến hết mình cho nền giáo dục nước nhà và được người đời tôn sùng, sử sách lưu danh.

Nhà giáo Chu Văn An tên thật là Chu An, tên thụy là Văn Trinh, tên hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt. Ông sinh năm Nhâm Thìn [1292] đời vua Trần Nhân Tông, tại làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là huyện Thanh Trì – Hà Nội.  Ông là một trong những nhà giáo ưu tú nhất trong lịch sử Việt Nam. Thầy Chu Văn An từng thi đỗ Thái học sinh [tiến sĩ] nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học ở quê nhà. Ông nổi tiếng có học vấn sâu rộng, tư cách thanh cao, sửa mình trong sạch, giữ gìn tiết tháo, không cầu danh lợi, danh tiếng lan xa, học trò theo học rất đông. ông được chính vua Trần Minh Tông mời đến dạy tại Quốc Tử Giám và làm thầy riêng cho thái tử Trần Vượng, tức vua Trần Hiến Tông sau này.

Sự chính trực của ông chính là việc dâng “Thất trảm sớ”, yêu cầu vua Trần Dụ Tông chém đầu bảy tên gian thần song bị vua từ chối. Sau đó, ông cáo lão, về ở ẩn gần núi Phượng Hoàng, Chí Linh, Hải Dương, làm một thầy giáo truyền thụ kiến thức cho đến khi mất.

  1. Nguyễn Đình Chiểu [1822 - 1888]

Thầy đồ Nguyễn Đình Chiểu tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, hay còn được gọi với cái tên thân mật là cụ đồ Chiểu. Ông là một trong những nhà thơ, nhà văn hóa, nhà giáo lớn ở thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam.

Sống vào thời điểm loạn lạc nhất trong lịch sử phong kiến khi nước Pháp bắt đầu mang quân sang xâm lược nước ta, trước những cám dỗ của kẻ thù, ông vẫn một mực nói không. Ông đã để lại cho đời rất nhiều áng văn lỗi lạc như “Lục Vân Tiên” và “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”.

Nhà giáo Lê Quý  Đôn tên thật là Lê Danh Thư, con tiến sĩ Lê Phú Thứ, quê ở huyện Diên Hà [nay là xã Độc lập, huyện Hưng Hà] tỉnh Thái Bình.\

          Với kiến thức uyên thâm, trí tuệ hơn người, Lê Quý Đôn đã đểlại nhều bộ sách có giá trị ở nhiều thể loại khác nhau như lịch sử, địa lý, thơ văn, lý số…

Ngoài ra, ông còn là một nhà nho,nhà giáo dục tài năng và đức độ. Qua bàn tay dạy dỗ với những bài học về kiến thức, đạo đức làm người, học trò của ông có rất nhiều người thành  tài và giữ chức quan lớn trong triều đình: Bùi Huy Bích, Bùi Bích Tựu…

  1. “La Sơn Phu Tử’ Nguyễn Thiếp [1723 - 1804]
 

Nguyễn Thiếp là nhà giáo và danh sĩ lỗi lạc cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn. Ông sinh ra trong một gia đình thuộc dòng dõi quý tộc. Tuy nhiên, ông lại sớm có tư tưởng xa lánh chốn quan trường.

Năm Nguyễn Thiếp 26 tuổi, sau khi đỗ giải Hương, ông đi thi Hội vào tam trường. Từ đây, ông đã quyết không màng đến thi cử vì bất mãn với lối học hành khiên cưỡng. Bản thân ông cho rằng, chúng không mang lại lợi ích cho bản thân cũng như xã tắc mà còn làm hại đến tiền đồ Tổ quốc.

  1. Nguyễn Bỉnh Khiêm [1491 – 1585]

          Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi tiếng với tính tình cương trực, tư cách đạo đức và tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Lê – Mạc phân tranh. Ngay từ bé, ông đã có tướng mạo khôi ngô tuấn tú, có trí nhớ hơn người. Giống như rất nhiều vị hiền nhân khác trong lịch sử, thời thế loạn lạc đã khiến ông không hứng thú với chốn quan trường.

        Sau này, dưới thời vua Mạc Đăng Doanh, ông đỗ Trạng nguyên và quyết định phò vua giúp nước. Song vì không chịu được những điều thị phi, ông dâng sớ hạch tội 18 tên gian thần nhưng bị từ chối. Sau đó, ông cũng từ quan về ở ẩn, trở thành một nhà giáo lỗi lạc. 

Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, củng điểm lại sự nghiệp của những nhà giáo nổi tiếng trong cổ sử Việt Nam.

Chu Văn An

Chu Văn An [1292 – 1379] tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ân, tên chữ là Linh Triệt, là nhà giáo nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông từng thi đỗ Thái học sinh nhưng không thích việc quan trường nên ông mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung bên sông Tô Lịch [Hà Nội].

Nổi tiếng có học vấn sâu rộng, tư cách thanh cao, sửa mình trong sạch, giữ gìn tiết tháo, không cầu danh lợi, danh tiếng Chu Văn An lan xa, học trò theo học rất đông. Ông đã được vua Trần Minh Tông mời đến dạy tại Quốc Tử Giám. Ông là thầy của thái tử Trần Vượng, người trở thành vua Trần Hiến Tông sau này.

Với bản tính chính trực, Chu Văn An từng dâng “Thất trảm sớ”, yêu cầu vua Trần Dụ Tông chém đầu bảy tên gian thần song bị vua từ chối. Sau đó, ông cáo lão, về ở ẩn gần núi Phượng Hoàng, Chí Linh, Hải Dương, làm một thầy giáo cho đến khi mất.

Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm [1491 – 1585] tự là Hạnh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ hay còn được biết đến với cái tên quen thuộc là Trạng Trình. Ông nổi tiếng vì tính tình cương trực, tư cách đạo đức và tài thơ văn xuất chúng.

Dưới thời vua Mạc Đăng Doanh, ông đỗ Trạng nguyên và muốn phò vua giúp nước. Song giống như Chu Văn An, thời thế loạn lạc khiến ông không hứng thú với chốn quan trường. Sau khi dâng sớ hạch tội 18 tên gian thần nhưng bị từ chối, ông cũng từ quan về ở ẩn, trở thành một nhà giáo. Học trò của ông trong thời điểm này có những người rất nổi tiếng như Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan…

Lê Quý Đôn

Lê Quý Đôn [1726 – 1784] tên thật là Lê Danh Phương. Nổi tiếng thông minh từ thuở nhỏ, ông đã trở thành là một vị quan, một nhà khoa học trong rất nhiều lĩnh vực ở thời hậu Lê. Với kiến thức uyên thâm, tài trí hơn người, Lê Quý Đôn đã để lại nhiều bộ sách có giá trị ở nhiều thể loại khác nhau như lịch sử, địa lý, thơ văn, lý số…

Ngoài ra, Lê Quý Đôn còn là một nhà nho, nhà giáo dục tài năng và đức độ. Qua bàn tay dạy dỗ với những bài học về kiến thức, đạo đức làm người, học trò của ông có rất nhiều người đã thành tài và giữ chức vụ quan lớn trong triều đình như Bùi Huy Bích, Bùi Bích Tựu…

Nguyễn Thiếp

“La Sơn Phu Tử” Nguyễn Thiếp [1723 – 1804] là một danh sĩ nổi tiếng đời hậu Lê và Tây Sơn. Ông sinh ra trong một gia đình thuộc dòng dõi quý tộc. Năm Nguyễn Thiếp 26 tuổi, sau khi đỗ thủ khoa giải Hương, ông không ở lại dự thi Hội mà đi ở ẩn do bất mãn với hệ thống khoa cử.

Đến năm 33 tuổi, ông được cử làm quan trông coi việc học ở địa phương. Chứng kiến nhiều điều trái tai gai mắt, ông lui khỏi chốn quan trường. Đến năm 1791, vua Quang Trung ban chiếu lập “Sùng chính Thư viện” ở nơi ông ở ẩn và mời ông làm Viện trưởng. Kể từ đó, ông hết lòng chăm lo việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy học và phổ biến trong dân.

Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu [1822 – 1888] tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, hay còn được gọi với cái tên thân mật là cụ đồ Chiểu. Ông là một trong những nhà thơ, nhà văn hóa lớn ở thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam.

Sống trong cảnh nước mất nhà tan, lại chịu nhiều cảnh ngộ bất hạnh như mùa lòa, bệnh tật, hôn thê bội ước… nhưng ông vẫn thể hiện cốt cách của một nhà nho, nhà giáo, nhà yêu nước chân chính. Trước những cám dỗ của kẻ thù, ông không quay lưng lại với vận mệnh dân tộc và đã để lại cho đời rất những áng văn lỗi lạc như “Lục Vân Tiên” và “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”.

Theo KIẾN THỨC

Tags: Danh nhân Việt Nam, Tổng quan sử Việt, Nhà giáo

Thầy giáo Chu Văn An [1292-1370]

Thầy giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm [1491-1585]

Thầy giáo Lê Quý Đôn [1726-1784]

Nội dung bài viết:1. Thầy giáo Chu Văn An [1292-1370]2. Thầy giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm [1491-1585]3. Thầy giáo Lê Quý Đôn [1726-1784]Nổi tiếng với đủ ba yếu tố: Tâm, tầm và tài, những người Thầy vĩ đại này mãi mãi được sử sách Việt Nam lưu danh.

                                                 Thầy giáo Chu Văn An [1292-1370]
Ngược dòng thời gian trở về hơn 600 năm trước để cùng tìm hiểu về một người thầy lỗi lạc mà nhân dân đời đời ngưỡng mộ – thầy Chu Văn An, người đã có công lớn trong việc xây dựng Quốc Tử Giám, trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Là người thầy dạy dỗ Vua Trần Hiển Tông và đào tạo ra những vị quan có tài và thanh liêm cho triều đình nhà Trần.Trong thời gian đứng đầu Quốc Tử Giám, thầy Chu Văn An có nhiều đóng góp trong việc hoàn thiện chương trình truyền dạy tư tưởng Nho giáo vào Việt Nam và được lưu danh là “ông tổ của đạo Nho ở Việt Nam”. Thầy là người tài cao đức trọng, giữ chức Tư nghiệp đầu tiên và trong một thời gian dài, cũng là người đầu tiên được đưa vào thờ tại Văn Miếu.

Thầy Chu Văn An từng thi đỗ Thái học sinh [tiến sĩ] nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học ở quê nhà [làng Huỳnh Cung bên sông Tô Lịch [Hà Nội]. Thầy nổi tiếng có học vấn sâu rộng, tư cách thanh cao, không cầu danh lợi, danh tiếng lan xa, học trò theo học rất đông.Thầy Chu Văn An luôn đối xử bình đẳng và công bằng với các lứa học trò từ bậc cao nhất cho đến lớp học trò bình thường ở nông thôn. Thầy cũng rất nghiêm nghị và gương mẫu. Những học trò cũ đã làm quan to như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát lúc về thăm thầy vẫn phải khép nép giữ gìn, và nếu có điều gì chưa đúng phép, thầy vẫn nghiêm khắc dạy bảo. Điều này càng khiến thầy được học trò kính mến hơn.Thầy được tôn là Vạn thế sư biểu – người thầy chuẩn mực của Việt Nam muôn đời. Trần Nguyên Đán đã đánh giá về những đóng góp của thầy như sau: Nhờ có Chu Văn An mà “bể học xoay làn sóng, phong tục trở lại thuần hậu”.Sự liêm khiết, chính trực và công tâm của Thầy giáo Chu Văn An cũng nhắc nhở những thế hệ nhà giáo luôn vì sự tiến bộ của giáo dục, sự nâng cao dân trí mà không ngừng phấn đấu để làm phong phú và dồi dào nguồn nguyên khí quốc gia. Không phải chỉ 6 thế kỷ qua, mà hàng thiên niên kỷ sau, có lẽ người ta vẫn không thôi nhớ đến người thầy vĩ đại đã dành cả cuộc đời chở đạo, những công lao và tiếng thơm về thầy đã khắc sâu trong tâm tưởng mỗi con dân Việt từ thủa ấu thơ.

Thầy giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm [1491-1585]
Một cây đại thụ tỏa rợp bóng ở thế kỷ XVI – Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là một danh nhân văn hóa, một nhà thơ lớn, một bậc hiền triết, một nhà tiên tri đại tài mà còn là một nhà giáo vĩ đại, một bậc sư biểu được người đời tôn vinh, ngưỡng mộ.

Thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm thi đỗ Giải Nguyên đời nhà Mạc [1527-1592]. Làm quan được 8 năm, năm 1542, thầy dâng sớ hạch tội 18 lộng thần nhưng không được vua nghe nên xin cáo quan về ở ẩn lập Am gọi Bạch Vân Am và hiệu Bạch Vân Cư Sĩ mở trường dạy học.Hơn 40 năm lui về Bạch Vân am dạy học là hơn 40 năm thầy dồn hết tâm huyết đào tạo nhiều tri thức lớn cho đất nước. Học trò của thầy đều là những nhân tài xuất chúng, văn võ song toàn như Phùng Khắc Khoan, Lý Hữu Khánh, Nguyễn Quyện… Danh tiếng và tài năng của thầy và trường Bạch vân bên dòng Tuyết Giang vang dội khắp nơi. Thầy được các môn sinh tôn là “Tuyết Giang phu tử”  – Một danh xưng tôn kính cho những bậc sư biểu đức độ.Đồn rằng, do được truyền cho quyển “Thái ất thần kinh” nên thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm tinh thông về lý học, tướng số, có thể tiên đoán được biến cố trước và sau 500 năm.Với những câu “sấm truyền”, thầy được người đời suy tôn là “nhà tiên tri” số một của Việt Nam. Giai thoại cùng với những lời sấm tiên tri của thầy vẫn còn được truyền tụng tận đến ngày hôm nay và ứng nghiệm đến bất ngờ.Lúc sinh thời, thầy đã dùng tài lý số của mình “cứu vãn” cho triều nhà Mạc tồn tại được một thời gian khá dài. Tương truyền rằng, lúc nhà Mạc sắp mất liền sai người đến hỏi thầy. Thầy đã đưa ra lời sấm cho nhà Mạc rằng: “Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn cô”. Nghĩa là nếu chạy lên Cao Bằng thì sẽ tồn tại được 3 đời. Quả nhiên, nhà Mạc lên Cao Bằng thì tồn tại được thêm 3 đời.Thầy cũng đưa ra lời sấm cho nhà Nguyễn, mà nhờ đó nhà Nguyễn mới tiến vào Nam mở rộng bờ cõi để đất nước ta có hình thái như ngày hôm nay.   Còn với triều đại thứ 3 cùng tồn tại khi ấy là nhà Trịnh, thời điểm vua Lê Trung Tông mất không có người nối dõi, Trịnh Kiểm định soán ngôi nhà Lê nhưng chưa dám quyết nên đã sai người tới hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thầy cũng chỉ nói: “Giữ chùa thờ phật thì ăn oản”, ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn. Trịnh Kiểm nghe theo liền sai người đi tìm tôn thất nhà Lê đưa lên ngôi. Họ Trịnh mượn tiếng nhà Lê nhưng thực chất nắm quyền điều hành chính sự, hai bên cùng tồn tại tới hơn 200 năm. Vì thế mà có câu: Lê tồn, Trịnh tại.  đôi câu đối ở đền thờ Bạch Vân am “Kế tuyệt, phù suy Chư Cát Lượng/ Tri lai, tàng vãng Thiệu Nghiên Phu” [Nối được cái đã đứt, đỡ được cái đã suy như Chư Cát Lượng/Tìm hiểu việc đã qua, dự đoán việc mai sau như Thiệu Nghiên Phu]. Tiếng tăm của thầy không chỉ nổi ở trong nước mà còn vang đến tận Trung Hoa, khiến giới học giả ở đó cũng ngưỡng mộ xưng tụng: “An Nam lý số hữu Trình Tuyền”.

 Thầy giáo Lê Quý Đôn [1726-1784]
Lê Quý Đôn nguyên là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, sinh trưởng trong một gia đình khoa bảng; cha là tiến sĩ Lê Trọng Thứ, quê ở Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ, nay là thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Ngay từ nhỏ thầy đã nổi tiếng thông minh, chăm học. Năm 14 tuổi, thầy theo cha lên học ở kinh đô Thăng Long. Lúc ấy thầy đã học xong toàn bộ sách kinh, sử của Nho gia. 18 tuổi, thầy thi Hương đỗ Giải Nguyên. 27 tuổi đỗ Hội Nguyên, rồi đỗ Đình Nguyên Bảng nhãn.Sau khi đã đỗ đạt, thầy được bổ làm quan và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều Lê – Trịnh. Thầy là người học rộng, tài cao, am thông nhiều lĩnh vực như: khoa học tự nhiên, địa lý, khoa học xã hội, văn chương, sử học,… luôn được vua, quan và nhân dân kính nể.Thầy Lê Quý Đôn không chỉ là một nhà bác học mà còn là người thầy xuất sắc ở nước ta hồi thế kỷ XVIII. Thầy từng mở trường dạy học, phụ trách các kỳ thi, lo lắng quan tâm tới việc đào tạo và tuyển dụng các nhân tài.Trái với những nho sĩ chỉ biết nhồi nhét những lý luận kinh điển xa xôi mà coi thường, thậm chí không biết gì đến các môn học khác thì thầy cho rằng cần phải học tập toàn diện. Thầy cũng đã nêu lên một số ý kiến về phương châm học tập, chủ trương học phải biết nắm lấy cái chính: “Không thể vu vơ theo việc ngọn ở ngoài mà không tìm tòi đến chỗ gốc ở trong. Nếu không thể mà cứ vật gì cũng xét cho đến cùng, cho đủ cả thì chẳng hoá ra vì đường có nhiều lối rẽ mà đến nỗi lạc mất dê ư?”Thầy cũng căn dặn rằng học hành phải có óc suy luận, không chỉ phụ thuộc vào sách vở: “Sách không hết lời, lời không hết ý… Phải hiểu ngầm ý của thánh nhân ở ngoài lời sách mới được”. [Dịch kinh phu thuyết].Thầy còn khuyên: “Dù ngu dốt đến đâu, cũng nên kính giấy, tiếc chữ, dù keo bẩn đến đâu cũng tìm mua sách vở”. Thầy cho rằng biết học thì không thể biện lẽ thiếu thì giờ./.

Video liên quan

Chủ Đề