Nguyên nhân khởi nghĩa lam son thắng lợi

*)Nguyên nhân:
- Do nhân dân ta có lòng nồng nàn yêu nước, ý chí bất khuất giành lại độc lập, tự do cho đất nước, toàn dân đoàn kết chiến đấu.
- Nhờ sự lãnh đạo tài tình của bộ tham mưu đứng đầu là Lê Lợi, Nguyễn Trãi,.....
- Những chiến thuật đúng đắn của bộ tham mưu.
*)Ý nghĩa:
- Kết thúc 20 năm đô hộ quân Minh.
- Mở ra thời kì phát triển mới của đất nước.
- Đập tan âm mưu xâm lược Minh.
- Thể hiện lòng yêu nước và tinh thần nhân đạo sáng ngời.

Chúc bạn học tốt!!!

Nguyên nhân khởi nghĩa lam son thắng lợi
Nguyên nhân khởi nghĩa lam son thắng lợi
Nguyên nhân khởi nghĩa lam son thắng lợi

Câu 2: Trang 93 – sgk lịch sử 7

Hãy nêu những nguyên nhân thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn.


Nguyên nhân thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn:

  • Lòng yêu nước nồng nàn, niềm tự hào sâu sắc, ý chí kiên cường quyết tâm giành lại được độc lập của nhân dân ta.
  • Sự lãnh đạo đúng đắn, tài giỏi của bộ chỉ huy nghĩa quân, đứng đầu là Lê Lợi, Nguyên Trãi.
  • Chiến lược, chiến thuật đánh giặc đúng đắn, sáng tạo của bộ chỉ huy nghĩa quân.
  • Tinh thần chiến đấu ngoan cường của nghĩa quân.

Đề bài

Trình bày nguyên nhân thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Hướng dẫn giải

dựa vào sgk Lịch sử 10 trang 99 suy luận trả lời.

Lời giải chi tiết

Nguyên nhân thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn bao gồm:

- Phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân đánh giặc.

- Nghĩa quân Lam Sơn được nhân dân ủng hộ.

- Nhân dân ta có truyền thống yêu nước, tinh thần quyết chiến đánh giặc, đã tham gia, giúp đỡ cuộc khởi nghĩa vượt qua mọi khó khăn.

- Có sự lãnh đạo tài tình, mưu lược của bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa, tiêu biểu là Lê Lợi, Nguyễn Trãi... đưa ra những kế sách đúng đắn để đưa cuộc khởi nghĩa đến thắng lợi, biết kết hợp sức mạnh quân sự và ngoại giao để chiến thắng kẻ thù.

Chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn là một trong những chiến thắng lẫy lầy trong lịch sử dân tộc ta do Bình Định Vương Lê Lợi lãnh đạo. Do vậy qua nội dung bài viết dưới đây hãy cùng tìm hiểu về Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Bạn đang xem: Nêu nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa lam sơn

Mục lục

  • Tóm tắt diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
    • 1/ Khởi nghĩa Lam Sơn giai đoạn 1418 – 1423
    • 2/ Khởi nghĩa Lam Sơn giai đoạn 1424 – 1426
    • 3/ Khởi nghĩ Lam Sơn năm 1427
  • Kết quả khởi nghĩa Lam Sơn
  • Nguyên nhân khởi nghĩa Lam Sơn
  • Ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
  • Câu 2: Trang 93 – sgk lịch sử 7Hãy nêu những nguyên nhân thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn.
  • Lời giải các câu khác trong bài
  • Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
  • I. Nguyên nhân, diễn biến, kết quả,… khởi nghĩa Lam Sơn
    • Giới thiệu về Lê Lợi
    • Tóm tắt diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
    • 1. Nguyên nhân cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
    • 2. Khởi nghĩa Lam Sơn xảy ra năm nào
    • 3. Diễn biến khởi nghĩa Lam Sơn
    • Trả lời Hủy
        • Vì sao nói atp là đồng tiền năng lượng của tế bào
        • Phân biệt pha sáng và pha tối
        • Tế bào nào có nhiều lizoxom nhất
        • Nguyên hàm của sin^2 x
        • Các chất tham gia phản ứng tráng gương
        • Các trung tâm công nghiệp ở đồng bằng sông hồng
        • Ai là người đề ra chủ trương ngồi yên đợi giặc
        • Phong trào tây sơn mang tính chất
        • Tác dụng của ngôi kể thứ 3
        • Quá trình feralit diễn ra mạnh mẽ là do
    • Về bigbiglands.com
    • Lưu Ý Nội Dung
    • Quản lý nội dung
      • © COPYRIGHT 2022 BY bigbiglands.com Liên Hệ Giới Thiệu Nội Quy Bảo Mật

Tóm tắt diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

1/ Khởi nghĩa Lam Sơn giai đoạn 1418 – 1423

Đến cuối năm 1421 quân Minh tiếp tục huy động thêm hơn 10 vạn lính mở cuộc vây quét lớn vào căn cứ của nghĩa quân, lần này Lê Lợi phải rút quân lên núi Chí Linh. Tại đây nghĩa quân đã trải qua muôn vàn khó khăn từ thiếu lương thực đến đói, rét, Lê Lợi đã phải giết cả voi, ngựa để nuôi quân.

Mùa he năm 1423, Lê Lợi đề nghị tạm hòa và được quân Minh chấp thuận, do vậy 5/1423 nghĩa quân đã quay trở về căn cứ Lam Sơn.

2/ Khởi nghĩa Lam Sơn giai đoạn 1424 – 1426

Trong giai đoạn này thì đội quân Lam Sơn đã diễn ra nhiều cuộc khởi nghĩa và dành được nhiều thắng lợi, có thể kể đến một số cuộc thắng lợi điển hình như:

– Thắng lợi ở Nghệ An năm 1424;

– Thắng lợi Tân Bình, Thuận Hóa năm 1425;

– Tiến quân ra Bắc, mở rộng được phạm vi hoạt động vào cuối năm 1426;

– Trận Tốt Động – Chúc Động vào cuối năm 1426

Theo đó vào 8/1426 Lê Lợi chia nghĩa quân thành 3 cánh đánh vào bắc với 3 hướng chính là Tây Bắc, Đông Bắc và Đông Quan.

Đến năm 1426, nhận thấy tình thế nguy cấp cho nên 20.000 quân Minh đến tiếp viện cùng với 30.000 thổ minh bản xứ đến cứu giúp quân Minh dưới sự chỉ huy của Vương Thông và Mã Anh.

Tuy nhiên, mặc dù quân Minh được tiếp viện nhưng vẫn bị nghĩa quân Lam Sơn đánh bại Mã Kỳ ở Từ Liêm.

Tướng Đinh Lễ và Nguyễn Xí dụ quân Vương Thông vào trận Tốt Động, Chúc Động khiến quân Vương Thông thua to phải chạy về cố thủ ở Đông Quan.

Sau đó, Vương Thông nghĩ kế đòi lập con cháu nhà Trần lên làm vua để tương kế tựu kế đánh lại nghĩa quân Lam Sơn. Tuy nhiên, Lê Lợi đã phát hiện kịp thời và cắt đứt giảng hòa.

Để thống nhất đất nước, Lê Lợi sai quân đi chiếm các thành như Điêu Diêu, Tam Giang và Xương Giang, Kỳ Ôn. Kết quả vào năm 1927 Lê Lợi chiếm được thành Đông Quan.

Cuối năm 1427, 15 vạn quân Minh dưới sự chỉ huy của Liễu Thăng tiến sang nước ta.

Lê Lợi dùng mưu trí cho đánh cánh quân của Liễu Thăng trước để làm nản lòng địch.

Các nhánh quân Minh đều bị thua dưới sự chỉ huy của Lê Lơi, các tướng Minh người bị giết, người tự vẫn, chỉ có Hoàng Phúc sống sót được thả về.

3/ Khởi nghĩ Lam Sơn năm 1427

Nối tiếp thắng lợi trước đó, đến cuối năm 1427 thì quân Lam Sơn đã triển khai chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang, đập tan thêm 10 vạn viện binh quân Minh, buộc tướng chỉ huy quân Minh là Vương Thông phải xin giảng hòa và được phép rút quân về nước.

Đến tháng chạp năm, 1427, quân Minh chính thức rút quên về nước, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hoàn toàn thắng lợi.

Sau cuộc chiếng thắng này, Bình Định Vương Lê Lợi đã sai văn thần Nguyễn Trãi viết bài Bình Ngô đại cáo để tuyên cáo cho toàn quốc, từ đó nước Đại Việt được khôi phục, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Thuận Thiên, mở ra cơ nghiệp nhà Lê trong gần 400 năm sau đó.

Nguyên nhân khởi nghĩa lam son thắng lợi

Kết quả khởi nghĩa Lam Sơn

Sau hơn mười năm chiến đấu thì nghĩa quân Lam Sơn đã tiêu diệt được hơn năm vạn quân Minh, bắt sống được một vạn tên, đồng thời tiêu diệt các tướng nhà Minh như Lương Minh, Ô Mã Nhi, Liễu Thăng…kiến cho Mộc Thạch phải tháo chạy, Vương Thông buộc phải xin hàng và chấp nhận mở hội thề ở Đông Quan.

Đến năm 1428 thì đất nước ta chính thức sạch bóng quân ngoại xâm, chấm dứt hai mươi năm đô hộ phong kiến dưới ách thống trị của nhà Minh. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi hoàn toàn.

Nguyên nhân khởi nghĩa Lam Sơn

Nguyên nhân thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:

– Từ bao đời nay nhân dân ta luôn có truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí đấu tranh kiên cường bất khuất. Tinh thần quyết chiến đánh giặc ngoại xâm, quyết tâm giành lại độc lập tự do cho đất nước.

– Có được sự lãnh đạo tài tình, mưu lược của bộ chỉ huy trong đó đứng đầu là Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã đưa ra nhiều sách lược, chiến thuật đúng đắn để giúp cho cuộc khởi nghĩa đi đến được với thắng lợi. Không những thế, chỉ huy còn biết kết hợp sức mạnh quân sự và ngoại giao để chiến thắng trước kẻ thù.

– Nghĩa quân Lam Sơn nhận được sự ủng hộ hết lòng từ phía nhân dân. Tất cả các tầng lớp nhân dân không phân biệt già, trẻ, nam, nữ hay các tầng lớp trong xã hội. Các thành phần dân tộc đều đoàn kết đánh giặc, hăng hái tham gia vào cuộc khởi nghĩa, gia nhập lực lượng vũ trang, tiếp tế lương thực cho nghĩa quân.

Trong đó, phải kể đến nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đó chính là nguyên nhân đầu tiên: Nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất, quyết tâm giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.

Ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã làm chấm dứt hơn hai mươi năm đô hộ của triều đình phong kiến nhà Minh. Cuộc khởi nghĩa đã đập tan hoàn toàn những âm mưu đô hộ nước ta của nhà Minh. Đất nước ta hoàn toàn sạch bóng quân xâm lược.

Chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn cũng thể hiện tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm của nhân dân ta. Đồng thời, mở ra cho đất nước ta một thời kì mới – Đại Việt thời Lê Sơ.

Công cuộc dựng nước và giữ nước của đất nước ta với biết công trạng của những người anh hùng đã làm nên lịch sử vẻ vang cho dân tộc.

Với nội dung bài viết phía trên, chúng tôi đã giải thích cho Quý khách về Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nếu còn gì thắc mắc về vấn đề này thì Qúy khách hãy liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ trực tiếp.

Trang chủ » Lớp 7 » Lịch sử 7

Câu 2: Trang 93 – sgk lịch sử 7Hãy nêu những nguyên nhân thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn.

Bài làm:

Nguyên nhân thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn:

Lòng yêu nước nồng nàn, niềm tự hào sâu sắc, ý chí kiên cường quyết tâm giành lại được độc lập của nhân dân ta.Sự lãnh đạo đúng đắn, tài giỏi của bộ chỉ huy nghĩa quân, đứng đầu là Lê Lợi, Nguyên Trãi.Chiến lược, chiến thuật đánh giặc đúng đắn, sáng tạo của bộ chỉ huy nghĩa quân.Tinh thần chiến đấu ngoan cường của nghĩa quân.

Từ khóa tìm kiếm Google: khởi nghĩa lam sơn toàn thắng, nguyên nhân thắng lợi khởi nghĩa lam sơn, lí do khởi nghĩa lam sơn thắng lợi, giải lịch sử 7 câu 2 trang 93.

Lời giải các câu khác trong bài

Bài 8: Nước ta buổi đầu độc lập

Bài 9: Nước Đại Việt thời Đinh – Tiền Lê

Khởi nghĩa Lam Sơn một trong những cuộc khởi nghĩa điển hình trong lịch sử Việt Nam. Trong bài viết dưới đây VnDoc sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1418-1427 là một dấu son chói ngời trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta.

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

I. Nguyên nhân, diễn biến, kết quả,… khởi nghĩa Lam SơnGiới thiệu về Lê LợiTóm tắt diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn1. Nguyên nhân cuộc khởi nghĩa Lam Sơn2. Khởi nghĩa Lam Sơn xảy ra năm nào3. Diễn biến khởi nghĩa Lam Sơn4. Kết quả của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn5. Nguyên nhân thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn6. Ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa Lam SơnII. Tóm tắt ngắn gọn cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

Bài học của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã cho thấy một thiên tài kiệt xuất về quân sự, chính trị, ngoại giao được kết tinh bởi sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc đã làm nên những thắng lợi vang dội. Di sản tư tưởng của Lê Lợi và những nhà lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vẫn còn sống động trong lịch sử dân tộc. Đó là tư tưởng đại đoàn kết toàn dân, lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, lấy chí nhân và đại nghĩa để thắng hung tàn, cường bạo. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng mà bắt đầu từ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã viết nên bản anh hùng ca vĩ đại và là bài học quý giá cho các thế hệ.

I. Nguyên nhân, diễn biến, kết quả,… khởi nghĩa Lam Sơn

Giới thiệu về Lê Lợi

Đầu năm 1416, tại núi rừng Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, Lê Lợi cùng với 18 người bạn thân thiết, đồng tâm cứu nước đã làm lễ thề đánh giặc giữ yên quê hương. Đó là hội Thề Lũng Nhai đã đi vào sử sách.

Xem thêm: Iso 9001 Là Gì Làm Thế Nào Để Anh/Chị Áp Dụng Tiêu Chuẩn Iso 9001 Cho Công Việc Của Anh Chị

Tin Lê Lợi dựng cờ nghĩa, chiêu mộ hiền tài bay xa, thu hút các anh hùng hào kiệt từ bốn phương kéo về. Đất Lam Sơn trở thành nơi tụ nghĩa. ở đó có đủ các tầng lớp xã hội và thành phần dân tộc khác nhau, với những đại biểu ưu tú như: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Chích, Nguyễn Xí, Lê Lai, Cầm Quý, Xa Khả Tham… Sau một thời gian chuẩn bị chín muồi, đầu năm 1418, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, truyền hịch đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước. Lê Lợi là linh hồn, là lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa ấy.

Tóm tắt diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

1. Khởi nghĩa Lam Sơn giai đoạn 1418 – 1423

– Giữa năm 1418, quân Minh huy động một lực lượng bao vây chặt căn cứ Chí Linh, quyết bắt giết Lê Lợi. Trước tình hình nguy cấp đó, Lê Lai đã cải trang làm Lê Lợi, chỉ huy một toán quân liều chết phá vòng vây quân giặc. Lê Lai cùng toán quân cảm tử đã hi sinh. Quân Minh tưởng rằng đã giết được Lê Lợi nên rút quân.

– Cuối năm 1421, quân Minh huy động hơn 10 vạn lính mở cuộc vây quét lớn vào căn cứ của nghĩa quân. Lê Lợi lại phải rút quân lên núi Chí Linh. Tại đây, nghĩa quân đã trải qua muôn vàn khó khăn, thiếu lương thực trầm trọng, đói, rét. Lê Lợi phải cho giết cả voi, ngựa (kể cả con ngựa của ông) để nuôi quân.

– Mùa hè năm 1423, Lê Lợi đề nghị tạm hoà và được quân Minh chấp thuận. Tháng 5 – 1423, nghĩa quân trở về căn cứ Lam Sơn.

=>Trong giai đoạn đầu (1418–1423), nghĩa quân Lam Sơn gặp rất nhiều khó khăn và tổn thất lớn trong các càn quét của quân Minh.

Những năm đầu họat động của nghĩa quân Lam Sơn gặp rất nhiều khó khăn và thử thách:

+ Lực lượng còn non yếu.

+ Quân Minh liên tục tấn công, bao vây.

+ Phải ba lần rút lên núi Chí Linh.

+ Thiếu lương thực, thực phẩm.

2. Khởi nghĩa Lam Sơn giai đoạn 1424 – 1426

– Từ năm 1424 đến cuối năm 1426, đội quân Lam Sơn đã diễn ra nhiều cuộc khởi nghĩa và dành được nhiều thắng lợi. Cụ thể diễn biến tiêu biểu của các cuộc khởi nghĩa như sau:

+ Giải phóng Nghệ An (năm 1424)

Theo kế hoạch của Nguyễn Chích, được Lê Lợi chấp thuậnNgày 12/ 10/ 1424, nghĩa quân bất ngờ tấn công Đa Căng Thọ Xuân – Thanh Hóa), sau đó hạ thành Trà LânTrên đà thắng đó, nghĩa quân tiến đánh Khả Lưu, phần lớn Nghệ An được giải phóng.

+ Giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa (năm 1425)

Tháng 8 / 1425, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân huy quân tiến vào giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa

=> Vùng giải phóng của nghĩa quân kéo dài từ Thanh Hóa đến đèo Hải Vân. Quân Minh chỉ còn mấy thành lũy bị cô lập và bị nghĩa quân vây hãm

+ Tiến quân ra Bắc, mở rộng phạm vi hoạt động (cuối năm 1426)

Tháng 9/1426, Lê Lợi và bộ chỉ huy quyết định chia làm 3 đạo tiến quân ra Bắc:Đạo thứ nhất, tiến ra giải phóng miền Tây Bắc, ngăn chặn viện binh từ Vân Nam sangĐạo thứ hai, giải phóng vùng hạ lưu sông Nhị (sông Hồng) và chặn đường rút lui của giặc từ Nghệ An về Đông QuanĐạo thứ ba, tiến thẳng về Đông QuanNghĩa quân đi đến đâu cũng được nhân dân ủng hộ tích cực về mọi mặtNghĩa quân chiến thắng nhiều trận lớn, quân Minh phải rút vào thành Đông Quan cố thủ

=> Cuộc khởi nghĩa chuyển sang giai đoạn phản công.

+ Trận Tốt Động – Chúc Động (cuối năm 1426)

Tháng 10-1426, khoảng 5 vạn viện binh giặc do Vương Thông chỉ huy kéo vào thành Đông Quan, nâng số quân Minh ở đây lên 10 vạn.Muốn giành thế chủ động, 11/1946, Vương Thông tiến đánh quân chủ lực của nghĩa quân ở Cao Bộ (Chương Mĩ, Hà Nội).Biết trước âm mưu của giặc, quân ta phục kích ở Tốt Động – Chúc Động, đánh giặc tan tác rồi Vương Thông kéo quây chạy tháo về Đông Quan.Nghĩa quân thừa thắng kéo về vây hãm Đông Quan, giải phóng thêm nhiều châu, huyện.

3. Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi năm 1427

– Tiếp nối thắng lợi, cuối năm 1427, quân Lam Sơn triển khai chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang, đánh tan tát thêm 10 vạn viện binh quân Minh, buộc tướng chỉ huy quân Minh trên đất Việt cũ là Vương Thông phải xin giảng hòa và được phép rút quân về nước.

=> Sau chiến thắng, Bình Định vương Lê Lợi sai văn thần Nguyễn Trãi viết bài Bình Ngô đại cáo để tuyên cáo cho toàn quốc. Nước Đại Việt được khôi phục, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu Thuận Thiên, mở ra cơ nghiệp nhà Lê trong gần 400 năm sau đó.

=> Cuộc khởi nghĩa kết thúc thắng lợi.

1. Nguyên nhân cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

Với những âm mưu thâm độc và tội ác của chế độ thống trị nhà Minh, trong vòng 20 năm đô hộ nước ta, nhà Minh đã làm cho sự khủng hoảng của xã hội ngày càng thêm sâu sắc, đất nước bị tàn phá, lạc hậu, nhân dân lâm vào cảnh lầm than, điêu đứng.

Chế độ thống trị của nhà Minh không thể tiêu diệt được tinh thần đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta, với lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc ta đã cầm vũ khí đứng lên đấu tranh theo sự chỉ huy của các quý tộc nhà Trần.

2. Khởi nghĩa Lam Sơn xảy ra năm nào

Bắt đầu năm 1418 và kết thúc thắng lợi năm 1427. Là cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi khởi xướng và là lãnh đạo, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi quân Minh.

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn diễn ra với ba giai đoạn chính:

+) Giai đoạn 1: 1418-1423 – Khởi nghĩa hoạt động ở vùng Thanh Hóa

+) Giai đoạn 2: 1424-1425 – Cuộc khởi nghĩa tiến vào khu vực phía Nam

+) Giai đoạn 3: 1426 – 1427 – Giải phóng Đông Quan

3. Diễn biến khởi nghĩa Lam Sơn

Giai đoạn 1: Quá trình nghĩa quân Lam Sơn hoạt động ở Thanh Hóa

Mùa xuân năm 1418, người anh hùng Lê Lợi đã cùng với 50 tướng văn tướng võ và một số chí sĩ như Nguyễn Lý, Lê Văn An… phất cờ khởi nghĩa. Ông tự xưng là Bình Định Vương và kêu gọi nhân dân đánh quân Minh cứu nước.

Lúc này, quân Minh cai trị đất nước ta với hơn 5 vạn quân lính với chế độ hà khắc và tàn bạo.Giai đoạn đầu này được coi là thời kì khó khăn nhất của cuộc khởi nghĩa khi vừa lực lượng mỏng, quân lương thì thiếu thốn. Đây là nguyên nhân khiến nghĩa quân của Lê Lợi giai đoạn này chỉ thắng được những trận nhỏ.

Do lực lượng quá chênh lệch cũng như điều kiện khó khăn, nghĩa quân Lam Sơn nhiều lần bị quân Minh vây đánh. Điển hình là ba lần trong năm 1418, 1419 và 1422 nghĩa quân phải chạy lên núi Chí Linh.

Tướng sĩ Lê Lai phải đóng giả Lê Lợi để nhử quân Minh giúp nghĩa quân có đường thoát, trong một lần quân Minh vay gắt tại núi Chí Linh.

Bên cạnh đó, một số tù trưởng miền núi và quân nước Lào đi theo quân Minh đã gây khó khăn cho nghĩa quân Lam Sơn.

Năm 1422, Lê Lợi phải xin giảng hòa với quân Minh trước tình thế hết sức khó khăn đó.

Đến năm 1423, khi lực lượng đã củng cố, lấy lí do sứ giả bị quân Minh bắt giữ, Lê Lợi cắt đứt giảng hòa. Diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bước vào giai đoạn mới.Giai đoạn 2: Nghĩa quân Lam Sơn tiến vào Nam

Lê Lợi quyết định đưa quân vào vùng Nghệ An trong năm 1424. Đây được xem là bước tiến mới trong chiến thuật lãnh đạo của Bình Định Vương.

Nghĩa quân Lam Sơn đánh bại thành Đa Căng, đồng thời đánh lui quân cứu viện của Cầm Bành. Sau đó, nghĩa quân của Lê Lợi tiếp tục đánh bại Trà Lân.

Tướng quân Minh là Trần Trí bị thua liền mấy trận phải rút về thành cố thủ khi Đinh Liệt được Lê Lợi giao mang quân vào đánh Nghệ An.

Theo lệnh của Lê Lợi, Đinh Liệt đem quân đánh Diễn Chau vào tháng 5 năm 1425. Sau khi giao chiến, quân Minh thua phải chạy về vùng Tây Đô (Thanh Hóa ngày nay). Tiếp đó, các tướng như Lê Triện, Lưu Nhân Chú ra tiếp viện cho Đinh Lễ đánh Tây Đô, quân Minh lại bị thua phải rút về thành để cố thủ.