Nguyên nhân gây bệnh ehp trên tôm
31. July 2020 16:05 Show
BỆNH CHẬM LỚN DO VI BÀO TỬ TRÙNG (Enterocytozoon hepatopenaei) Bệnh vi bào tử trùng (Microsporidian) do ký sinh trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) thuộc họ Enterocytozoonidae gây ra hay còn gọi là bệnh chậm lớn. Bệnh xuất hiện nhiều nước có ngành công nghiệp nuôi tôm phát triển như: Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Ấn độ…. Ở Việt Nam, bệnh vi bào tử trùng xuất hiện từ năm 2015. Mặc dù đây không phải là bệnh nguy hiểm nhưng đã gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế cho các hộ nuôi. Ngày 08/10/2019 Cục Thú y đã có công văn hướng dẫn phòng, chống bệnh vi bào tử trùng trên tôm nuôi nước lợ. EHP ký sinh trong gan, tụy tôm và nhân lên bên trong tế bào chất của biểu mô ống gan, tụy. EHP ký sinh nội bào và sử dụng dinh dưỡng, năng lượng dự trữ trong gan, tụy khiến tôm không đủ dinh dưỡng, năng lượng cho sự tăng trưởng và lột xác. Hậu quả là tôm chậm lớn, giảm sức đề kháng dẫn tới nguy cơ tôm bị nhiễm thứ phát các tác nhân gây bệnh khác và làm chết tôm. Ngoài ra, tôm nhiễm EHP có thể tăng tính mẫn cảm với một số bệnh như: Đốm trắng (WSD), hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND),... dẫn đến tỉ lệ chết có thể lên đến 100% trong khoảng thời gian ngắn.
Hình 1. Bào tử trùng Enterocytozoon hepatopenaei dưới kính hiển vi điện tử Các loài tôm bị bệnh bao gồm tôm sú (P. monodon), tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei), tôm he (P. japonicus, P. merguiensis) ở tất cả các giai đoạn (giống, thương phẩm). Bệnh do EHP có tốc độ lây lan nhanh theo đường truyền dọc và truyền Về triệu chứng bệnh tích: Tôm bị bệnh EHP không có bệnh tích điển hình. Tôm nhiễm EHP thường có kích cỡ không đồng đều sau khoảng 25 ngày thả nuôi. Tăng trưởng của tôm chỉ đạt từ 10 - 40% so với tôm ở các ao không nhiễm bệnh. Ngoài ra, EHP thường được phát hiện nhiều trên các ao tôm nuôi đã nhiễm hội chứng phân trắng (WFS) với tỷ lệ nhiễm lên đến 96% và hội chứng chậm lớn (MSGS) với tỉ lệ nhiễm khoảng 55,5%.
Hình 2. Tôm nhiễm EHP có kích cỡ không đều Phòng và trị bệnh: EHP là bệnh ký sinh trùng nội bào, đến nay chưa có thuốc điều trị, do đó việc sử dụng kháng sinh để phòng và trị bệnh là không hiệu quả. Việc lạm dụng kháng sinh làm cho tôm chậm lớn và gây ra hiện tượng kháng kháng sinh. Vì vậy việc phòng, chống bệnh do EHP chủ yếu dựa vào việc áp dụng nghiêm ngặt các biện pháp kỹ thuật trong quản lý ao nuôi như quản lý con giống, thức ăn, môi trường nuôi, quy trình nuôi,... Việc thực hiện đầy đủ, liên tục các yêu cầu an toàn sinh học là biện pháp phòng bệnh hiệu quả nhất hiện nay. Những năm gần đây, tình trạng tôm chậm lớn, sụt giảm sản lượng do vi bào tử trùng EHP ngày càng nhiều. Bệnh EHP ở tôm không gây tỷ lệ tử vong cao nhưng có ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng sinh trưởng và phát triển của tôm, là vấn đề đáng lo ngại đối với ngành nuôi tôm. Dưới đây là nguyên
nhân, triệu chứng và các biện pháp phòng trị EHP người nuôi cần nắm để tránh thiệt hại về kinh tế do loại bệnh này. Bệnh EHP ở tôm và các triệu chứng khi nhiễm bệnhVi bào tử trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) chính là nguyên nhân gây bệnh EHP ở tôm, hay còn được gọi là bệnh chậm lớn. Đây là loại bệnh xuất hiện nhiều ở các nước có ngành công nghiệp nuôi tôm phát triển như Thái Lan, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia,… Tại Việt Nam, bệnh EHP xuất hiện từ năm 2015. Theo Tổng cục Thủy sản, tình hình tôm nhiễm bệnh EHP ở nước lợ đang có chiều hướng gia tăng. Tôm nhiễm bệnh sẽ chậm lớn, thậm chí không lớn mặc dù vẫn tiêu tốn thức ăn. Vỏ tôm mềm, màu sắc gan tụy trở nên nhợt nhạt. Bệnh vi bào tử trùng EHP không gây tỷ lệ chết cao, tuy nhiên ảnh hưởng trầm trọng đến tốc độ tăng trưởng của tôm và gây thiệt hại nặng nề về kinh tế cho bà con nuôi tôm. Ở những ao tôm nhiễm bệnh EHP, tốc độ tăng trưởng của tôm chỉ đạt từ 10 – 40% so với những ao không nhiễm bệnh. Tôm bệnh EHP thường có kích cỡ không đồng đều sau 25 ngày thả nuôi và được phát hiện nhiều ở các ao nuôi đã nhiễm bệnh phân trắng – WFS (tỷ lệ nhiễm lên đến 96%) và hội chứng chậm lớn – MSGS ( tỷ lệ nhiễm khoảng 55,5%). Điểm đáng lo ngại của bệnh EHP chính là chưa có giải pháp điều trị hiệu quả và khó khống chế bệnh do các tác nhân lây truyền theo cả chiều ngang và chiều dọc. Do vậy, để hạn chế sự hình thành và lây lan của bệnh, bà con nuôi tôm được khuyến cáo thực hiện các biện pháp phòng bệnh tổng hợp. Cơ chế lây nhiễm bệnh EHP ở tôm như thế nào?Bệnh EHP ở tôm có cơ chế lây nhiễm theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang:
Với cơ chế lây nhiễm phức tạp và khó kiểm soát nên bệnh EHP được dự báo là thách thức lớn trong ngành công nghiệp nuôi tôm bên cạnh bệnh đốm trắng (WSSV) và bệnh hoại tử gan tụy cấp (Bệnh EMS trên tôm). Bệnh EHP không có các triệu chứng đặc trưng, do vậy chỉ có thể phát hiện vi bào tử trùng EHP thông qua kính hiển vi hiện đại, quan sát mô học và các phương pháp sinh học phân tử. Một số phương pháp phát hiện EHP ở tôm được các nhà nghiên cứu áp dụng là quan sát bằng kính hiển vi điện tử quét và quang học, quan sát mô học, lai tại chỗ, fist step PCR, real-time PCR, nested PCR, LAMP. Tuy nhiên, theo báo cáo của Rajendran và ctv (2016) chỉ khi tôm bị nhiễm bệnh nặng thì mới có thể phát hiện EHP thông qua các phương pháp quan sát. Do vậy, nên áp dụng các phương pháp sinh học phân tử hiện đại như PCR,… để phát hiện bệnh EHP hiệu quả hơn. Các biện pháp phòng bệnh EHP ở tômNhư đã nhắc đến ở trên, bệnh EHP ở tôm rất khó phát hiện và kiểm soát khả năng lây lan. Do vậy, bà con nuôi tôm cần chủ động thực hiện các biện pháp phòng bệnh nhằm tránh những thiệt hại do bệnh gây ra. Kiểm soát con giống chặt chẽTrước khi thả nuôi, bà con nuôi tôm cần lựa chọn những con giống tốt từ các công ty/ trại giống uy tín. Chọn tôm đã được xét nghiệm và đảm bảo âm tính với tất cả các bệnh thông thường ở tôm. (Tham khảo cách chọn tôm giống chất lượng) Mật độ thả nuôi vừa phảiMật độ thả nuôi phù hợp đối với tôm sú là 15 – 25 com/ m2, đối với tôm thẻ chân trắng là 60 – 70 con/ m2. Chuẩn bị kĩ ao nuôiMô hình nuôi thâm canh và bán thâm canh cần phải xây dựng ao lắng (ít nhất 30% diện tích ao nuôi) để luôn mang lại nguồn nước cấp sạch, chất lượng cho ao nuôi. Ao lắng cũng phải được cải tạo và diệt khuẩn nước kỹ trước khi cấp vào ao nuôi. (Tham khảo quy trình chuẩn bị ao nuôi tôm) Thực hiện đúng các quy trình cải tạo ao nuôi để loại bỏ tất cả mầm bệnh tồn tại từ vụ mùa trước.
Tuân thủ an toàn sinh học trong ao nuôi để tránh lây lan mầm bệnhBố trí riêng biệt các vật dụng chăm sóc hoặc kiểm tra tôm nhằm tránh lây bệnh giữa các ao nuôi với nhau. Với những ao bị nhiễm EHP cần quan tâm đến lây lan qua nguồn nước hay do người chăm sóc. Theo dõi thể trạng và sức ăn của tôm thường xuyênCần theo dõi sức ăn của tôm thường xuyên để điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp, tránh tình trạng thức ăn dư thừa gây ô nhiễm và biến đổi nguồn nước, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm. Kiểm tra gan tụy, màu sắc, độ cứng vỏ, kích cỡ… thường xuyên để đảm bảo tôm khỏe mạnh, đồng thời có thể phát hiện những biến đổi khác thường ở tôm nhanh chóng. Quản lý tốt chất lượng nguồn nướcThường xuyên theo dõi và duy trì các chỉ tiêu nguồn nước như độ pH, độ kiềm, nhiệt độ, nồng độ oxy hòa tan,… ở mức tối ưu nhằm đảm bảo môi trường phát triển tốt nhất cho tôm. Tránh tình trạng tôm bị sốc và sự hình thành, lây lan của các tác nhân gây bệnh.( Tham khảo cách quản lý chất lượng nước ao nuôi tôm) Trên đây là những cách phòng bệnh EHP ở tôm mà bà con có thể áp dụng để đẩy lùi sự phát triển của các vi khuẩn gây bệnh nói chung và vi bào tử trùng EHP nói riêng. Với những thông tin về nguyên nhân, triệu chứng, cách phát hiện và phòng bệnh, Biogency hy vọng bà con đã có thêm nhiều kiến thức hơn về bệnh EHP và chủ động hơn trong các biện pháp phòng ngừa, giúp nuôi tôm khỏe mạnh và đạt hiệu quả kinh tế. Xem Thêm : Bí quyết sử dụng chế phẩm vi sinh nuôi tôm khoẻ mạnh Đăng nhập |