Nghĩa quân Lam Sơn giải phóng Diễn Châu Thanh Hóa trong bao lâu

Xem thêm các sách tham khảo liên quan:

Giải Bài Tập Lịch Sử 7 Bài 19 phần 2: Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giúp HS giải bài tập, cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản, chính xác, khoa học để các em có những hiểu biết cần thiết về lịch sử thế giới, nắm được những nét lớn của tiến trình lịch sử Việt Nam:

[trang 87 sgk Lịch Sử 7]: – Em có nhận xét gì về kế hoạch của Nguyễn Chích ?

Trả lời:

– Nguyễn Chích đã có những nhận định đúng đắn về vị trí vùng đất từ Nghệ An trở vào Nam: đất rộng, người đông, lực lượng quân Minh ít, nhân dân đều mong muốn tham gia khởi nghĩa.

– Với kế hoạch chuyển hướng tấn công vào Nghệ An, chỉ trong khoảng một thời gian, nghĩa quân đã giải phóng được Nghệ An, Thanh Hóa…

[trang 88 sgk Lịch Sử 7]: – Em hãy trình bày tóm tắt các chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn từ cuối năm 1424 đến cuối năm 1425.

Trả lời:

– Giải phóng Nghệ An [năm 1424]

    + Theo kế hoạch của tướng Nguyễn Chích, được Lê Lợi chấp thuận, ngày 12- 10 – 1424, nghĩa quân bất ngờ tấn công đồn Đa Căng [Thọ Xuân, Thanh Hoá], sau đó hạ thành Trà Lân.

    + Trên đà thắng lợi đó, nghĩa quân tiến đánh Khả Lưu, phần lớn Nghệ An được giải phóng.

– Giải phóng Tản Bình, Thuận Hoá [năm 1425]

    + Tháng 8 – 1425, Trần Nguyên Hãn, Lẽ Ngân chỉ huy nghĩa quân tiến vào giải phóng Tân Bình, Thuận Hoá.

    + Vùng giải phóng của nghĩa quân kéo dài từ Thanh Hoá đến đèo Hải Vân. Quân Minh chỉ còn mấy thành luỹ bị cô lập và bị nghĩa quân vây hãm.

[trang 89 sgk Lịch Sử 7]: – Dựa vào lược đồ, em hãy trình bày kế hoạch tiến quân ra Bắc của Lê Lợi. Nhận xét về kế hoạch đó.

Trả lời:

– Tháng 9-1426, nghĩa quân tiến ra Bắc bằng 3 đạo quân:

    + Đạo thứ nhất tiến ra giải phóng Tây Bắc chặn viện binh địch từ Vân Nam sang .

    + Đạo thứ hai giải phóng hạ lưu sông Hồng, và chặn đường rút quân từ Nghệ An về Đông Quan, và chặn viện binh từ Quảng Tây sang .

    + Đạo thứ ba tiến thẳng ra Đông Quan .

– Nhiệm vụ giải phóng đất đai, thành lập chính quyền mới, chặn viện binh địch; đã tiêu diệt hàng ngàn tên địch, quân Minh phải rút vào thành Đông Quan để cố thủ.

– Cuối năm 1426, tương quan lực lượng ta và địch có sự thay đổi: nghĩa quân hùng mạnh giành thế chủ động và phản công ; quân Minh phải phòng ngự, cố thủ ở Đông Quan, xin viện binh.

– Nhận xét: Kế hoạch của Lê Lợi rất chu đáo và toàn diện, chia quân tấn công địch từ nhiều phía, chặn đường tiếp tế và rút lui của địch, buộc địch vào thế bị động.

[trang 87 sgk Lịch Sử 7]: – Em có nhận xét gì về kế hoạch của Nguyễn Chích ?

Trả lời:

– Nguyễn Chích đã có những nhận định đúng đắn về vị trí vùng đất từ Nghệ An trở vào Nam: đất rộng, người đông, lực lượng quân Minh ít, nhân dân đều mong muốn tham gia khởi nghĩa.

– Với kế hoạch chuyển hướng tấn công vào Nghệ An, chỉ trong khoảng một thời gian, nghĩa quân đã giải phóng được Nghệ An, Thanh Hóa…

[trang 88 sgk Lịch Sử 7]: – Em hãy trình bày tóm tắt các chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn từ cuối năm 1424 đến cuối năm 1425.

Trả lời:

– Giải phóng Nghệ An [năm 1424]

    + Theo kế hoạch của tướng Nguyễn Chích, được Lê Lợi chấp thuận, ngày 12- 10 – 1424, nghĩa quân bất ngờ tấn công đồn Đa Căng [Thọ Xuân, Thanh Hoá], sau đó hạ thành Trà Lân.

    + Trên đà thắng lợi đó, nghĩa quân tiến đánh Khả Lưu, phần lớn Nghệ An được giải phóng.

– Giải phóng Tản Bình, Thuận Hoá [năm 1425]

    + Tháng 8 – 1425, Trần Nguyên Hãn, Lẽ Ngân chỉ huy nghĩa quân tiến vào giải phóng Tân Bình, Thuận Hoá.

    + Vùng giải phóng của nghĩa quân kéo dài từ Thanh Hoá đến đèo Hải Vân. Quân Minh chỉ còn mấy thành luỹ bị cô lập và bị nghĩa quân vây hãm.

[trang 89 sgk Lịch Sử 7]: – Dựa vào lược đồ, em hãy trình bày kế hoạch tiến quân ra Bắc của Lê Lợi. Nhận xét về kế hoạch đó.

Trả lời:

– Tháng 9-1426, nghĩa quân tiến ra Bắc bằng 3 đạo quân:

    + Đạo thứ nhất tiến ra giải phóng Tây Bắc chặn viện binh địch từ Vân Nam sang .

    + Đạo thứ hai giải phóng hạ lưu sông Hồng, và chặn đường rút quân từ Nghệ An về Đông Quan, và chặn viện binh từ Quảng Tây sang .

    + Đạo thứ ba tiến thẳng ra Đông Quan .

– Nhiệm vụ giải phóng đất đai, thành lập chính quyền mới, chặn viện binh địch; đã tiêu diệt hàng ngàn tên địch, quân Minh phải rút vào thành Đông Quan để cố thủ.

– Cuối năm 1426, tương quan lực lượng ta và địch có sự thay đổi: nghĩa quân hùng mạnh giành thế chủ động và phản công ; quân Minh phải phòng ngự, cố thủ ở Đông Quan, xin viện binh.

– Nhận xét: Kế hoạch của Lê Lợi rất chu đáo và toàn diện, chia quân tấn công địch từ nhiều phía, chặn đường tiếp tế và rút lui của địch, buộc địch vào thế bị động.

Lời giải:

* Giải phóng Nghệ An [năm 1424]:

    – Theo kế hoạch của tướng Nguyễn Chích, được Lê Lợi chấp thuận, ngày 12- 10 – 1424, nghĩa quân bất ngờ tấn công đồn Đa Căng [Thọ Xuân, Thanh Hoá], sau đó hạ thành Trà Lân.

    – Trên đà thắng lợi đó, nghĩa quân tiến đánh Khả Lưu, phần lớn Nghệ An được giải phóng.

* Giải phóng Tân Bình, Thuận Hoá [năm 1425]:

    – Tháng 8 – 1425, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân chỉ huy nghĩa quân tiến vào giải phóng Tân Bình, Thuận Hoá.

    – Vùng giải phóng của nghĩa quân kéo dài từ Thanh Hoá đến đèo Hải Vân. Quán Minh chỉ còn mấy thành luỹ bị cô lập và bị nghĩa quân vây hãm.

* Tiến quân ra Bắc, mở rộng phạm vi hoạt động [cuối năm 1426]:

    – Tháng 9-1426, nghĩa quân chia làm ba đạo tiến ra Bắc : Đạo thứ nhất, tiến ra giải phóng miền Tây Bắc, ngăn chặn viện binh từ Vân Nam [Trung Quốc] sang. Đạo thứ hai, giải phóng vùng hạ lưu sông Nhị [sông Hồng] và chặn đường rút lui của giặc từ Nghệ An vào Đông Quan. Đạo thứ ba tiến thẳng vào Đông Quan.

    – Nghĩa quân đi đến đâu cũng được nhân dân ủng hộ về mọi mặt, chiến thắng nhiều trận lớn, quân Minh phải rút vào thành Đông Quan cố thủ. Cuộc khởi nghĩa chuyển sang giai đoạn phản công.

* Trận Tốt Động — Chúc Động [cuối năm 1426]:

    – Tháng 10-1426, khoảng 5 vạn viện binh giặc do Vương Thông chỉ huy kéo vào thành Đông Quan, nâng số quân Minh ở đây lên 10 vạn.

    – Để giành thế chủ động, ngày 7-11-1436, Vương Thông tiến đánh quân chủ lực của nghĩa quân ở Cao Bộ [Chương Mĩ, Hà Nội].

    – Biết trước âm mưu của giặc, quân ta phục kích ờ Tốt Động – Chúc Động.

    – Kết quả, 5 vạn tên giặc bị thương, bị bắt sống trên 1 vạn ; Vương Thông bị thương, tháo chạy về Đông Quan. Nghĩa quân thừa thắng kéo về vây hãm Đông Quan, giải phóng thêm nhiều châu, huyện.

Lời giải:

    Từ cuối năm 1424 đến cuối năm 1426, nghĩa quân đi đến đâu cũng được nhân dân ủng hộ về mọi mặt:

    – Tháng 2- 1425, Lê Lợi kéo quân đến làng Đa Lôi [Nam Đàn, Nghệ An] thì già, trẻ thi nhau đem trâu, rượu đến đón tiếp và khao quân.

Sau khi kế hoạch chuyển quân vào Nghệ An được Lê Lợi chấp nhận, ngày 12-10-1424, nghĩa quân bất ngờ tập kích vào Đa Căng [Thọ Xuân, Thanh Hóa] [1] -> Hạ thành Trà Lân [2] -> Hạ thành Khả Lưu, Bồ Ải + vây hãm thành Nghệ An [3] -> Tiến đánh giải phóng Diễn Châu [4] -> Giải phóng Thanh Hóa [5].

A. Thành Trà Lân

B. Thành Nghệ An

C. Diễn Châu

D. đồn Đa Căng

Đáp án đúng D.

Điểm tập kích đầu tiên của nghĩa quân Lam Sơn sau khi chuyển căn cứ từ Thanh Hóa vào Nghệ An là đồn Đa Căng.

Lý giải việc lựa chọn đáp án D là do:

– Từ năm 1424 đến cuối năm 1426, đội quân Lam Sơn đã diễn ra nhiều cuộc khởi nghĩa và dành được nhiều thắng lợi. Cụ thể diễn biến tiêu biểu của các cuộc khởi nghĩa như sau:

+ Giải phóng Nghệ An [năm 1424]

Theo kế hoạch của Nguyễn Chích, được Lê Lợi chấp thuận

Ngày 12/ 10/ 1424, nghĩa quân bất ngờ tấn công Đa Căng Thọ Xuân – Thanh Hóa], sau đó hạ thành Trà Lân

Trên đà thắng đó, nghĩa quân tiến đánh Khả Lưu, phần lớn Nghệ An được giải phóng.

+ Giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa [năm 1425]

Tháng 8 / 1425, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân huy quân tiến vào giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa

=> Vùng giải phóng của nghĩa quân kéo dài từ Thanh Hóa đến đèo Hải Vân. Quân Minh chỉ còn mấy thành lũy bị cô lập và bị nghĩa quân vây hãm

+ Tiến quân ra Bắc, mở rộng phạm vi hoạt động [cuối năm 1426]

Tháng 9/1426, Lê Lợi và bộ chỉ huy quyết định chia làm 3 đạo tiến quân ra Bắc:

Đạo thứ nhất, tiến ra giải phóng miền Tây Bắc, ngăn chặn viện binh từ Vân Nam sang

Đạo thứ hai, giải phóng vùng hạ lưu sông Nhị [sông Hồng] và chặn đường rút lui của giặc từ Nghệ An về Đông Quan

Đạo thứ ba, tiến thẳng về Đông Quan

Nghĩa quân đi đến đâu cũng được nhân dân ủng hộ tích cực về mọi mặt

Nghĩa quân chiến thắng nhiều trận lớn, quân Minh phải rút vào thành Đông Quan cố thủ

=> Cuộc khởi nghĩa chuyển sang giai đoạn phản công.

+ Trận Tốt Động – Chúc Động [cuối năm 1426]

Tháng 10-1426, khoảng 5 vạn viện binh giặc do Vương Thông chỉ huy kéo vào thành Đông Quan, nâng số quân Minh ở đây lên 10 vạn.

Muốn giành thế chủ động, 11/1946, Vương Thông tiến đánh quân chủ lực của nghĩa quân ở Cao Bộ [Chương Mĩ, Hà Nội].

Biết trước âm mưu của giặc, quân ta phục kích ở Tốt Động – Chúc Động, đánh giặc tan tác rồi Vương Thông kéo quây chạy tháo về Đông Quan.

Nghĩa quân thừa thắng kéo về vây hãm Đông Quan, giải phóng thêm nhiều châu, huyện.

Video liên quan

Chủ Đề