Lục thân là gì

LỤC THÂN

Lục thân là sáu bề thân thương thân tình. Đó là:

1. Cha

2. Mẹ

3. Vợ

4. Con

5. Anh Chị

6. Em

Trong gia tộc sáu bề thân quyến này là thân thích hơn hết, yêu mến hơn hết. Kế tiếp lục thân là quyến thuộc, tức là những người bà con bên chồng, bên vợ, bên ngoại, bên nội.

Theo PHDS của Thích Nữ Đức Trí

Page 2

LỤC THÂN

Lục thân là sáu bề thân thương thân tình. Đó là:

1. Cha

2. Mẹ

3. Vợ

4. Con

5. Anh Chị

6. Em

Trong gia tộc sáu bề thân quyến này là thân thích hơn hết, yêu mến hơn hết. Kế tiếp lục thân là quyến thuộc, tức là những người bà con bên chồng, bên vợ, bên ngoại, bên nội.

Theo PHDS của Thích Nữ Đức Trí

Page 3

LỤC THÂN

Lục thân là sáu bề thân thương thân tình. Đó là:

1. Cha

2. Mẹ

3. Vợ

4. Con

5. Anh Chị

6. Em

Trong gia tộc sáu bề thân quyến này là thân thích hơn hết, yêu mến hơn hết. Kế tiếp lục thân là quyến thuộc, tức là những người bà con bên chồng, bên vợ, bên ngoại, bên nội.

Theo PHDS của Thích Nữ Đức Trí

Page 4

LỤC THÂN

Lục thân là sáu bề thân thương thân tình. Đó là:

1. Cha

2. Mẹ

3. Vợ

4. Con

5. Anh Chị

6. Em

Trong gia tộc sáu bề thân quyến này là thân thích hơn hết, yêu mến hơn hết. Kế tiếp lục thân là quyến thuộc, tức là những người bà con bên chồng, bên vợ, bên ngoại, bên nội.

Theo PHDS của Thích Nữ Đức Trí

Nhưng nhiều trường hợp vừa có chính ấn, vừa có thiên ấn [có một số trường hợp không biết nên gọi là gì, vì tổ hợp của Tứ trụ rất phức tạp, không thể kết luận một cách đơn giản được]. Theo mười thần mà nói, ấn tinh chỉ đức tính từ thiện, về nghề nghiệp là làm nghề liên quan vối văn thư, con dấu. Từ ngũ hành mà nói, ấn tinh được sinh là có sinh phù, được lệnh là vượng, tính tình hiền lành, đi học văn bài viết giỏi, thích hợp với công việc văn bài viết, hành chính, tổ hợp tốt thì còn có danh vọng, quyền uy. Nếu ấn tinh bị khắc hoặc rất yếu thì từ đức tính đến tiền đồ học hành đều xấu. Theo lục thân mà nói, người nhật can ngày sinh có ngũ hành giống nhau, ví dụ hai người cùng sinh ngày giáp hoặc ngày ất, ấn tinh có ngũ hành đều là thuỷ, những người khác sinh ngày bính, ngày đinh hỏa mà gặp thuỷ thì không phải là ấn tinh, nhưng tính chất mà mười thần đại biểu thì đều giống nhau, ví dụ ấn tinh đại biểu mẹ đẻ đại biểu tính hiền lành, đại biểu cho nghề nghiệp văn thư, công danh, quyền bính, V.V.. Sự lợi, hại đối với lục thân có thể biết được theo quy luật sinh khắc của ngũ hành. Trụ năm vốn là cung cha mẹ. Nếu trụ năm vượng hoặc được các trụ khác sinh thì trụ năm đó sinh vượng, tức cha mẹ mạnh khỏe, nếu trụ năm không được lệnh hoặc bị các trụ khác xung khắc là cha mẹ bị tổn thất, bệnh tật. Còn một trường hợp nữa là: khi thân vượng, ấn nhiều là kỵ thì mẹ khắc mình nên không lợi, nguyên lý đó cũng giông như khi thân nhược mà tài nhiều thì cũng sẽ không được tài. Quan hệ sinh khắc của lục thân như sau:

Từ sự sắp xếp mệnh cục cửa Tứ trụ có thể nhìn ra quy luật: năm là gốc, tháng là thân cây, ngày là hoa, giờ là quả. Ông bà, cha mẹ là nguồn gốc của bản mệnh, không có gốc thì không có thân cây, càng không thể khai hoa kết quả ra đời sau. Cho nên trụ năm là cung tổ tiên, cha mẹ; trụ tháng là cung anh chị em; trụ ngày là mình, chi ngày là vợ [chi ngày của nữ là cung chồng]; trụ giờ là con cái.

Lục thân mà mười thần của Tứ trụ làm chủ thường được kết hợp xem với cung nó đóng. Trong lục thân, sinh tôi là cha mẹ, là ấn thụ. Chính ấn là mẹ đẻ, thiên ấn là dì hoặc mẹ kế. Tài khắc ấn, mẹ bị cha chế ngự. nên thiên tài là cha, nếu chính tài thấu ra bị khắc thì cha cũng bị khắc. Khi bàn về cát hung, vừa có thể từ cung phụ mẫu, lại cũng vừa có thể từ mười thần để dự đoán sự sinh khắc, cát hung. Thiên tài và chính tài cũng hiểu cho sao vợ, quan sát là sao chồng. Chi ngày trong Tứ trụ của nữ hoặc nam là hỉ hay là kị sẽ đại biểu cho sao chồng hoặc sao vợ có đắc lực hay không. Trụ tháng đại biểu cho anh chị em, tỉ kiếp trong mười thần cũng đại biểu cho số anh chị em và sự sinh, khắc lẫn nhau. Ngoài ra trụ năm còn chủ về thời niên thiểu, trụ tháng, trụ ngày chủ thồi trung niên, trụ giờ chỉ về tuổi già.

Trong Tứ trụ, phần tổ tiên tuy mới xem qua không thấy rõ có mỗi liên hệ trực tiếp gì, nhưng người thành thạo về mệnh lý đểu biết rõ: trụ năm đại biểu cho tổ tiên bao gồm cả cha mẹ. Mối liên hệ kế thừa đó trong sự cân bằng của Tứ trụ là không thể thiếu, thậm chí khi trụ năm là dụng thần thì âm phúc tổ tiên liên quan rất chặt chẽ với mệnh vận của Tứ trụ.
Ta xét một ví dụ thực tế, có người trụ năm là dụng thần, có lực thì người đó xuất thân ở gia đình cha ông có sản nghiệp, tuổi thơ vận tốt, từ bé đã sống trong giàu sang. Khi trụ năm bị khắc, bại vận đến, tai họa giáng xuống cha mẹ thì người đó mau chóng thành kẻ ăn xin hoặc con ở. ở cuối vận xấu bị xung khắc rất mạnh. Nhưng khi vận xấu qua đi thì đời sống bắt đầu khấm khá hơn, hơn nữa từ bé đã được ăn học, hoặc được bà con ở nước ngoài giúp đỡ, hoặc nhờ chính sách đổi mới, nên âm đức của trụ năm lại có tác dụng, hoặc giàu lên hoặc có một chức vụ nhất định trong xã hội.

Những mệnh cục như thế, chúng tôi gặp rất nhiều trong thực tế. Phương pháp dự đoán về cha mẹ thường bàn chung vối tổ tiên, thường căn cứ trụ năm để luận [cũng có phương pháp căn cứ vào trụ tháng, ở đây thống nhất lấy theo trụ năm, độc giả có thể tham khảo trụ tháng]. Đại để: tài, quan, ấn và quý nhân, thần lộc đóng ở trụ năm, hơn nữa trụ năm là dụng thần hay hỉ thần thì ông bà, cha mẹ là người vinh hoa phú quý, người này nhờ đó mà được hưởng âm đức. Nếu trụ năm là: kiêu thần, thất sát, kình dương, kiếp tài, là kị thần thì tổ tiên và người đó xuất thân đều nghèo đói. Nếu trụ năm lâm: bệnh, tử, mộ, tuyệt hoặc gặp xung khắc là tổ nghiệp không vượng, ông bà hoặc cha mẹ không phải là người phúc thọ, bản thân người đó tuổi thơ cũng vất vả.
Từ ông bà, cha mẹ để xem người đó có được nhờ hay không, rồi lại xem các mặt khác trong Tứ trụ để biết tình cảnh gia đình của người đó ra sao, cũng có thể xem mối quan hệ giữa nhật chủ với Tứ trụ để biết ngưòi đó có khá hơn ông bà cha mẹ không. Nếu nhật chủ là hỉ quan, ngày giờ lại gặp tài, nhật chủ là hỉ ấn, ngày giờ lại gặp quan thì người đó nhất định hơn ông cha. Ngược lại nhật chủ là hỉ quan, nhưng ngày giờ gặp thương; nhật chủ là hỉ ấn, nhưng ngày, giờ gặp tài thì người đó sa sút hơn ông cha.

Người mà can năm hoặc chính ấn được trường sinh, không bị phá tổn thì cha mẹ thọ cao, phúc hậu. Người mà can năm hoặc chính ấn có đóng nguyệt đức hoặc thiên đức là cha mẹ hiền lành, người đó được cha mẹ yêu chiều, bồi đắp.

  • Chi năm là lộc, là hỉ, dụng thần hoặc chi năm là quý nhân của can năm gọi là được quý, được lộc thì cha mẹ giàu có, của cải để lại nhiều.
  • Chi năm là quý nhân của nhật chủ thì cha mẹ tuân tú, nho nhã.
  • Chi năm hoặc chính ấn có đóng đào hoa thì cha mẹ thông minh nhưng ham mê tửu sắc.
  • Chi năm là thực thần, không có kiêu thần thì cha mẹ cao to, béo, tính cách thành thực, của cải nhiều.
  • Chi năm là chính quan, cha mẹ đôn hậu hòa nhã, nếu trong can tàng có tài tinh thì cha mẹ còn giàu có nữa.
  • Tài tinh của chi năm được lộc, được quý nhân là cha mẹ vinh hoa phú quý, được hưởng sản nghiệp của tổ tiên.
  • Chi năm là quan tinh gặp tướng tinh là cha mẹ giầu có, trung hậu.
  • Chi năm là trạch mã kiêm cả lộc hoặc chi tháng là tài tinh thì cha mẹ buôn bán xa nhà, được của nhờ đi lại hoặc cha mẹ trong quân đội.
  • Chính ấn đóng trạch mã là cha. mẹ lập nghiệp ở phương xa.
  • Chi năm hoặc chính ấn đóng hoa cái thì cha mẹ thông minh nhưng tính cô.
  • Chi năm thất sát lại gặp ác sát thì cha mẹ nhiều bệnh tật.
  • Chi năm thất sát kèm kình dương thì cha mẹ tính thô bạo, không có phúc, không có của, nặng ra thì người đó còn hình khắc cha mẹ.
  • Chi năm thiên ấn là dụng thần hoặc thương quan là dụng thần thì cha mẹ được hưởng âm đức và của cải ông bà, nếu là kị thần thì cha mẹ không được hưởng âm đức hoặc không lợi cho cha mẹ.
  • Chi năm thực thần bị kiêu thần cướp đoạt hay bị khắc thì cha mẹ thấp bé, yếu đuối hoặc nhiều bệnh, nếu nặng thì bị khắc sớm. Thực thần mạnh, kiêu thần yếu thì không can gì.
  • Chi năm hoặc chính ấn gặp xung chủ vê’ khắc cha mẹ, không được hưởng của để lại. Tài nhiều ấn nhược hoặc tài nặng ấn nhẹ chủ về cha mẹ nhiều bệnh tật, nặng hơn nữa là bị hình khắc.
  • Chi năm tài nhược bị tỉ kiếp trùng trùng cướp đoạt là khổng được của ông cha để lại, sớm khắc cha mẹ.
  • Nhật chủ nhược, trụ năm đóng kình dương chủ về được âm đức của cả cha mẹ, nhưng hình khắc nhẹ đối với cha mẹ.
  • Trụ năm có tài tinh hoặc thực thần mà là kị thần thì không được hưởng âm đức, tài sản để lại.
  • Chi năm chính quan bị thương quan khắc phá thì cha mẹ ốm yếu hoặc đoản thọ.
  • Nhật chủ nhược, dụng thần là chính ấn hoặc tỉ kiếp được phù là người được cha mẹ, anh chị em nuông chiều và bồi đắp cho của cải.
  • Trụ năm là kị thần, trong Tứ trụ lại không có ấn, tổ hợp các vận thời tuổi trẻ không tốt là người đó khi sinh ra hồng vận của cha mẹ đã qua, gia đình ngày càng sa sút, người đó đang đói khổ dần.

 ANH CHỊ EM

Trụ tháng có thể xem về anh chi em. Dụng thần hiện ở can tháng hoặc chi tháng là anh chị em không sang thì cũng giàu, người đó được nhờ. Nếu ngược lại là người đó không có chỗ nhờ cậy. Trong sách cổ lấy ngang vai và lộc để xem anh chị; kiếp tài và kình dương để xem em trai, em gái. Trong dụ đoán thực tế, tôi đều đưa vào trụ tháng để xem anh chị em, nhưng có sự phân biệt nam nữ. Mệnh nam lấy can tháng xem cho anh em trai, chi tháng xem cho chị em gái, mệnh nữ lấy can tháng xem cho chị em gái, chi tháng xem cho anh em trai. Trong mười thần cũng có sự phân biệt nam nữ: lấy can ngày làm dương, các ngang vai khác trong Tứ trụ đểu đồng tính. Ví dụ: mệnh nam sinh ngày tân, các can tân khác trong Tứ trụ đều là số anh em trai, mệnh nữ lấy canh đếm số; mệnh nữ nếu sinh ngày tân, các can tân khác trong Tứ trụ là số chị em gái, mệnh nam lấy canh đếm sôi Anh chị em và ngang vai là loại tổ hợp phức tạp, có ngưòi rất dễ xem, có ngưòi chênh lệch rất lớn. Vấn đề này đang trong tìm tòi, khám phá.

Mục này chuyên bàn về căn cứ ngang vai xem anh chị em. Nó đóng ở trụ tháng. Đồng thời có kết hợp với trụ năm xem cha mẹ để kiểm định. Trong Tứ trụ, ngang vai’ kiếp tài vượng mà nhiều là người anh chị đông, ngược lại là anh chị em suy và ít, hoặc sống xa nhau, hoặc nhiều bệnh tật. Lộc hoặc quý nhân đóng ỏ ngang vai là hỉ, chủ về anh em giàu có, hoặc được tài, có lực; trạch mã đóng ở ngang vai là anh em ở xa nhau nhưng vinh hiển.

Kình dương đóng ở kiếp tài mà nhật chủ lại vượng thì anh em không hòa thuận hoặc không đắc lợi, lại hay cãi cọ lặt vặt, nặng hơn nữa là anh em làm hại nhau, bạn bè làm hao của tốn sức nhau. Nhưng khi thân nhược được kình dương giúp đỡ là được anh em hay bạn bè giúp đỡ. Ngang vai đóng lộc và tướng tinh là tốt, anh em phú quý, đắc lực.

  • Tỉ kiếp đóng thiên, nguyệt đức là anh em hiền lành, trung thực.
  • Tỉ kiếp gặp trường sinh là anh em mạnh khoẻ, sống lâu.
  • Tỉ kiếp gặp mộ, tuyệt là khắc anh em, nhưng nhật chủ vượng lại gặp tỉ kiếp vượng là mình giúp anh em nhiều [tỉ kiếp đóng dưới hỉ, kị thần cũng tương tự].
  • Tỉ kiếp đóng trạch mã là anh em xa nhau, nếu là kình dương gặp xung thì sống nơi xa không lợi hoặc chết nơi đất khách quê người.
  • Tỉ kiếp gặp xung, nhẹ thì anh em không hoà thuận, bệnh tật nhiều, nặng thì hình khắc hoặc không có anh em.
  • Tỉ kiếp đóng đào hoa là anh em chơi bời, rượu chè.
  • Tỉ kiếp đóng hoa cái là không có anh em hoặc anh em ít, cô độc nhưng thông minh.
  • Nhật chủ nhược, trong Tứ trụ không có tỉ kiếp, ấn thụ, tuổi nhỏ đã hành vận tỉ kiếp là người được anh em hoặc bạn bè nuôi lớn, khổ từ bé.
  • Nhật chủ nhược, Tứ trụ không có tỉ kiếp, ấn thụ, hoặc chỉ dựa vào tỉ kiếp giúp thân là người không được cha mẹ giúp đỡ mà nhờ phúc anh em thành gia lập nghiệp.
  • Nhật chủ vượng, tỉ kiếp ít, vận tỉ kiếp vào giữa hay cuối đời, nhẹ thì anh em bất hòa hoặc hay cãi nhau, hao tài, nặng thì anh em kiện tụng hoặc mất của vì bạn bè. Nếu nhật chủ nhược thì lại là người được anh em, bạn bè giúp đỡ.
  • Nhật chủ vượng mà tỉ kiếp nhiều thì anh em bại gia, bất hoà, nếu nhật chủ nhược mà được lộc tỉ kiếp thì anh em nhà khá, hoà thuận.
  • Sát vượng, thực thần nhẹ, ấn nhược gặp tài, được tỉ kiếp khắc lại sát là được anh em giúp đỡ.
  • Quan nhẹ, thương nặng, tỉ kiếp sinh trợ cho thương hoặc chế ngự thất sát quá mức mà tỉ kiếp trợ giúp thực thương thì đó là người bị liên lụy vì anh em.

THÊ TÀI

Can trụ ngày là mình, chi trụ ngày là vợ [hoặc chồng]. Nữ lấy quan sát làm chồng. Quan sát không trộn lẫn là rất tốt, một quan hoặc một sát thuần khiết, rõ, thấu lại càng tốt nữa. Nếu không thì hôn nhân không thuận.

Cách xem cho nam và nữ như nhau. Đó là theo sự tiến bộ của xã hội cho rằng nam nữ bình đẳng. Đương nhiên nam cương nữ nhu là hợp lẽ, nếu nam âm nữ dương thì hôn nhân hay trắc trở. ở mục này lấy cung thê đóng ở trụ ngày vượng suy là hỉ, kị và thê tài tinh có đắc lực hay không để bàn về duyên vợ của Tứ trụ. Tài tinh cung thê bao gồm: chính thất, thiên thất, kế thất và bản tính người vợ. Độc giả có thể căn cứ vào đó để suy ra sao chồng đóng ở trụ ngày của nữ có đắc lực hay không để biết được giàu nghèo, sang hèn.

Tục ngữ nói: “Gần son thì đỏ, gần mực thì đen”. Nếu Tứ trụ người đó là mệnh phú quý thì người cùng chung hưởng vinh hoa với mình nhất định cũng là người có phúc. Trong cuộc sống có những nam giới trước khi lấy vợ còn nghèo, sau khi lấy vợ thăng quan, phát tài, mọi việc đều thuận lợi. Điều đó chứng tỏ trong mệnh người đó, vợ là tài tinh giúp mình, còn khi anh ta lấy người vợ khác thì bị phá tài, rủi ro, đó là vì khí quý của mình bị vợ xì xẹp mất. Cho nên ở đây muốn nhắc nhở những người ham ăn chơi phải biết giữ thân mình để đừng làm hại lây sang vợ. Nhưng cũng có trường hợp ngược lại, sau khi lấy vợ không những hàng chục năm làm ăn không nên noi mà còn ốm yếu liên miên, thậm chí vừa cưới vợ về thì mất bô’ mẹ hoặc bị mất quan, bãi chức, hoặc buôn bán thua lỗ, v.v…

Cái lý do của nó là thân vượng thì thắng tài, thân nhược gặp tài là tai họa. Nói chung tài vượng có thể thắng, gặp vận tốt vừa được vợ vừa được của. Muốn trong mệnh tài nhiều mà thắng thì thân phải rất vượng. Loại tổ hợp này rất ít gặp. Phần nhiều người ta chỉ gặp tổ hợp đó trong một khoảng thời gian.

Cách xem cung vợ là chi ngày và tài tinh ở ngôi nào, là sinh vượng hay suy mộ và kết hợp xem đại vận. Nếu Tứ trụ không có tài tinh thì chỉ xem chi ngày. Cụ thể như sau: Chi ngày là chính quan thì vợ tướng mạo đoan trang, ôn hòa, hiền thục, nội trợ tốt.

  • Chi ngày đóng thực thần mà không có kiêu thần đoạt thực thần hoặc chi ngày là lộc thì vợ tính rộng rãi, ngưòi đậm, chàm chỉ việc nhà, gia đình đời sống đầy đủ.
  • Chi ngày đóng tài tinh là hỉ, ngưồi đó được vợ giúp đỡ hoặc có của nhờ vợ. Nếu còn gặp thiên đức là vợ hiền lành, khảng khái.
  • Chi ngày đóng chính ấn là vợ hiền, được vợ giúp, thân nhược càng tốt.
  • Chi ngày đóng tài tinh gặp tướng tinh là vợ con nhà danh giá phú quý.
  • Chi ngày đóng tỉ kiếp mà thân nhược là vợ tháo vát, đóng lộc càng tốt.
  • Chi ngày đóng thương quan là người vợ đẹp. Thân vượng tài nhẹ là người có của. Kỵ thương quan vì như thế là người bị vợ làm cho phá tài hoặc không giúp đỡ được gì. Thương quan vượng là vợ hay mắng chồng hoặc mắng người khác.
  • Tài tinh được lộc là vợ khỏe mạnh, hiền lành, chăm công việc.
  • Tài tinh đóng dưới quý nhân hoặc cùng chi với quý nhân là vợ đẹp, thông minh, nhu mì, con gia đình phú quý.
  • Tài tinh được trường sinh là vợ trường thọ.
  • Chi ngày hoặc tài tinh đóng trạch mã là lấy vợ quê xa và chết ở quê vợ.
  • Chi ngày hoặc tài tinh đóng hoa cái là vợ thông minh nhưng cao ngạo.
  • Chi ngày hoặc tài tinh đào hoa là vì luyến ái mà lấy nhau, vợ phong lưu nhiều tài nghệ.
  • Chi ngày là thiên ấn mà thân nhược là vợ hiền, tháo vát. Nếu thân nhược hoặc kị thiên ấn là vợ không giúp đỡ mấy.
  • Chi ngày là thất sát thì vợ tính thô bạo, vợ chồng không hòa thuận hoặc khắc vợ. Nếu gặp cả xung thì sau khi cưới nhiều bệnh. Không xung mà có chế thì tránh được, có chế gặp hợp thì tốt.
  • Thất sát đóng chi ngày và là dụng thần cũng là được vợ giúp đỡ.

Nhật chủ vượng, kình dương đóng ở chi ngày là vợ không hiền, hung hãn, hao tài, thậm chí vì vợ mà phá sản, hoặc vợ nhiều bệnh, hoặc vợ hình khắc. Nếu tài tinh mỏng yếu thì chủ về khắc vợ khắc lần 1, lần 2, thậm chí ba lần vẫn còn khắc nữa. Người mà tỉ kiếp nhiều, tài nhẹ cũng như thế.

Nhật chủ vượng, chi ngày là tỉ kiếp là vợ làm hao tài, hay cãi cọ, nặng ra có thể phá sản. Thân vượng, tài nhược càng ứng nghiệm.

  • Chi ngày đóng kình dương hoặc tài tinh đóng dưới kình dương là vợ không hiền, vợ chồng không hoà thuận.

Chính tài mạnh, thiên tài yếu hoặc có chính tài không có thiên tài là vợ không khoan dung với tỳ thiếp, ngược lại là vợ không chấp nhận tì thiếp. Tài lâm tử mộ tuyệt, kị thì khắc vợ, hỉ thì tốt.

  • Chi ngày có tài tinh vượng mà thân nhược là tài nhiều thân nhược, người đó vợ không đắc lực hoặc vợ nhiều bệnh, nặng thì khắc vợ. Nếu có kình dương thì ngược lại là được nhờ vợ.
    Sát nặng, tài nặng, thân nhược là vợ khắc lại mình, vừa không được giúp đỡ còn hao tài.
  • Chi ngày là chính quan mà bị thực thương khắc hoặc gặp xung là vợ nhiều bệnh, nặng thì khắc vợ, nhẹ thì kết hôn muộn.
  • Chi ngày là thực thần gặp kiêu thần cướp đoạt là vợ thấp bé, yếu đuối nặng thì nhiều bệnh hoặc khắc vợ.

Tài là hỉ thần của mệnh cục, không bị hình xung khắc hợp là tài trong sáng, chủ về vợ hiền, ngược lại là vợ không tốt.

Tài nhẹ mà không có quan, tỉ kiếp nhiều hoặc tài nhiều thân nhược, lại không có tỉ kiếp đều là khắc vợ.

Sát vượng dùng ấn lại gặp phải tài tinh là vợ thô lậu và bị khắc. Nếu thân vượng, sát nhẹ gặp tài tinh, còn gặp tỉ kiếp nữa là vợ đẹp mà khắc.

Tỉ kiếp, kình dương nặng, có thực thương, không có tài, khi đó vợ đẹp thì khắc, vợ xấu không bị khắc, tỉ kiếp kình dương vượng, có thực thương còn tài nhẹ, khi đó vợ xấu thì khắc, vợ đẹp thì không khắc.

Nhật chủ được tài hợp hóa cho dụng thần thì vợ nội trợ giỏi. Nếu hợp hóa thành kị thần thì vợ không chung thuỷ, vợ chồng bất hoà. Chi vận và chi ngày tương xung hoặc tương xung với chi tài hoặc tài nhược mà gặp vận tỉ kiếp, hoặc chi ngày là quan nhược mà gặp vận thương quan, hoặc chi ngày là thực thần mà gặp vận kiêu thần, nhẹ thì vợ bị thương tật, nặng thì khắc vợ. Chờ qua vận đó mối lấy vợ thì tránh được. Trong mệnh cục thê tinh vốn đã không hiền lại gặp vận xấu thì chủ về ly hôn hoặc phá tài, hoặc gặp kiện tụng, hoặc khắc người nhà.

CON CÁI

Là cha mẹ điều lo lắng nhất là con cái. Không có con thì muốn có con, có con thì buồn vì con lớn lên không tốt. Tục ngữ nói: “Khôn lên ba, dại tận già”. Có nhiều hoàn cảnh nuôi dạy không có lợi cho sự trưởng thành, nhiều em bé từ nhỏ được nuông chiều quá nên lổn lên không tốt. Cha mẹ chân chính, trung hậu, có cách dạy con, không buông thả, không gò bó, biết cách dẫn dắt thì cho dù nhà giàu hay nghèo, con cái lớn lên đều có thể thành đạt. Nhân tố tiên thiên cũng rất quan trọng. Có một số người Tứ trụ thiên khô [thiên khô là ý nói: các tổ. hợp trong Tứ trụ xấu nhiều hơn tốt] khi có thai đã có những nhân tố không tốt, nếu sau khi sinh tiên thiên có tật cha mẹ vì thế mà lo lắng suốt đời. Mệnh thiên khô dễ chết yểu, nếu có cứu, lại được vận giúp đỡ thì còn mạnh khỏe hoặc gặp vận tốt còn làm ăn nên nối. Nếu sau khi sinh tính nết, tính cách đều xấu thì tôi cho rằng phải tìm nguyên nhân từ cha mẹ, gia đình, nhà trường và môi trường chung quanh. “Nhân chi sơ, tính bản thiện” mà! Nếu cha mẹ hiền lành thì làm sao con cái lại ác được?

Cho dù là nhân tố tiên thiên hay hậu thiên, cha mẹ đầu tiên phải giúp đỡ, giáo dục con cái. Nếu ốm thì tìm thuốc, trong mệnh có bệnh thì phải bổ cứu chỗ còn thiếu, hoặc bằng cách đặt tên, hoặc tìm phương vị thích hợp, hoặc màu sắc quần áo, hoặc hướng nghiệp, v.v.. Tóm lại, phải bổ cứu chỗ còn thiếu để cân bằng. Đó là y mệnh.

Các bài viết trước đã nói: mệnh trung hoà là quý. Trên thực tế vận và mệnh trung hoà là quý. Nhưng cũng có mệnh trung hoà ở mức phú quý, còn hầu hết là mệnh trung hoà ở mức bình thường. Đối với mệnh trung hòa ở mức bình thường tuy cha mẹ không cần lo lắng lắm, nhưng con cái cũng không có gi trội hẳn. “Có phương thuốc là quý”, khi mất cân bằng nhiều được bổ lại nhiều thì thường đó là người có nhiều thành đạt, làm rạng rỡ tổ tông, hơn nữa cũng chứng tỏ sự lo lắng giúp đỡ của cha mẹ là không uổng phí. “Con tự có phúc của con, bô’ mẹ không nên quá lo lắng vì con”. Có một sô’ người con không thành đạt, đó là mệnh lý của nó, bô’ mẹ chỉ nên khuyên bảo chứ không nên vì thế mà quá lo lắng. Dưới đây căn cứ vào cách xem cung con của Tứ trụ để quy nạp dự đoán.

Phương pháp xem con, có sách lấy quan sát, có sách lấy thương thực là con cái, có sách mệnh nữ lây thương quan, quan tinh là con trai, mệnh nam thì thương quan, quan tinh là con gái; mệnh nữ lấy thực thần, thật sát làm con gái, mệnh nam xem đó là con trai. Trong thực tê’ dự đoán, cách thứ hai đối với mệnh nữ đoán sô’ con thường không chuẩn, đối với mệnh nam độ tin cậy có cao hơn.

Tổng quát mà nói, lấy thương thực làm con cái đã thành cái chung, nên ở đây chỉ tổng kết về lấy thương thực. Những phương pháp khác độc giả có thể tham khảo theo kinh nghiệm của mình. Ngoài ra, trong cuốn “Giải đáp về dự đoán theo Tứ trụ” trong bài viết con cái đã có lời giải thích chung về lấy thực thương quan sát làm con cái. Độc giả có thể tham khảo.
Nhật chủ vượng, không có ấn thụ, có thực thương thì đông con.

Nếu ấn thụ nặng, thực thương nhẹ là con ít. Ấn thụ chê áp thực thương cũng là con ít. Ấn thụ nặng, thực thương nhẹ, có tài tinh là con hoặc cháu nhiều mà hiền. Vì tài là cửa thông với thực thương, tài còn có thể áp chê’ kiếp, khiến cho ấn không khắc được thực thương nên con cái nhiều. Ấn nhiều mà không có thực thương, có tài tinh là con nhiều và có năng lực.

Vì nhật vượng có thể sinh con, đến vận thương quan là có con, kiếp nặng, quan sát nhẹ, có tài tinh, con tuy bị khắc nhưng có cháu.

  • Nhật chủ nhược, có ấn thụ, không có thực thương thì con nhiều; Ấn thụ nhẹ, thực thương nặng cũng không có con.
  • Thực thương nhẹ, không có tỉ kiếp, có quan tinh, hoặc quan sát nặng, không có ấn thụ, tỉ kiếp là không có con. Ngược lại, quan sát nặng, ấn thụ nhẹ, có ít tài là đông con gái.
  • Thất sát nặng, thực thương nhẹ, có tỉ kiếp là con gái nhiều, con trai ít.
  • Thực thương vượng, có ấn thụ, gặp tài tinh, con tuy có cũng như không.
  • Quan sát vượng, có án thụ, gặp tài tinh là con ngỗ ngược.

Tóm lại, giống như nguyên lý cha mẹ vượng thì người đó anh em đông, người thân vượng dễ có con, người thân nhược lại không có cứu thì được ít hoặc không có. Trụ giờ là cung con cái. Qua hỉ, kị của trụ giờ có thể trực tiếp lấy được ảnh hưởng lợi, hại, tốt xấu đến con cái. Yêu cầu của trụ giờ phải nhất trí với các cung khác, tức là lấy thân vượng, nhược để làm tiêu chuẩn hỉ, kị mà đo lường.

  • Chi giờ đóng tài tinh là con cái thành gia lập nghiệp, hiếu thuận, có phúc.
  • Chi giờ lâm thiên quan là con cái đôn hậu, tính tình dịu dàng, hiền hiếu, trung thực.
  • Chi giờ lâm thực thần, không bị kiêu thần đoạt hoặc thực thần là lộc thần là con cái to lớn, thành thực, thông minh, nhanh nhẹn, cuối đời hạnh phúc.
  • Chi giờ lâm chính ấn thì con cái hiếu thuận, dựng nhà lập nghiệp, người đó thân nhược càng tốt.
  • Thực thần là dụng thần thì con cái hiền lành, thành đạt, nếu người đó có quý khí thì con cái giàu sang.
  • Chi giờ hoặc thực thương lâm hoa cái thì con cái thông minh nhưng tính cô, thường là có con gái, không có con trai.
  • Chi giò hoặc thực thương lâm đào hoa chủ về con cái phong hiu tửu sắc.
  • Chi giờ hoặc thực thương lâm thiên, nguyệt đức hoặc gặp một trong hai cái là con cái hiếu lễ. Ngược lại nếu lâm hung sát là người đó hình khắc con cái.
  • Chi giờ hoặc thực thương lâm trường sinh là con cái nhiều và trường thọ.
  • Chi giờ là thiên ấn thì con cái tính tình không tốt. Nếu thiên ấn là kị thần, nhẹ ra là con cái bị hình khắc, nặng ra là tuyệt tự. Nếu thiên ấn là hỉ, dụng thần thì con cái thành đạt.
  • Chi giờ lâm kiếp tài là vì con cái nhiều mà bại gia, nếu thân vượng, tài nhẹ còn gặp được ngang vai thì có đỡ hơn.
  • Nhật nhược, chi giờ lâm tỉ kiếp là con cái nhiều và giúp ích.
  • Chi giờ lâm thất sát lại không có thực thần chế ngự là con cái tính tình thô bạo, không nghe lời, hoặc không có con. Nếu có chế và chi giò là hỉ, dụng thần thì con đông mà quý.
  • Chi giờ lâm kình dương là con cái thô khoẻ, ngỗ ngược bất hiếu hoặc khắc con. Nếu nhật nhược lại gặp kình dương thì con cái đắc lực.
  • Thực thương gặp quý nhân thì con cái đẹp, thông minh, phú quý.
  • Chi giờ hoặc thực thương gặp xung, nhẹ thì khắc con, nặng thì tuyệt tự. Đại vận cũng vậy.
  • Chi giờ hoặc thực thương gặp trạch mã là con cái sinh ở quê khác, con cái đi xa.
  • Can giờ học thực thương lâm mộ, tuyệt là con nhiều bệnh hoặc hình khắc con cái. Nếu nhật chủ vượng quá thì gặp mộ, tuyệt lại là tốt.
  • Nhật vượng, có thực thương không có ấn thụ là con đông.
  • Thực, kiêu đều có, kiêu nhẹ thì khắc con, kiêu nặng thì tuyệt tự còn có nghĩa con nhỏ, gầy yếu.
  • Thực thần, chính ấn đều có, nói chung là không khắc con, nếu thực nhẹ ấn nặng thì mới khắc con.
  • Thương quan, thiên ấn đều có nói chung là không tốt, nếu ấn nặng thương nhẹ là chủ về khắc con.
  • Thực thần tuy nhược nhưng không bị phá, gặp kiêu vận, nhẹ thì con cái bệnh tật, nặng thì khắc con.
  • Thương nặng ấn nhẹ, gặp vận ấn thụ là khắc con cái.
  • Nhật nhược thực thương nhiều, nếu gặp vận không giúp đô được gì thì con ít hoặc không có con. Mệnh nữ gặp như thế thường hay sẩy thai hoặc khó đẻ.

Cuối vận tốt, nhưng cung con cái không đắc lực thì người đó phải bôn ba, bận rộn. Cuối vận xấu, mà cung con cái đắc lực thì người đó bình yên hưởng cuối đời. Cuối vận và cung con cái đều tốt là con cháu đông đúc có ăn, người đó cuối đời hạnh phúc.

Tóm lại, nguyên tắc xem lục thân là:

  1. Đóng đúng bản cung là được ngôi, gặp nguyệt lệnh là vượng, gặp dụng thần là có lực.
  2. Thấu ra ở thiên can thì có lực hơn so với tàng trong bản khí của địa chi.
  3. Gặp hình xung đều là kị, là khắc, bao gồm cả gặp thần sát của tuế vận.

Video liên quan

Chủ Đề