Kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học đảm bảo tính khách quan cần thực hiện các công việc gì

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐIỆN BIÊN
--------------------------------------------------------------------------------------
Chịu trách nhiệm nội dung: Ông Nguyễn Văn Đoạt- Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo
Địa chỉ: 
Số 867, đường Võ Nguyên Giáp, phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên
Điện thoại: 02153 824 980 - 02153 831 439
Email: 

Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long khảo sát phục vụ đánh giá ngoài chương trình đào tạo Trường ĐH Kinh tế quốc dân. Đây là trung tâm kiểm định tư thục, độc lập về tổ chức - Ảnh: THĂNG LONG

Thế nhưng, đến nay phần lớn trung tâm này lại thuộc các đại học, trường đại học hoặc hiệp hội liên quan tới giáo dục đại học.

Điều 52 Luật giáo dục đại học 2018 quy định tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục có tư cách pháp nhân, độc lập về tổ chức với cơ quan quản lý nhà nước và cơ sở giáo dục đại học, có trách nhiệm giải trình và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động kiểm định và kết quả kiểm định chất lượng giáo dục đại học.

Khi chưa tự chủ tài chính thì khó có độc lập trong việc đánh giá, công nhận. Đó là chưa kể kiểm định viên chương trình đào tạo phải là chuyên gia am hiểu lĩnh vực mới có thể phản biện, góp ý chứ không chỉ đánh giá trên bảng hỏi. Thực tế nhiều người học lấy chứng chỉ kiểm định viên sau đó tham gia các đoàn kiểm định, đôi khi không đúng chuyên môn thì làm sao việc kiểm định chính xác và chất lượng được.

TS Hoàng Ngọc Vinh

Độc lập trên... luật

Tính đến năm 2022, cả nước có 7 trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục. Trong số này có hai trung tâm kiểm định tư thục được thành lập năm 2021, một trung tâm thuộc Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam và bốn trung tâm còn lại thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP.HCM, Đại học Đà Nẵng và Trường đại học Vinh.

Như vậy, phần lớn trung tâm kiểm định nằm trong cơ sở giáo dục đại học. Đây là các trung tâm thành lập, hoạt động theo Luật giáo dục đại học 2012, khi đó chưa có quy định về việc độc lập về tổ chức với cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên, Luật giáo dục đại học 2018 đã có hiệu lực gần ba năm nhưng tính độc lập của các trung tâm kiểm định vẫn là câu hỏi chưa có câu trả lời.

Trong buổi làm việc với Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Kim Sơn hồi giữa tháng 4-2022, Đại học Quốc gia TP.HCM kiến nghị Bộ GD-ĐT ủng hộ chủ trương và đầu tư nâng cấp Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục của đại học này thành Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục TP.HCM, hướng đến tầm khu vực và quốc tế.

Trả lời vấn đề này, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cho biết rất ủng hộ việc phát triển trung tâm này. Sắp tới, bộ sẽ ký ban hành ba thông tư về kiểm định chất lượng, trong đó có cơ chế kiểm định các trung tâm kiểm định.

"Khi đầu tư và phát triển, riêng hoạt động kiểm định không chỉ kiểm định tại chỗ... Trong khi chưa giải được bài toán độc lập thì tại thời điểm này cần cùng nhau đầu tư để trung tâm kiểm định lớn mạnh, phát triển và uy tín. Đây là vấn đề chúng ta có thể làm được" - Bộ trưởng Sơn nhấn mạnh.

Trong khi đó, TS Hoàng Ngọc Vinh - nguyên vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp, Bộ GD-ĐT - cho rằng xét theo luật thì các trung tâm này hoạt động chưa đúng vì chưa độc lập về tổ chức với các cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên, theo ông Vinh, độc lập về các quyết định quan trọng hơn là độc lập về tổ chức. 

"Nhiều nước giám sát rất chặt khung chất lượng, các trung tâm độc lập về kinh tế và các quyết định công nhận kiểm định chất lượng. Trong khi đó, tôi có cảm giác các quyết định vẫn còn bị chi phối ít nhiều từ vấn đề tài chính nên chưa hoàn toàn độc lập trong các quyết định của mình" - ông Vinh nói.

Ràng buộc kinh tế, khó độc lập khoa học

Trong vai trò người tham gia thành lập các trung tâm kiểm định chất lượng đầu tiên, ông Phạm Xuân Thanh - nguyên phó cục trưởng Cục Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục [nay là Cục Quản lý chất lượng] - cho rằng khi thành lập năm 2014, 2015, một số trung tâm cam kết trong đề án sau hai năm sẽ tách ra thành đơn vị độc lập. 

Đó là giải pháp tạm thời của thời kỳ đầu từ năm 2014, nhưng thật thất vọng, bây giờ các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục này lại tự xem mình như một bộ phận không thể tách rời của một đại học.

"Đại học, trường đại học phải là đối tượng chịu sự kiểm định chất lượng giáo dục của một trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục độc lập. Chúng ta đang làm một điều ngược khoa học: đó là một tổ chức trực thuộc đại học, trường đại học đi kiểm định chất lượng giáo dục trường đại học khác. 

Cần có cơ chế để đảm bảo sự độc lập, chứ như hiện nay khó có sự độc lập. Ở các nước, các trường đóng phí hội viên mặc định, các trung tâm không thu phí kiểm định. Các trung tâm kiểm định Việt Nam thu phí kiểm định nên có thể tác động đến quá trình cũng như quyết định công nhận kiểm định" - ông Thanh nói.

Ông Nguyễn Quốc Chính - giám đốc Trung tâm Khảo thí và đánh giá chất lượng đào tạo, Đại học Quốc gia TP.HCM - cho biết, trên thế giới, đa số trung tâm kiểm định do Nhà nước thành lập, giao cho một tổ chức độc lập quản lý, không nằm trong trường đại học. Ở Mỹ, các trung tâm này nằm trong các hiệp hội. 

Do đó, hiểu khái niệm độc lập thế nào cũng là một vấn đề. Ở khía cạnh nào đó có thể hiểu đó là độc lập học thuật, trong các quyết định. Chẳng hạn như Trung tâm Kiểm định chất lượng Đại học Quốc gia TP.HCM chỉ được đại học này hỗ trợ thành lập, người trung tâm không nhận lương từ Đại học Quốc gia TP.HCM và không chịu tác động khi ra các quyết định.

"Điều quan trọng nhất của trung tâm kiểm định là sự khách quan trong đánh giá, độc lập trong quyết định. Kiểm định viên là thành phần rất quan trọng. Hiện nay, kiểm định viên của các trung tâm phần lớn là người từ các trường đại học. 

Trong khi đó, đa số đại học là trường công lập, như vậy là số kiểm định viên là người của trường công. Độc lập về tổ chức như thế nào cần phải xem xét rõ và có điều chỉnh phù hợp" - ông Chính nói thêm.

Những hạn chế

Theo ông Hoàng Ngọc Vinh, công tác kiểm định chất lượng đã và đang tồn tại nhiều hạn chế: quy trình kiểm định còn chưa thực sự bảo đảm tính độc lập, khách quan và minh bạch.

Nguyên tắc độc lập của các tổ chức kiểm định chất lượng chưa được giải thích tường minh về mặt pháp lý và chưa bảo đảm trên thực tế.

Việc giám sát trách nhiệm giải trình và thực hiện chức năng nhiệm vụ của các trung tâm kiểm định chất lượng chưa được thực hiện bởi cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo.

Trung tâm kiểm định chất lượng hầu như thiếu việc theo dõi, giám sát và chịu trách nhiệm với những kết luận, khuyến cáo cải tiến chất lượng của cơ sở giáo dục đại học được cấp chứng nhận kiểm định...

Thêm một trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp

MINH GIẢNG

Kiểm định chất lượng giáo dục là một lĩnh vực còn khá mới ở Việt Nam. Có thể nói, ở cấp hệ thống, nó được bắt đầu từ khi Phòng kiểm định chất lượng Đào tạo trong vụ Đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo [GD&ĐT] được thành lập từ tháng 01/2002, sau đó được mở rộng cho các cấp học và trình độ đào tạo khác kể từ năm 2003, sau khi Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục [KT&KĐCLGD] được thành lập. Kiểm định chất lượng được đẩy mạnh từ tháng 12/2004 khi Quy định tạm thời về kiểm định chất lượng trường đại học được ban hành và được tiếp tục củng cố và phát triển gắn với việc ban hành các quy trình và các tiêu chuẩn kiểm định khác. Tuy nhiên, sự hiểu biết của cán bộ quản lý, giảng viên nói riêng và của xã hội nói chung về kiểm định còn rất hạn chế; nhiều người đang hiểu về vấn đề này theo nhiều cách khác nhau.

Hiện nay, Bộ GD&ĐT đang triển khai kiểm định chất lượng giáo dục theo mô hình được nhiều nước trên thế giới sử dụng, đặc biệt là mô hình kiểm định của Hoa Kỳ: đó là quá trình đánh giá bởi một tổ chức không thuộc các cơ sở giáo dục để công nhận các cơ sở giáo dục và chương trình giáo dục đạt tiêu chuẩn chất lượng. Trong thời gian qua, Bộ GD&ĐT đã triển khai công tác đảm bảo chất lượng [theo nghĩa rộng], kiểm định chất lượng [theo nghĩa hẹp] và đã được một số kết quả dưới đây.

1. Xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.

Xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là cách tiếp cận nhằm nhanh chóng định hình và khẳng định vị trí của công tác này trong hệ thống giáo dục quốc dân. Nó đã giúp các nhà giáo, nhà quản lý và các đối tượng có liên quan nhanh chóng hiểu một cách thống nhất các khái niệm, nội dung, quy trình, công cụ đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục.

Các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn là những công cụ để triển khai công tác kiểm định chất lượng đã được ban hành dưới đây:

1.1 Nhà nước ban hành 2 văn bản quan trọng:

Luật Giáo dục 2005 [Điều 17, 58, 99]

Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục [Chương II, Điều 38-40];

1.2. Bộ GD&ĐT ban hành 2 văn bản quy phạm pháp luật trong các năm 2004-2006:

Quyết định 38/2004/QĐ-BGD&ĐT ngày 02/12/2004 ban hành quy định tạm thời về kiểm định chất lượng các trường đại học.

Quyết định 27/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 27/06/2006 ban hành quy định tạm thời các trường đại học về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định tạm thời về kiểm định chất lượng trường đại học ban hành kèm theo Quyết định số 38/2004/QĐ-BGD&ĐT ngày 02/12/2004 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

1.3 Trong các năm 2007-2008, Bộ GD&ĐT ban hành 9 văn bản quy phạm pháp luật, trong đó:

Quyết định 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01/11/2007 ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường đại học.

Quyết định 66/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01/11/2007 ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường cao đẳng.

Quyết định 67/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01/11/2007 ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường trung cấp chuyên nghiệp.

Quyết định 72/2007/QĐ-BGDĐT ngày 30/11/2007 ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình Giáo dục Tiểu học trình độ cao đẳng.

Quyết định 76/2007/QĐ-BGDĐT ngày 12/12/2007 ban hành quy định về Quy trình và chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp.

Quyết định 03/2008/QĐ-BGDĐT ngày 04/02/2008 ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo giáo viên trung học phổ thông trình độ đại học.

Quyết định 04/2008/QĐ-BGDĐT ngày 4/02/2008 ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường tiểu học.

Quyết định 29/2008/QĐ-BGDĐT ngày 5/6/2008 ban hành quy định chu kỳ và kiểm định chất lượng chương trình giáo dục của các trường đại hoc, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp.

Chỉ thị của Bộ trưởng số 46/2008/CT-BGDĐT ngày 5/8/2008 về việc tăng cường công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục.

1.4 Cục Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục ban hành các văn bản hướng dẫn:

Hướng dẫn tự đánh giá cho các trường ĐH, CĐ, THCN.

Hướng dẫn sử dụng tiêu chí đánh giá chất lượng trường đại học.

Hướng dẫn tìm minh chứng cho bộ tiêu chí đánh giá chất lượng trường CĐ

Hướng dẫn tìm minh chứng cho bộ tiêu chí đánh giá chất lượng trường TCCN.

Các văn bản trên là những công cụ pháp lý quan trọng để triển khai kiểm định chất lượng giáo dục ở Việt Nam.

2. Xây dựng mô hình đảm bảo chất lượng giáo dục ở Việt Nam

Mô hình đảm bảo chất lượng giáo dục ở Việt Nam chịu ảnh hưởng của nhiều nước trên thế giới có kinh nghiệm triển khai các hoạt động nay. Trước hết, nó chịu ảnh hưởng của mô hình đảm bảo chất lượng của Hoa Kỳ và các nước Bắc Mỹ; chịu ảnh hưởng của các mô hình đảm bảo chất lượng của các nước Châu Âu là những nước đi trước Việt Nam trong khá nhiều năm để triển khai xây dựng mô hình đảm bảo chất lượng giáo dục; đặc biệt chịu ảnh hưởng của các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do có nhiều nét tương đồng trong văn hóa nên dễ chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm thực tiễn. Những ảnh hưởng của các nước khác đến mô hình đảm bảo chất lượng của Việt nam chủ yếu thông qua sự hỗ trợ hợp tác song phương và sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Ngân hành thế giới. Mạng lưới chất lượng Châu Á - Thái Bình Dương [APQN], SEAMEO và của một số nước như Hoa Kỳ, Australia, Hà Lan.

Trong quá trình tiếp cận với nhiều mô hình đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục trên thế giới, mô hình đảm bảo chất lượng giáo dục ở Việt Nam đang từng bước được hình thành, phù hợp với mô hình đảm bảo chất lượng của nhiều nước trên thế giới, nhất là mô hình của Châu Âu, Châu Á - Thái Bình Dương, AUN, những mô hình được tiếp tục phát triển trên mô hình chung của Châu Âu. Mô hình đảm bảo chất lượng giáo dục của Việt Nam có 3 cấu phần sau:

- Hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của nhà trường.

- Hệ thống đảm bảo chất lượng bên ngoài nhà trường [hệ thống đánh giá ngoài bao gồm các chủ trương, quy trình và công cụ đánh giá]

- Hệ thống các tổ chức đảm bảo chất lượng [các tổ chức đánh giá ngoài và các tổ chức kiểm định độc lập].

Nội dung dưới đây được trình bày theo 3 cấu phần trên.

2.1 Triển khai xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong các cơ sở giáo dục; cải tiến chất lượng và xây dựng văn hóa chất lượng.

Hiện nay đã có 110 trường đại học có trung tâm và đơn vị chuyên trách về ĐBCL đã được thành lập, trong đó có 5 trung tâm do chính phủ Hà Lan hỗ trợ thành lập và triển khai hoạt động trong 3 năm qua.

Các hoạt động đánh giá chất lượng giảng dạy, đánh giá chương trình, kiểm toán nội bộ đang được triển khai thực hiện và mở rộng quy mô áp dụng.

Hai Đại học Quốc gia [ĐHQG] và một số trường đại học khác đang phấn đấu đạt các chuẩn quốc tế và đăng ký kiểm định với các tổ chức kiểm định của nước ngoài [ví dụ 2 ĐHQG phấn đấu đạt Nhãn hiệu đảm bảo chất lượng bên trong của AUN, Đại học Đà Nẵng đang có các chương trình phấn đấu đạt chuẩn của ABET, Hoa Kỳ.]

Công tác tự đánh giá được chú trọng trong thời gian qua như một công cụ để cải tiến chất lượng. 133 trường đại học [hơn 85%] và 178 trường cao đẳng [hơn 90%] đang triển khai tự đánh giá. Đến cuối tháng 5/2009 các trường này phải hoàn thành báo cáo tự đánh giá, 154 chương trình đào tạo giáo viên trung học phổ thông cũng đang triển khai tự đánh giá và hoàn thành vào trước tháng 8/2009, 35 trường trung cấp chuyên nghiệp trung ương cũng đang triển khai tự đánh giá.

2.2 Triển khai các hoạt động đánh giá ngoài.

20 trường đại học và 4 chương trình đào tạo giáo viên tiểu học trình độ cao đẳng đã được đánh giá ngoài. Trong số các trường đại học đó có 12 trường do tổ chức HBO raad Hà Lan đánh giá và 8 trường do tổ chức EST và CQAIE Hoa kỳ cùng các chuyên gia Việt Nam đánh giá. Các trường đại học này đã được hội đồng quốc gia kiểm định chất lượng giáo dục thẩm định và đề nghị Bộ trưởng công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng. Hiện nay, 20 trường đại học khác cũng đang được đánh giá ngoài đến tháng 7/2009. Theo kế hoạch của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đến hết năm 2010 sẽ có 80% số trường đại học được đánh giá ngoài.

2.3 Chuẩn bị cho việc hình thành hệ thống các tổ chức kiểm định độc lập để triển khai các hoạt động đánh giá khách quan.

Bộ GD&ĐT đang khẩn trương hoàn thiện văn bản Quy định về điều kiện thành lập chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổ kiểm định chất lượng giáo dục độc lập để có thể sớm thành lập các cơ quan kiểm định độc lập.

Bộ GD&ĐT chủ trương xây dựng và củng cố hệ thống các đơn vị làm công tác đánh giá tại các đại học, học viện, trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, sở giáo dục và đào tạo; đẩy nhanh tiến độ thành lập các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục độc lập.

3. Tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác kiểm định chất lượng giáo dục.

Việt nam phối hợp với cơ quan giáo dục đại học chuyên ngành [HBO raad] của Hà Lan triển khai Dự án "Thành lập 5 trung tâm đảm bảo chất lượng cho 5 trường ĐH và tăng cường năng lực ở cấp hệ thống" 2005-2008. Các đơn vị tham gia Dự án  là Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng, Trường Đại học Cần Thơ, Cục KT&KĐCLGD, 5 trung tâm đảm bảo chất lượng đã được thành lập và đi vào hoạt động.

Bộ GD&ĐT đã tổ chức các đợt tập huấn về đánh giá ngoài với sự tham gia của các chuyên gia quốc tế [đợt tập huấn tháng 2/2006 do chuyên gia Australia và Indonesia thực hiện; đợt tập huấn tháng 8/2006 do 2 chuyên gia Hà Lan thực hiện; đợt tập huấn tháng 4/2007 do một chuyên gia Hoa Kỳ thực hiện].

Cục KT&KĐCLGD đã đăng ký làm thành viên của mạng lưới chất lượng Châu Á - Thái Bình Dương[APQN]. Trong 4 năm gần đây APQN đã hỗ trợ cho 16 lượt cán bộ trong nước đi dự các đợt tập huấn, hội thảo tại các nước trong khu vực nhằm chuần bị lực lượng cho các hoạt động đánh giá và kiểm định ở Việt Nam. 4 trung tâm đảm bảo chất lượng của 4 trường đại học là thành viên của APQN.

Cục KT&KĐCLGD đang đăng ký làm thành viên của mạng lưới quốc tế các tổ chức đảm bảo chất lượng giáo dục đại học [INQAAHE].

Hiện nay đã bắt đầu có những hợp tác với Australia trong việc tìm các ứng viên đăng ký nhận học bổng của Australia để tăng cường đội ngũ chuyên gia về kiểm định.

4. Đảm bảo chất lượng trong đào tạo giáo viên.

4.1 Thực trạng về đội ngũ giáo viên:

Tính đến tháng 5/2005 cả nước có 979000 nhà giáo, trong đó có 47646 giảng viên đại học và cao đẳng. Tỷ lệ sinh viên ĐH, CĐ/giảng viên là 28, quá cao so với các nước khác

Các số liệu thống kê cho thấy đội ngũ này chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục, đặc biệt là trong các trường ĐH, CĐ.

4.2 Hệ thống đào tạo giáo viên

Hầu hết giáo viên tiểu học được đào tạo trong các trường TCSP, giáo viên THCS trong các trường CĐSP, GVTHPT, TCCN, CĐ, ĐH được đào tạo trong các trường ĐH. Hiện nay một số trường CĐ bắt đầu đào tạo GVTH và một số trường ĐH bắt đầu đào tạo GVTH, GVTHCS trình độ ĐH.

Các trường ĐH,CĐ chủ động đào tạo giảng viên theo hướng tuyển chọn các sinh viện tốt nghiệp loại khá giỏi, có phẩm chất tốt để tiếp tục đào tạo về chuyên môn và nghiệp vụ sự phạm. Dành các học bổng của Chính phủ hoặc học bổng hợp tác song phương với các nước khác cho việc đào tạo giảng viên ĐH, CĐ.

Một số nghiên cứu chỉ ra rằng chất lượng đào tạo giáo viên các cấp chưa đáp ứng yêu cầu sử dụng.

4.3 Đảm bảo và kiểm định chất lượng đào tạo giáo viên.

Trước thực trạng đội ngũ giáo viên các cấp và chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo, một mặt triển khai đối mới mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục, tiếp tục đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, giảng viên, tăng cường cơ sở vật chất, mặt khác đẩy mạnh công tác đánh giá và kiểm định chất lượng các cấp nhằm nhanh chóng tạo bước chuyển biến lớn về chất lượng giáo dục, nói chung và chương trình đào tạo giáo viên các cấp nói riêng.

Dự án phát triển giáo viên tiểu học [đã kết thúc], Dự án đào tạo giáo viên trung học cơ sở [đã kết thúc] đã có những đóng góp cho việc đảm bảo và kiểm định chất lượng đào tạo giáo viên tiểu học và trung học cơ sở. Dự án phát triển giáo viên THPT&TCCN đang hỗ trợ để triển khai công tác kiểm định chương trình đào tạo giáo viên THPT&TCCN.

Kết luận

Việt Nam đang nỗ lực để nâng cao chất lượng giáo dục. Công tác đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục được xem như một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm phục vụ cho mục đích này. Công tác đảm bảo chất lượng giáo dục nói chung và kiểm định chất lượng của Việt Nam nói riêng đang được hình thành và phát triển ổn định, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới./

Trần Đình Thám [Theo TS Nguyễn An Ninh; TS Phạm Xuân Thanh

                                                                      Cục KT & KĐCLGD - Bộ GD&ĐT]

Video liên quan

Chủ Đề