Có gì là vô tận trong kiếp sống vô thường năm 2024

“Cuộc sống vô thường”, đó là điều người ta hay nói. Đây cũng là một triết lý nhân sinh. “Vô thường” là khái niệm thường được dùng trong một số tôn giáo như Ấn giáo, Phật giáo, có nghĩa không có gì tồn tại mãi mãi, mọi thứ đều ở trong trạng thái thay đổi liên tục, kể cả sự chết cũng là một thay đổi. Lăng kính Ki-tô giáo cũng nhìn nhận sự bất toàn mong manh của kiếp người, đồng thời tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Thường Hằng Bất Biến, tức là Đấng không thay đổi, Đấng vĩnh cửu quyền năng, ngàn đời vẫn thế. Tác giả Thánh vịnh diễn tả: “Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi, tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng không biết mình.” [Tv 103, 16-17]. Đó cũng là diễn giải khái niệm “vô thường” theo một cách khác.

Nếu cuộc sống trần gian là vô thường, thì hạnh phúc thiên đàng lại là vĩnh cửu. Để đạt được Nước Trời, con người sống trên trần gian phải biết tận dụng những gì Chúa ban để nên hoàn thiện. Nhiều người dành cả đời mình để tranh đấu hơn thua, để trả thù và rửa hận. Tuy vậy, trước khi báo thù được người khác, thì tâm hồn họ đã bị dày vò và mất bình an. Tác giả sách Huấn Ca [Bài đọc I] lên án oán hờn và giận dữ, đồng thời gọi chúng là “những điều ghê tởm”. Những ai tìm cách báo thù, sẽ chuốc lấy sự báo thù của Đức Chúa. Tác giả cũng khuyên chúng ta: “hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt hận thù, nhớ mình phải hao mòn và phải chết mà trung thành giữ các điều răn”.

Khi luôn tâm niệm “cuộc sống vô thường” chúng ta sẽ dễ dàng sống bao dung với tha nhân. Nghĩ đến có ngày mình phải chết, sẽ giúp chúng ta quảng đại khiêm nhường. Cuộc sống này ngắn lắm. Người ta chỉ sống một lần, không như con rắn khi già thì lột xác để rồi tiếp tục sống. Nếu mọi người đều suy nghĩ và ý thức về sự chóng qua của kiếp người, thì cuộc sống sẽ bớt tranh giành, bớt tham lam và bớt thù hận.

Một câu hỏi được đặt ra: lòng bao dung và tha thứ dựa trên tiêu chuẩn nào? Người Do Thái xưa kia có luật “mắt đền mắt, răng đền răng”. Người Việt chúng ta thường nói: “Ăn miếng trả miếng”. Giáo huấn của Chúa Giê-su lại mang một nội dung hoàn toàn khác: không phải chỉ tha bảy lần như câu hỏi của Phê-rô, mà là tha bảy mươi lần bảy. Khi đặt câu hỏi này, có lẽ Phê-rô đã liên tưởng đến lời Chúa nói với Ca-in sau khi ông này tỏ ra hối lỗi vì đã phạm tội giết em mình: “Bất cứ ai giết Ca-in sẽ bị trả thù gấp bảy” [St 4,15]. Sau đó là lời ông La-méc nói: “Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy” [St 4,24]. Chắc hẳn Chúa Giê-su không có ý nói với chúng ta bảy mươi nhân với bảy là 490 lần, mà là qua cách nói này, Chúa muốn dạy chúng ta tha thứ không giới hạn.

Như thế, theo giáo huấn của Chúa Giê-su, sự tha thứ không được đong đo bằng số lần, mà là tha thứ tất cả, tha thứ mãi mãi, tha thứ không phân biệt đối tượng. Tình yêu thương mà Chúa đề nghị, đó là yêu thương cả kẻ thù và cầu nguyện cho họ. Dụ ngôn người đầy tớ vừa là con nợ, rồi được ông chủ tha, và khi trở thành chủ nợ của một người bạn với một chút tiền bạc nho nhỏ, anh ta đã quên ơn huệ mình vừa lãnh nhận, mà nỡ tâm bỏ tù người bạn của mình. Vị tôn chủ đã kết án anh này là “tên độc ác”. Và, những ân huệ anh ta đã nhận được khi trước thì nay bị rút lại. Nếu anh ta đã cố tình tống người bạn vào tù, thì nay chính anh ta phải ngồi tù cho đến khi trả hết nợ. Điều này cũng có nghĩa anh ta phải ở tù suốt đời, vì món nợ mười ngàn yến vàng là quá lớn. Qua câu chuyện dụ ngôn này, Chúa Giê-su dạy chúng ta phải tha thứ cho nhau. Tha thứ là điều kiện để được thứ tha, như chúng ta vẫn hát trong Kinh Hoà Bình: Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ.

Người tin vào Chúa Giê-su thì sống hay chết đều thuộc về Người. Những lo lắng trần ai không làm họ nao núng, vì họ luôn nhận Chúa hiện diện trong đời. Thánh Phao-lô khuyên giáo dân Rô-ma như thế. Ki-tô hữu không còn sống cho bản thân, mà là sống cho Chúa, làm mọi việc để tôn vinh Chúa và để đẹp lòng Người. Đó là bí quyết của hạnh phúc và bình an. Đó cũng là phương pháp để xua đi những phiền não giận hờn và hơn thua tranh chấp.

Cuộc sống mong manh vô thường, như đoá hoa phù dung, sớm nở chiều tàn. Chỉ có Chúa là Đấng vĩnh cửu. Xin cho chúng ta luôn phó thác cậy dựa nơi Chúa, là “núi đá” và là ơn Cứu độ của chúng ta. Amen.

“Người đầu tiên biết nói lời xin lỗi là người dũng cảm nhất. Người đầu tiên biết cách tha thứ là người mạnh mẽ nhất. Và người đầu tiên biết cách quên đi quá khứ đau buồn là người hạnh phúc nhất” [Sưu tầm].

Mùa Hạ thường có những cơn giông bất chợt. Những tiếng sấm đùng đoàng và các tia chớp xé ngang trời. Không khí đang oi bức dịu lại cùng những hạt mưa ào ạt. Mưa mướt mát, xối xả. Những mái ngói trầm mình đầy nhẫn nại, chịu đựng và gánh gồng cả cơn mưa. Những lớp mái ngói ấy khiến tôi nhớ tới những mái chùa ngày xưa. Những mái chùa bền bỉ trải qua bao cơn nắng, cơn mưa, thầm lặng, đón nhận và bình thản.

Thế rồi, mưa ngớt, tạnh hẳn và nắng lại xiên xiên ngang qua khung cửa. Cái nắng sau mưa hiền hòa và yếu ớt, nhẹ nhàng, lặng lẽ. Chiều buông nhanh hơn trên nền trời diệu vợi. Lũ chim líu ríu gọi nhau về tổ, những chú sâu nhỏ cũng an tâm bò ra tìm chút trong lành cuối ngày trước khi mặt trời khuất bóng.

Ánh trăng dần lên. Tôi nhớ những mùa trăng ngày thơ bé. Những mùa trăng nghiêng chênh chếch rọi qua khe cửa sổ mỗi đêm. Ánh đèn dầu chênh chao chẳng thể nào bao dung hào sảng như ánh trăng ngày hè.

Tôi thích ngồi bên hiên chùa thật yên, có khi chẳng vì điều gì cả. Chú điệu ngày xưa là vậy, thường bó gối ngồi lặng yên mà chẳng màng đến sách kinh. Chú điệu ấy hay thích suy tư, đặc biệt là vào những buổi trăng tròn. Bầu trời của những đêm hè bao giờ cũng thăm thẳm cao vời, ánh trăng thì thật trong, thật đầy. Trăng chảy tràn trên mái ngói phủ rêu và những xác lá nằm im ắng nơi sân chùa. Trăng rơi thật hiền trên vai áo thầy tôi. Hình ảnh in sâu trong tâm trí tôi chính là một bức tranh đêm thật đẹp. Bức tranh có khói hương bảng lảng, có thầy, có ánh trăng, có cả những trang kinh và chén trà nhỏ tỏa hương yên lành, đơn sơ.

Những chú dế ẩn mình cất tiếng, những cây mộc, cây ngâu tỏa hương thoang thoảng ngọt lành. Bóng trăng treo trên nền trời cao rộng. Tối cứ nhớ mãi, thương mãi những bình yên dịu dàng ấm áp như thế. Tuổi ấu thơ và những tiếng mõ vang vang trong đêm u tịch, thầy tôi và khoảng sân chùa phủ rêu dưới bóng trăng loang.

Ánh trăng và những nắng mưa cứ thế nối tiếp nhau làm nên ngày tháng, làm nên tuổi thơ tôi và làm ra cả những đổi thay tiếp nối vô tận trong cõi nhân sinh. Tạo vật vốn dĩ nương vào nhau mà sinh khởi, tiếp nối.

Người ta thường nói, sự sống và cái chết gần trong gang tấc. Chúng chỉ có một ranh giới mỏng manh ở một hơi thở vào ra. Hơi thở vào rồi dừng lại hay hơi thở ra xong rồi dừng lại là cả một kiếp người cũng khép lại. Thế nên, nhắc tới vô thường, người ta thường cảm thấy bất an là vậy. Nhưng nếu đứng từ một góc khác để nhìn lại, vô thường mới chính là một màu nhiệm của sự sống.

Giống như những cơn mưa rào mùa hạ sau cái nắng chói chang oi ả, mưa rồi tạnh. Đất trời sau một cơn giông gió ào ạt xối xả mưa ấy lại mát lành, trong sạch hơn. Cỏ cây mướt mát bừng dậy sau mưa. Không có vô thường, làm sao có thể trải qua những mưa và nắng, những ngày và đêm, những đổi thay nối tiếp nhau như thế?

Giáo lý Phật đà thường nhắc tới hai chữ “vô ngã” và “vô thường”.

Vô ngã có nghĩa là không có ai, không có cái gì có thể tồn tại biệt lập. Vạn vật trong vũ trụ này vốn dĩ do nhân duyên nương vào nhau mà biểu hiện hay ẩn tàng. Giống như hơi nước nhờ có ánh mặt trời mà làm thành mưa, mưa xuống tạo nên sông suối ao hồ, tạo nên cả những cánh hoa rực rỡ trong nắng, những chén trà tỏa hương thơm ngát. Mưa ấy, nắng ấy đi vào đất, vào cây tạo ra quả chín ngọt lành và rồi quả ấy lại dưỡng nuôi vạn vật, nuôi đất, nuôi cây. Không có một điều gì có thể tồn tại riêng biệt mà không nhờ vào những nhân duyên đắp đổi. Không có người con nào sinh ra mà không tiếp nối những màu tóc, nước da hay hạt giống từ trong tàng thức của tổ tiên, cha mẹ, của giống nòi và dân tộc mình.

Và vô thường lại cũng không ở ngoài cái thấy về vô ngã. Chính bởi có vô thường nên mới có sự tiếp nối, sinh khởi. Con người nhờ có vô thường mà lớn lên, lấy vợ lấy chồng và sinh con đẻ cái. Cây cối nhờ vô thường mà đơm hoa kết quả, đến cuối của một chu kỳ lại thành hạt và rồi trở về với đất, làm thành dưỡng chất nuôi đất, nuôi cây.

Nếu không có vô thường, làm sao người ta thấy được một đứa trẻ rồi sẽ lớn lên? Đứa trẻ ấy rồi sẽ đi vào cuộc đời, sẽ biết yêu thương, biết buồn vui và biết vun đắp, dựng xây cho cuộc đời của chúng tự an vui?! Đứa trẻ bởi có vô thường mà không mãi còn là đứa trẻ. Cũng như trong cuộc sống, bởi có vô thường mà nỗi buồn hôm nay có thể ngày mai sẽ chuyển hóa thành bản lĩnh, thành hiểu biết, thành yêu thương.

Niềm vui là vô thường và nỗi buồn cũng vậy. Vô thường chính là điều màu nhiệm trong cuộc đời, để con người được sinh ra, lớn lên, được sống, được trưởng thành và được già đi, được yên nghỉ sau khi đi hết một kiếp người.

Vô thường là để ta ý thức về cuộc sống hiện tại một cách sâu sắc hơn chứ không phải chỉ để bất an, lo sợ.

Phép lạ là đi trên mặt đất. Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng chia sẻ điều này từ những ngày Ngài còn khỏe mạnh. Chúng ta cũng vậy. Không phải đợi đến khi nằm trên giường bệnh hay không thể đi bằng đôi chân của mình mới nhận ra điều đó. Ý thức về vô thường là ý thức về những điều màu nhiệm đang có mặt xung quanh mình. Nụ cười của những người thân, bạn bè, một ngọn gió mát, một ánh mặt trời, một nụ hoa thơm hay một đêm trăng sáng, v.v.. Tất thảy tạo vật có mặt đều chính là những vị Phật, những vị Bồ Tát đang cho mình hiểu thế nào là vô thường hay vô ngã. Một đóa hoa tàn, một ngày khép lại, một em bé mới sinh…

Hiểu vô thường để biết ơn vô thường. Hiểu vô ngã để biết trân quý và hết lòng với cuộc sống. Mình biết rằng mình vui thì không gian quanh mình dễ thương hơn. Mình có bình an và hạnh phúc thì cha mẹ, anh chị em bè bạn mình cũng cảm thấy bình an và có niềm vui khi nghĩ tới mình vậy. Mình không thể lấy mình ra khỏi cuộc đời của người thương mình và người mình thương là bởi vậy.

Thế nên, có mặt cho nhau không phải là ở gần sát bên nhau mà là ý thức sâu sắc về sự tương tức. Chúng ta là nhau. Chúng ta phải trân quý bản thân mình cũng như trân quý người thương, trân quý sự sống.

Mùa Hạ, mùa Bụt sinh. Nhắc vô thường để nhớ giữ một tâm thế an ổn với cái thấy thường hằng như sự vật đang là, không bị mắc vào những ảo tưởng “của ta, là ta”, “của người” hay “là người”. Trong ta, cũng như trong người và trong muôn vật đều có “Phật tính”, giác tính. Vậy thì những vụng về của ngày hôm nay, những khổ đau hay phiền muộn của hôm nay vốn không phải là “ta”, cũng không phải là “người”.

Chỉ là, cần phải trải qua, phải chứng nghiệm mọi cảm thọ và tâm hành trong đời để học hiểu bài học về vô ngã và vô thường, để học bài học về tình thương và thắp sáng “giác tính” vốn sẵn có trong mỗi người.

Những lớp sóng trên đại dương của sinh khởi, chúng xô nhau vào bờ rồi tan ra. Nhưng biển và sóng không phải là hai thực thể biệt lập. Những con sóng ấy dù có biểu hiện cách nào thì tính nước của nó và đại dương không thay đổi.

Cũng như ánh trăng và những nắng mưa cứ thế nối tiếp nhau làm nên ngày tháng, làm nên tuổi thơ tôi và làm ra cả những đổi thay tiếp nối vô tận trong cõi nhân sinh. Tạo vật vốn dĩ nương vào nhau mà sinh khởi, tiếp nối.

Nên chăng, con người chỉ cần sống bằng tất cả nhiệt huyết và lòng yêu thương, chỉ cần trân quý cuộc đời. Như lời thiền sư Nhất Hạnh từng nói trong bài thơ Bướm bay vườn cải hoa vàng ngày nào: “Hãy thôi là nguồn khổ đau cho nhau”

Chủ Đề