Chu trình quản lý ngân sách nhà nước là gì

Câu 1: chu trình ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước [NSNN] là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm
vụ của Nhà nước.
Năm ngân sách hay còn gọi là năm tài chính, là giai đoạn mà trong đó dự toán thu – chi tài chính của Nhà nước
đã được phê chuẩn có hiệu lực thi hành.
Để có dự toán ngân sách nhà nước cho năm ngân sách phải có khâu lập dự toán ngân sách nhà nước – lập ngân
sách nhà nước và nó thực hiện trước khi năm ngân sách bắt đầu. Ở nước ta, thời gian lập dự toán ngân sách nhà
nước ở cơ sở là từ tháng 6. Bộ Tài chính tổng hợp trình chính phủ trong tháng 10 và Quốc hội quyết định dự
toán ngân sách nhà nước trước ngày 30 – 11 năm trước. Then chốt của một chu trình ngân sách là khâu chấp
hành ngân sách của chu trình đó mà thời gian chấp hành ngân sách trùng với năm ngân sách. Sau khi năm ngân
sách kết thúc, phải đánh giá tình hình chấp hành ngân sách, đó là khâu quyết toán ngân sách nhà nước.
Tóm lại, một chu trình ngân sách nhà nước có ba khâu nối tiếp nhau là: lập ngân sách, chấp hành ngân sách và
quyết toán ngân sách nhà nước. Trong một năm ngân sách, đồng thời có cả ba khâu: chấp hành ngân sách của
chu trình hiện tại, quyết toán ngân sách của chu trình trước và lập ngân sách của chu trình sau:
2.Nội dung chủ yếu của chu trình Ngân sách nhà nước
2.1. Lập ngân sách nhà nước
Hình thành ngân sách là quá trình bao gồm các công việc lập ngân sách, phê chuẩn ngân sách và thông báo
ngân sách.
Trong chu trình ngân sách, lập ngân sách là công việc khởi đầu có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ các khâu của
chu trình quản lý ngân sách. Lập Ngân sách thực chất là dự toán các khoản thu – chi đúng đắn, có cơ sở khoa
học, cơ sở thực tiễn sẽ có tác dụng quan trọng đối với kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội nói chung và thực hiện
ngân sách nói riêng.
Vì vậy, để phát huy vai trò tích cực của kế hoạch ngân sách, trong thực tiễn, khi lập ngân sách phải đáp ứng các
yêu cầu nhất định và dựa vào những căn cứ nhất định với những phương pháp và trình tự có tính khoa học và
thực tiễn.
· Yêu cầu lập NSNN:
- Bảo đảm việc xây dựng dự toán thu chi NSNN dựa trên hệ thống chế độ, chính sách và tiêu chuẩn định
mức đúng đắn, phù hợp với thực tiễn kinh tế, xã hội đang vận động.
- Bảo đảm việc xây dựng dự toán thu chi ngân sách tiến hành đúng với trình tự và thời gian quy định.
- Bảo đảm mối quan hệ đúng đắn giữa kế hoạch hiện vật và kế hoạch giá trị thông qua việc thiết lập dự


toán thu chi của NSNN trong bối cảnh cung cầu, giá cả có sự biến động.
· Căn cứ lập NSNN:
Thực chất dự toán ngân sách là sự phản ánh nhu cầu động viên, phân phối và sử dụng nguồn vốn NSNN
nhằm đáp ứng một cách tích cực các dự án phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước.
Vì vậy, để dự toán ngân sách biến thành hiện thực, khi lập dự toán phải dựa vào những căn cứ sau đây:
- Lập dự toán ngân sách trước hết phải dựa vào phương hướng, chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng của Đảng và Nhà nước. Dựa vào căn cứ này, đảm bảo cho việc
lập dự toán NSNN xác định được mục tiêu và nhiệm vụ cần động viên khai thác nguồn thu của ngân
sách cũng như việc phân phối và sử dụng quỹ ngân sách có trọng tâm, trọng điểm, đảm bảo được
yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả.
- Lập dự toán ngân sách còn phải dựa vào các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của Nhà
nước trong niên độ kế hoạch.
- Lập dự toán ngân sách phải dựa vào hệ thống các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức thu – chi
của NSNN. Đây là căn cứ cụ thể đảm bảo việc lập dự toán có cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý.
- Ngoài ra, việc lập dự toán NSNN phải căn cứ vào kết quả phân tích thực hiện dự toán Ngân sách trong
thời gian qua. Đây là căn cứ quan trọng bổ sung những kinh nghiệm cần thiết cho việc lập dự toán
trong kỳ kế hoạch.
· Trình tự lập NSNN:
Lập ngân sách là công việc quan trọng, song việc hình thành ngân sách còn phải thực hiện xét duyệt, phê
chuẩn và thông báo ngân sách. Quá trình đó được thực hiện theo trình tự sau:
2.2. Chấp hành Ngân sách nhà nước
Sau khi ngân sách được phê chuẩn và năm ngân sách bắt đầu, việc thực hiên ngân sách được triển khai. Nội
dung của quá trình này là tổ chức thu NSNN và bố trí cấp kinh phí của NSNN cho các nhu cầu đã được phê
chuẩn. Việc chấp hành NSNN thuộc về tất cả pháp nhân và thể nhân dưới dự điều hành của Chính phủ, trong đó
Bộ Tài Chính có vị trí quan trọng.
· Tổ chức chấp hành dự toán thu:
Mục tiêu của chấp hành dự toán thu là trên cơ sở không ngừng bồi dưỡng phát triển nguồn thu, tìm mọi
biện pháp động viên khai thác, đảm bảo tỷ lệ động viên chung mà Quốc hội đã được phê chuẩn, đáp ứng nhu
cầu chi tiêu của Nhà nước đã được hoạch định trong dự toán chi.
Để đạt được mục tiêu đó, việc tổ chức chấp hành dự toán thu phải thực hiện đồng bộ các biện pháp sau

đây:
- Xác lập, hoàn thiện hệ thống chính sách, chế độ động viên thích hợp, vừa đảm bảo khuyến khích hoạt
động sản xuất kinh doanh, vừa đảm bảo mức động viên của Nhà nước.
- Nâng cao công tác tuyên truyền chính sách, chế độ thu làm cho mọi thành viên thấy rõ trách nhiệm của
mình trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy theo nguyên tắc thống nhất, nâng cao hiệu lực của bộ máy, đảm bảo gọn nhẹ,
hiệu quả cao.
- Đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý thu từ khâu lập kế hoạch, giao kế hoạch thu đến khâu tổ chức
công tác đôn đốc thu nộp, công tác kế hoạch kế toán thu.
- Tăng cường công tác bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ của cán bộ quản lý thu; đồng thời xử lý các mối
quan hệ giữa các cơ quan chức năng liên quan đến công tác thu nộp của NSNN.
· Tổ chức chấp hành dự toán chi:
Mục đích của việc chấp hành dự toán chi là đảm bảo đầy đủ, kịp thời nguồn kinh phí của ngân sách cho
hoạt động của bộ máy nhà nước và thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội đã được hoạch định trong năm kế
hoạch. Thực chất của việc chấp hành dự toán chi là tổ chức việc cấp phát kinh phí sao cho tiết kiệm và đạt hiệu
quả cao.
Để đạt được mục đích đó, trong việc chấp hành dự toán chi cần phải thực hiện các yêu cầu và nội dung
cơ bản sau đây:
- Thực hiện cấp, phát kinh phí trên cơ sở hệ thống các định mức, tiêu chuẩn. Nhằm đạt được yêu cầu
này, cần rà soát bổ sung những định mức mới, xóa bỏ những định mức lạc hậu, đảm bảo cho hệ
thống định mức, tiêu chuẩn có tính khoa học, tính thực tiễn cao.
- Bảo đảm việc cấp phát kinh phí theo kế hoạch được duyệt. Do đó, cần phải quy định lại chế độ lập và
duyệt kế hoạch cấp phát hàng quý vừa đơn giản, vừa khoa học đảm bảo cấp phát theo kế hoạch với
thứ tự ưu tiên được quy định bằng pháp luật. Đồng thời phải thực hiện nghiêm ngặt khoản dự trữ
kinh phí để xử lý khi có nhu cầu đột xuất hoặc mất cân đối giữa thu chi trong quá trình chấp hành.
- Triệt để thực hiện nguyên tắc thanh toán trực tiếp, nghĩa là, mọi khoản kinh phí cho trả từ ngân sách
phải do Kho bạc trực tiếp thanh toán. Nguyên tắc này phải được áp dụng cả trong lĩnh vực xây dựng
cơ bản có sử dụng vốn của NSNN
- Đổi mới phương thức cấp phát vốn của ngân sách nhà nước theo hướng nhanh, gọn, dễ kiểm tra.
- Đổi mới cơ chế cấp phát theo hướng giảm các kênh cấp phát, tập trung vào một ít đầu mối. Đặc biệt là

cải tiến cơ chế cấp phát vốn xây dựng cơ bản nhằm đảm bảo gọn nhẹ, dễ kiểm tra, nâng cao trách
nhiệm của các đơn vị làm nhiệm vụ vấp phát và đơn vị sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
· Xây dựng dự thu – chi quý, tháng
- Dự toán thu – chi quý, tháng thực chất là kế hoạch tiến độ thực hiện nhiệm vụ của dự toán thu – chi
năm. Dự toán thu – chi quý, tháng có ý nghĩa quan trọng trong việc chấp hành ngân sách. Thông qua
việc lập dự toán thu – chi quý, tháng có thể đánh giá được khả năng hoàn thành dự toán ngân sách
nhà nước, tìm ra được những mặt yếu kém, tồn tại để tìm biện pháp khắc phục.
- Yêu cầu xây dựng dự toán thu – chi quý, tháng có thể đánh giá được khả năng phát triển nguồn thu
quý, tháng trên cơ sở phân tích các hoạt động kinh tế, dự kiến khả năng hình thành các nguồn thu
mới, đồng thời xác định được tiến độ, phạm vi mức độ cần tiến hành cấp phát phạm vi vốn của ngân
sách nhà nước trong điều kiện khả năng thu còn bị hạn chế.
2.3. Quyết toán ngân sách nhà nước
Quyết toán ngân sách nhà nước là khâu cuối cùng trong chu trình quản lí NSNN. Thông qua quyết toán NSNN
có thể cho ta thấy bức tranh toàn cảnh về hoạt động kinh tế - xã hội của Nhà nước trong thời gian qua, hình
dung được hoạt động NSNN với tư cách là công cụ quản lí vĩ mô của Nhà nước. Từ đó rút ra những kinh nghiệp
cần thiết trong việc điều hành NSNN. Do đó, yêu cầu của quyết toán NSNN làm đảm bảo tính chính xác, trung
thực và kịp thời.
Để đáp ứng được các yêu cầu đó, cần tập trung cải tiến, hoàn thiện các công việc sau đây:
- Soát xét toàn bộ chế độ hiện hành về kế toán và quyết toán ngân sách, đảm bảo cho quyết toán nhanh
gọn, chính xác, trung thực.
- Đổi mới quá trình lập, báo cáo, phê chuẩn quyết toán và tổng quyết toán NSNN theo hướng tăng cường
trách nhiệm của các đơn vị, cơ quan, địa phương nâng cao vai trò của cơ quan tài chính, Chính phủ
và quyền lực của Quốc hội. Thực hiện việc quyết toán từ cơ sở lên. Gắn chặt giữa cơ quan chuẩn chi,
cơ quan cấp phát, cơ quan quản lí trong quá trình thực hiện và tổng quyết toán NSNN, đảm bảo cho
số quyết toán là số thực thu, thực chi theo đúng mục lục NSNN.
- Nâng cao vai trò của Quốc hội trong việc xem xét, phê chuẩn quyết toán và tổng quyết toán NSNN.
Để có một chu trình ngân sách hợp lí, phản ánh đầy đủ quá trình hoạt động của NSNN cần phải coi trọng
và không ngừng cải tiến các khâu trong chu trình đó nhằm làm cho hoạt động của NSNN ngày càng lành
mạnh.
Câu 2: Trong 3 giai đoạn của chu trình ngân sách, giai đoạn nào quan trọng nhất? Chứng minh?

Lập dự toán NSNN là quá trình xây dựng và quyết định dự toán thu, chi NS của NN trong thời hạn 1 năm.
Quá trình ngân sách bao gồm 3 khâu hay 3 giai đoạn chính: lập DTNSNN, chấp hành NSNN và quyết toán
NSNN.
 Lập DTNSNN là khâu đầu tiên và là giai đoạn khởi đầu trong 1 quá trình NS của mỗi quốc gia. đây là
khâu quan trọng của quá trình ngân sách, tạo tiền đề, cơ sở cho các khâu tiếp theo. Nếu việc lập
DTNSNN được tiến hành trên cơ sở có đầy đủ căn cứ khoa học và phù hợp với thực tiễn, bảo đảm đúng
tiến độ, thời gian quy định thì việc tổ chức thực hiện và quyết toán NSNN sẽ có chất lượng hơn. Ngược
lại nếu quá trình lập DTNSNN không được thực hiện tốt thì k những việc thực hiện NSNN thiếu minh
bạch, kém hiệu quả mà còn làm cho quá trình quyết toán NSNN gặp nhiều khó khăn, phức tạp.
 Trong quản lý NSNN, chấp hành NSNN là khâu tiếp theo khâu lập NSNN trong chu trình quản lý
NSNN [lập – chấp hành – quyết toán NSNN]. Chấp hành NSNN là quá trình sử dụng tổng hợp các biện
pháp về kinh tế - tài chính và hành chính nhằm biến các chỉ tiêu thu, chi đã được ghi trong kế hoạch [dự
toán NSNN] trở thành hiện thực; bao gồm việc tổ chức thu NSNN [theo dự toán năm và theo quy định
của các Luật Thuế] và tổ chức chi [phân bổ và giao dự toán; kiểm soát chi theo quy định của Luật]. Qua
đó, góp phần thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Như vậy, có thể nói chấp hành NSNN
là khâu quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định đến một chu trình quản lý NSNN.
Câu 3: Quy trình lập, phân bổ dự toán Thu - Chi NSNN
Bước 1: Ban hành hướng dẫn và thông báo số kiểm tra dự toán NS:
Hàng năm, để lập và phân bổ dự toán ngân sách cho năm sau, căn cứ vào Thông tư hướng dẫn xây dựng dự
toán và thông báo số kiểm tra của Bộ Tài chính, căn cứ Chỉ thị của Chủ tịch UBND tỉnh về xây dựng kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách của địa phương,
Phòng KHNS có nhiệm vụ:
- Xây dựng hướng dẫn lập dự toán thu NSNN, chi NSĐP và thông báo số kiểm tra cho các sở ban
ngành, đoàn thể cấp tỉnh và UBND các huyện, thành phố;
- Lấy ý kiến tham gia của các phòng chuyên quản đối với dự thảo văn bản hướng dẫn và số kiểm tra
[các phòng có ý kiến trong thời hạn 2 ngày];
- Hoàn chỉnh văn bản báo cáo Giám đốc Sở xem xét, ký ban hành trước ngày 1/7 hàng năm.
Bước 2: Lập dự toán và tổng hợp dự toán NSĐP:
- Phòng KHNS, các phòng chuyên quản trả lời những kiến nghị, thắc mắc đề xuất [nếu có] của các sở
ban ngành, các đơn vị, UBND các huyện, thành phố trong quá trình lập dự toán theo hướng dẫn của Sở Tài

chính
- Các sở ban ngành, đoàn thể, các đơn vị, UBND huyện, thành phố lập dự toán ngân sách của đơn vị,
cấp mình gửi về Sở Tài chính, Cục Thuế, Sở KHĐT [chậm nhất ngày 10/7 hàng năm].
- Phòng KHNS tổng hợp dự toán ngân sách địa phương theo mẫu biểu hướng dẫn của Bộ Tài chính.
- Sở Tài chính thống nhất với Cục Thuế, Sở KHĐT báo cáo Chủ tịch tỉnh, TT HĐND dự toán ngân
sách địa phương năm dự toán [trước ngày 20/7].
Bước 3: Thảo luận dự toán với Bộ Tài chính:
Theo thời gian thông báo của Bộ Tài chính, Sở Tài chính, Cục Thuế và UBND tỉnh thảo luận dự toán ngân
sách với Bộ Tài chính vào năm đầu của thời kỳ ổn định ngân sách [những năm tiếp theo, nếu tổ chức thảo luận
thì UBND tỉnh phải có đăng ký với Bộ Tài chính]. Riêng Sở KHĐT thảo luận kế hoạch đầu tư XDCB với Bộ
Kế hoạch và Đầu tư.
Bước 4: Phân bổ dự toán ngân sách địa phương [hoàn thành trước 25/10]:
Căn cứ dự toán các sở ban ngành, các đơn vị [đơn vị dự toán cấp 1], UBND huyện, thành phố; kết quả thảo
luận dự toán với Bộ Tài chính; căn cứ chế độ chi tiêu hiện hành, định mức chi do UBND tỉnh quyết định, Sở Tài
chính tổ chức thảo luận dự toán thu, chi ngân sách với các sở ban ngành, các đơn vị, UBND huyện, thành phố
theo phân công như sau:
- Phòng KHNS chủ trì phối hợp với Phòng Tài chính HCSN tiến hành thảo luận dự toán với các sở,
ban, ngành khối tỉnh theo kế hoạch thảo luận dự toán do Phòng KHNS xây dựng [thời gian, đơn vị tuỳ theo
từng năm trong chu kỳ ngân sách].
- Phòng KHNS tổ chức thảo luận dự toán chi ngân sách huyện, thành phố, đồng thời phối hợp với Cục
Thuế thảo luận dự toán thu ngân sách huyện, thành phố.
- Phòng QL NSX phối hợp với Phòng KHNS thảo luận dự toán thu, chi ngân sách xã, phường, thị trấn
với UBND, Phòng Tài chính kế hoạch huyện, thành phố, đồng thời phối hợp với Cục Thuế thảo luận dự toán
thu ngân sách huyện, thành phố.
- Phòng TCĐT phối hợp với Sở KHĐT rà soát biểu tổng hợp danh mục các công trình, dự án của tỉnh
do Sở KHĐT gửi và có ý kiến về danh mục, tiến độ và nguồn vốn XDCB dự kiến; tổng hợp dự toán chi đầu tư
phát triển sau đó gửi về Phòng KHNS để tổng hợp.
Bước 5: Tổng hợp dự toán ngân sách địa phương [hoàn thành trước ngày 31/10]:
- Phòng KHNS phối hợp với Cục Thuế, Sở KHĐT, các phòng chuyên quản tổng hợp kết quả thảo luận
dự toán, cân đối ngân sách tỉnh, huyện, xã báo cáo Giám đốc Sở theo mẫu biểu quy định của Bộ Tài chính, các

loại báo cáo theo yêu cầu của HĐND tỉnh, UBND tỉnh.
- Giám đốc Sở xem xét chuẩn bị báo cáo UBND tỉnh, Ban Kinh tế ngân sách và TT HĐND tỉnh.
- Phòng KHNS hoàn thiện phương án phân bổ dự toán theo yêu cầu của Giám đốc Sở.
Bước 6: Xem xét, báo cáo UBND tỉnh để trình Thường trực HĐND tỉnh [trước 15/11]:
Sở Tài chính, Cục Thuế, Sở KHĐT tổ chức báo cáo UBND tỉnh, Thường trực HĐND tỉnh [có sự tham gia
của Ban Kinh tế ngân sách của HĐND tỉnh] toàn bộ dự toán thu, chi ngân sách năm dự toán, thuyết minh căn cứ
lập và phân bổ dự toán.
Bước 7: Điều chỉnh phương án phân bổ dự toán ngân sách địa phương [trước 25/11]:
Căn cứ quyết định giao dự toán ngân sách của Bộ Tài chính, phòng KHNS trao đổi với các phòng chuyên
quản, tiếp nhận phương án thu ngân sách của Cục Thuế, tổng hợp, điều chỉnh phương án phân bổ dự toán [Nếu
số liệu giao dự toán thu, chi ngân sách do Bộ Tài chính giao chưa thống nhất với phương án phân bổ của địa
phương] và báo cáo Giám đốc Sở để báo cáo UBND tỉnh.
UBND tỉnh xem xét và trình HĐND tỉnh thông qua dự toán ngân sách cho năm sau tại kỳ họp HĐND cuối
năm.
Trong quá trình xem xét của UBND tỉnh hay HĐND tỉnh, Phòng KHNS là đầu mối xử lý, thuyết minh các
nội dung theo yêu cầu của cấp có thẩm quyền.
Bước 8: Chuẩn bị các biểu mẫu giao dự toán:
- Căn cứ vào Nghị quyết của HĐND và quyết định của UBND, phòng KHNS chuẩn bị các biểu mẫu
giao dự toán theo quy định gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư.
- Sở KHĐT chuẩn bị các biểu mẫu giao dự toán XDCB và tổng hợp chung trình UBND tỉnh.
Bước 9: Công khai dự toán [chậm nhất sau 60 ngày HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết về dự toán ngân
sách]:
Sau khi UBND tỉnh quyết định giao dự toán thu, chi NSNN của tỉnh, Phòng KHNS xây dựng biểu mẫu công
khai dự toán theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, báo cáo Giám đốc Sở trình UBND tỉnh quyết định công khai dự
toán ngân sách tỉnh.
Phòng KHNS phối hợp với các phòng chuyên quản đôn đốc các sở ban ngành, đoàn thể, các đơn vị, UBND
các huyện, thành phố tổ chức công khai dự toán theo quy định. Đồng thời tổng hợp kết quả công khai dự toán
báo cáo UBND, HĐND tỉnh và Bộ Tài chính.
Bước 10: Lưu hồ sơ
Phòng KHNS và các phòng chuyên quản thực hiện lưu hồ sơ theo quy định ở mục 6 của quy trình này.

CHẤP HÀNH NGÂN SÁCH: THÁCH THỨC
VÀ ĐỊNH HƯỚNG CẢI CÁCH
1.1. Đánh giá chung
- Luật NSNN năm 2002 đã tiếp tục củng cố và nâng cao vị trí, vai trò của công tác tài chính – ngân sách,
góp phần ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết tốt hơn các vấn đề an
sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo; đảm bảo nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đối ngoại và xử lý các vấn đề cấp
bách như thiên tai, dịch bệnh. Cụ thể:
+ Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn Luật đã tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ và thống nhất trong
việc quản lý NSNN, đảm bảo quản lý NSNN chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả và thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển;
tiềm lực tài chính quốc gia và quy mô NSNN ngày càng được nâng cao qua các năm.
+ Cơ cấu chi NSNN tiếp tục duy trì mức độ hợp lý cho đầu tư phát triển, khuyến khích và tạo môi
trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh; vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của NSNN ngày càng hiệu quả, góp
phần quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển và thực hiện các chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm
nghèo [tốc độ tăng chi đầu tư phát triển bình quân trên 16,2%/năm, chiếm trên 20% tổng mức chi đầu tư toàn xã
hội; NSNN cũng đã tập trung mạnh cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực, trong đó chi giáo dục đào tạo, dạy
nghề chiếm 20%; NSNN đã dành một nguồn lực quan trọng để thực hiện cải cách tiền lương và hướng vào thực
hiện các mục tiêu an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo,…].
- Cân đối NSNN tích cực, vững chắc theo nguyên tắc vay bù đắp bội chi NSNN chỉ được sử dụng cho
đầu tư phát triển, không sử dụng cho tiêu dùng. Dư nợ quốc gia, dư nợ công ở mức hợp lý; nghĩa vụ trả nợ được
thực hiện đầy đủ, đúng hạn theo cam kết.
- Đảm bảo chủ động trong quản lý, điều hành NSNN; NSTW và ngân sách các cấp chính quyền địa
phương đã bố trí sử dụng dự phòng ngân sách và tăng dự trữ tài chính giải quyết tốt các vấn đề đột xuất phát
sinh.
- Trong quản lý, điều hành NSNN đã tạo được sự chuyển biến quan trọng và ngày càng chủ động hơn,
hiệu quả hơn; công tác cải cách thủ tục hành chính trong điều hành ngân sách và thực hiện công khai ngân sách
cũng được đẩy mạnh, cụ thể:
+ Đảm bảo vai trò, quyền hạn của Quốc hội, tăng thực quyền và tính chủ động của HĐND các cấp trong
việc quyết định dự toán ngân sách, phân bổ ngân sách và quyết toán ngân sách. Đảm bảo sự chỉ đạo điều hành
thống nhất NSNN trong phạm vi cả nước; đồng thời, tạo điều kiện cho các địa phương trong việc phát triển kinh
tế - xã hội, thực hiện các nhiệm vụ quan trọng trong từng thời kỳ.

+ Phân cấp quản lý NSNN tiếp tục đảm bảo được vai trò chủ đạo của NSTW để thực hiện các nhiệm vụ
quan trọng của đất nước; việc trao quyền chủ động cho các địa phương trong việc quyết định phân cấp nguồn
thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp chính quyền địa phương đã nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp chính
quyền trong việc quản lý, khai thác nguồn thu, sử dụng ngân sách một cách tiết kiệm và có hiệu quả.
+ Quy định rõ trách nhiệm và nâng cao quyền chủ động của các Bộ, ngành, địa phương, đơn vị sử dụng
NSNN theo nguyên tắc: mỗi đơn vị, tổ chức có quyền hạn, nhiệm vụ khác nhau theo chức năng, không chồng
chéo; tạo cơ sở cho sự phối hợp chặt chẽ trong quản lý NSNN.
+ Quy trình, phương thức, thủ tục hành chính trong lập, chấp hành, quyết toán NSNN đã được cải tiến,
giảm thiểu các thủ tục hành chính và các công việc sự vụ không cần thiết, tiết kiệm thời gian và chi phí xã hội.
+ Công tác quản lý, kiểm soát NSNN; thanh tra, kiểm toán được tăng cường và chú trọng
+ Công khai NSNN đã từng bước đi vào nề nếp và phát huy tác dụng.
1.2. Một số kết quả cụ thể trong chấp hành NSNN
a. Về phân bổ và giao dự toán NSNN
- Trên cơ sở dự toán được Thủ tướng Chính phủ, UBND các cấp giao, các cơ quan nhà nước ở trung
ương và địa phương đã tiến hành phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị trực thuộc trước ngày 31/12 năm trước
[trừ trường hợp đặc biệt theo quy định của Luật]; Luật NSNN cũng đã quy định chuyển từ việc cấp phát ngân
sách theo hạn mức kinh phí sang cấp phát theo dự toán, chuyển từ việc giao dự toán chi tiết theo từng mục sang
giao dự toán theo nhóm mục,… Qua đó, đã cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong khấu chấp hành NSNN,
tiết kiệm thời gian và công sức cho các đơn vị chủ quản; đồng thời, các đơn vị chi tiêu cũng sớm được phân bổ
và giao dự toán để chủ động chi tiêu ngay từ những ngày đầu năm ngân sách. Ngoài ra, điều này cũng tạo thuận
tiện, đơn giản thủ tục hành chính cho cả KBNN và đơn vị dự toán trong quá trình kiểm soát chi NSNN, song
vẫn đảm bảo kiểm soát chặt chẽ các khoản chi tiêu NSNN theo chế độ quy định.
- Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn Luật về điều chỉnh dự toán và tạm cấp kinh phí đã tạo sự chủ
động, linh hoạt cho các đơn vị trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ, đảm bảo bố trí kinh phí phù hợp
với nhu cầu thực tế và tiến độ triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao; đồng thời, đảm bảo có đủ kinh
phí cho các đơn vị hoạt động ngay từ những ngày đầu năm, đặc biệt là các nhu cầu chi an sinh xã hội [lương,
phụ cấp lương,…] và các nhu cầu chi cần thiết cấp bách khác khi chưa được cấp có thẩm quyền phân bổ và giao
dự toán NSNN.
b. Về tổ chức thu và phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi NSNN
- Luật NSNN cũng đã phân định rõ hơn quyền hạn và nhiệm vụ của các đơn vị, cá nhân trong công tác

hành thu NSNN; thông qua đó, tạo ra sự phối hợp, kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan quản lý và đối
tượng nộp NSNN. Từ đó, một mặt nâng cao được uy tín và hiệu lực của các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt
là cơ quan thu; mặt khác, nhân dân và các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng có thể dễ dàng kiểm tra giám sát đối
với cơ quan thu và KBNN, giúp cho công tác hành thu NSNN ngày càng được công khai và minh bạch.
- Với quy định các khoản thu NSNN phải được nộp trực tiếp vào KBNN [trừ một số khoản thu phí, lệ
phí, thu thuế đối với các hộ kinh doanh không cố định thì cơ quan thu có thể trực tiếp thu] đã giúp cho việc
tập trung nhanh, đầy đủ, kịp thời các khoản thu vào NSNN.
- Luật NSNN [năm 2002] chỉ quy định phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa NSTW với NSĐP và giao
HĐND tỉnh quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp chính quyền địa phương; đồng thời,
cũng quy định khoản thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hàng hóa – dịch vụ trong nước và phí xăng dầu là khoản thu
phân chia giữa NSTW và NSĐP. Vì vậy, đã trao quyền chủ động cho các địa phương trong việc quyết định phân
cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương; đồng thời, nó cũng khuyến
khích các địa phương tăng cường công tác quản lý tài chính – ngân sách, phấn đấu tăng thu ngân sách, sử dụng
ngân sách tiết kiệm, hiệu quả, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc
phòng của từng địa phương và của cả nước.
c. Về kiểm soát và điều hành NSNN
- Về kiểm soát chi của KBNN: Thực hiện Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn dưới Luật, hệ thống
KBNN trực thuộc Bộ Tài chính đã thực hiện nhiệm vụ kiểm soát chi thường xuyên và chi đầu tư XDCB thuộc
NSNN với khối lượng lên tới hàng trăm ngàn tỷ đồng mỗi năm. Qua kiểm soát chi NSNN, KBNN đã ngăn chặn
và từ chối thanh toán nhiều khoản chi NSNN chưa đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức quy định với khối lượng
lên tới hàng trăm tỷ đồng mỗi năm; từ đó, giúp cho công tác quản lý NSNN ngày càng đi vào nề nếp, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
- Về chi ứng trước dự toán NSNN: Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn quy định về chi ứng trước dự
toán NSNN năm sau đã tạo sự chủ động về nguồn trong việc thực hiện các nhiệm vụ chi phát sinh cần thiết cấp
bách, đặc biệt là một số chương trình, dự án, nhiệm vụ chi thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phòng; các nhiệm vụ
chi cấp bách để khắc phục hậu quả lũ lụt, thiên tai; một số công trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản quan trọng
cấp bách mang tầm quốc gia,… Qua đó, góp phần đưa nhanh các công trình đầu tư xây dựng cơ bản vào sử
dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn NSNN và thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển tại các địa phương
cũng như trong cả nước.
+ Tại một số năm gần đây [đặc biệt là những năm 2009, năm 2012,…], khi nền kinh tế suy giảm, rơi vào

tình trạng giảm phát, việc sử dụng nguồn vốn ứng trước dự toán NSNN, đặc biệt là ứng trước NSNN trong lĩnh
vực đầu tư xây dựng cơ bản đã có tác dụng dẫn dắt, thúc đẩy các nguồn vốn đầu tư khác trong toàn xã hội, góp
phần kích cầu, giải quyết hàng tồn kho và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp. Qua đó, đã góp phần sớm
đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi tình trạng suy giảm, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, tăng cường và đảm
bảo ổn định an sinh – xã hội.
+ Trong quá trình tổ chức điều hành NSNN, một số công trình dự án đầu tư xây dựng cơ bản tuy đã
được bố trí kế hoạch vốn, nhưng chậm giải ngân theo tiến độ kế hoạch, nên cũng có một lượng vốn “tạm thời
nhàn rỗi” trong khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, việc ứng trước dự toán NSNN cho một số công trình, dự án
khác cần đẩy nhanh tiến độ từ nguồn vốn “tạm thời nhàn rỗi” nêu trên cũng góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn NSNN.
- Về chi chuyển nguồn: Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn Luật cũng đã cho phép các nhiệm vụ chi
đã được bố trí dự toán, nhưng chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa hết được chuyển nguồn năm trước sang năm
sau sử dụng tiếp đã tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn cho các đơn vị trong quá trình quản lý, điều hành; đồng
thời, cũng khắc phục được tình trạng “chạy chi” vào cuối năm như những năm trước đây, góp phần giảm bớt
tình trạng căng thẳng đột biến về tồn quỹ NSNN cũng như khả năng thanh khoản của KBNN.
- Về thông tin, kế toán và báo cáo: Trên cơ sở Luật NSNN, kế toán NSNN và nghiệp vụ KBNN đã được
hoàn thiện, bao quát và phản ánh đầy đủ, kịp thời các hoạt động thu, chi NSNN cũng như các hoạt động nghiệp
vụ KBNN. Qua đó, kịp thời cung cấp các thông tin về tài chính – ngân sách cho các cấp chính quyền, cơ quan
quản lý từ trung ương đến địa phương phục vụ cho quản lý và điều hành hiệu quả ngân sách các cấp; đồng thời,
nó cũng góp phần vào công cuộc cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính – ngân sách theo hướng tập trung
đầu mối, đơn giản quy trình thủ tục, xác định rõ trách nhiệm và tăng cường tính chủ động cho các đơn vị. Ngoài
ra, kế toán NSNN và nghiệp vụ KBNN cũng góp phần từng bước định hình kế toán nhà nước, lấy kế toán
NSNN làm trung tâm; đồng thời, cũng tạo dựng cơ sở cho việc xây dựng và triển khai dự án xây dựng hệ thống
thông tin quản lý ngân sách – kho bạc [TABMIS].
2. Một số tồn tại, hạn chế
2.1. Đánh giá chung
- Hệ thống NSNN còn mang tính lồng ghép, NSNN bao gồm NSTW và NSĐF, nên quy trình ngân sách
khá phức tạp [Quốc hội quyết định dự toán NSNN bao gồm cả NSTW và NSĐP, sau đó HĐND lại quyết định
NSĐP trên cơ sở dự toán Quốc hội quyết định,…]; thời gian xây dựng dự toán ngân sách tương đối dài, nhưng
thời gian cho mỗi cấp ngân sách lại ngắn, phụ thuộc lẫn nhau, nên hiệu quả hạn chế, trách nhiệm của từng cấp

chưa thực sự rõ ràng, nhất là chưa thực sự đảm bảo quyền tự chủ của cấp dưới.
- Quy định về phạm vi thu, chi ngân sách chưa rõ ràng. Bên cạnh đó, còn tình trạng nhiều quỹ tài chính
nhà nước nằm ngoài NSNN và chúng được điều chỉnh bởi các văn bản khác nhau [quỹ bảo trì đường bộ, quỹ
bảo vệ môi trường, quỹ viễn thông công ích,…]; điều này một mặt làm giảm tính thống nhất của NSNN; mặt
khác, làm cho quỹ NSNN bị cắt khúc, phân tán và nhiều khi gây căng thẳng giả tạo.
- Bội chi và phương pháp xác định bội chi NSNN, xác định nghĩa vụ nợ của Chính phủ chưa phù hợp
với thông lệ quốc tế ,phạm vi tính bội chi NSNN chưa đầy đủ [như các khoản vay bằng trái phiếu Chính phủ
cho y tế, giáo dục, giao thông, thủy lợi,… chưa được tính vào bội chi NSNN].
- Luật NSNN hiện hành chưa quy định xây dựng kế hoạch tài chính – ngân sách 5 năm, kế hoạch đầu tư
trung hạn, nên đã hạn chế tính dự báo của NSNN, hạn chế tính chủ động của các Bộ, ngành, địa phương trong
việc xây dựng kế hoạch và bố trí nguồn lực thực hiện một cách hiệu quả nhất; đặc biệt còn tình trạng ban hành
nhiều chính sách, chế độ mới vượt quá khả năng của ngân sách. Cơ sở lập, phân bổ và quản lý ngân sách chưa
thực sự gắn với kết quả hoàn thành nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị, chưa có tiêu chí đánh giá và giám sát kết
quả thực hiện nhiệm vụ.
- Luật NSNN hiện hành chưa có quy định về thẩm quyền quyết định các giải pháp điều hành ngân sách
trong các trường hợp khẩn cấp [lạm phát…], nên thiếu cơ sở pháp lý khi thực hiện.
- Luật NSNN hiện hành chưa quy định cụ thể trách nhiệm báo cáo, giải trình của các Bộ, cơ quan trung
ương, UBND cấp dưới và các cơ quan, đơn vị dự toán cấp I ở địa phương,… trong khi các đơn vị này được
Quốc hội, HĐND và UBND các cấp giao dự toán ngân sách để thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình, nên chưa
đề cao trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị này trong quản lý, sử dụng NSNN.
- Một số quy định về chấp hành, quyết toán NSNN còn chưa hợp lý, chưa đầy đủ, kỷ luật về quản lý
ngân sách chưa nghiêm như: thời hạn cuối cùng về điều chỉnh dự toán NSNN; về quản lý, sử dụng dự phòng
NSNN; về chấp hành quy định giao dự toán cho các đơn vị chi tiêu trước 31/12 hàng năm,…
- Luật NSNN hiện hành còn có nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ chung của quốc tế, cụ thể một số
điểm chủ yếu như:
+ Về hệ thống ngân sách, hầu hết các nước không tổ chức ngân sách các cấp lồng ghép với nhau; các
nước quy định chỉ cấp hành chính có dân bầu [HĐND] thì mới là cấp ngân sách; đồng thời, ngân sách từng cấp
do Quốc hội, HĐND từng cấp quyết định. Do vậy, nó đảm bảo nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp ngân sách
được quy định rõ ràng hơn; đơn giản hóa khâu lập, chấp hành, quyết toán ngân sách,…
+ Về bội chi và phương pháp tính bội chi ngân sách: Thông lệ chung, bội chi được xác định bằng chênh

lệch thu, chi; trong đó, thu không bao gồm thu vay và chi không gồm chi trả nợ gốc; đồng thời, phản ánh đầy đủ
các khoản vay thuộc nghĩa vụ nợ của Chính phủ vào cân đối NSNN.
+ Về trách nhiệm báo cáo, giải trình: Các nước đều quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm báo cáo giải
trình của các cơ quan, đơn vị được giao trực tiếp quản lý, sử dụng ngân sách, cơ quan tài chính trong từng khâu
của quy trình quản lý ngân sách.
2.2. Một số tồn tại, hạn chế cụ thể trong khâu chấp hành NSNN
a. Về việc phân bổ và giao dự toán NSNN
Theo quy định của Luật NSNN, sau khi được Thủ tướng Chính phủ hoặc UBND các cấp giao dự toán,
các đơn vị dự toán cấp I tiến hành phân bổ dự toán cho các đơn vị trực thuộc, đảm bảo không vượt quá tổng
mức, chi tiết theo từng lĩnh vực; phương án phân bổ phải gửi cơ quan tài chính cùng cấp thẩm tra; việc phân bổ
và giao dự toán phải hoàn thành trước 31/12 hàng năm,… Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện có một số tồn
tại, cụ thể:
- Về phân bổ dự toán NSNN:
+ Do việc xác định phạm vi ngân sách chưa thực sự rõ ràng, hướng dẫn về thu/chi cân đối NSNN và
thu/chi quản lý qua NSNN chưa rõ, nên hoặc còn một số khoản thu, chi để ngoài NSNN hoặc lại đưa cả vào thu,
chi NSNN những khoản mang bản chất là thu, chi của dịch vụ công, đặc biệt là một số khoản thu về phí, lệ phí.
Vì vậy, chưa đáp ứng được nguyên tắc đầy đủ của NSNN và phức tạp trong quản lý; gây bất bình đẳng giữa các
cơ quan với nhau,…
+ Do hệ thống ngân sách mang tính lồng ghép, nên việc lập, phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị dự
toán, chủ đầu tư bị phức tạp, còn tình trạng nhiều nguồn ngân sách [ngân sách trung ương với ngân sách tỉnh;
ngân sách tỉnh với ngân sách huyện,…] hoặc nhiều nguồn vốn cùng bố trí cho một dự án, công trình,… Điều
này vừa gây tình trạng chồng chéo, không rõ ràng trong quản lý NSNN; vừa gây khó khăn cho việc lập, phân bổ
và giao dự toán, kiểm soát, thanh toán và quyết toán NSNN.
- Về cơ quan tài chính thẩm tra phân bổ dự toán của đơn vị dự toán cấp I: Việc quy định cơ quan tài
chính cùng cấp thẩm tra trước khi đơn vị dự toán cấp I giao dự toán cho các đơn vị trực thuộc [kiểm tra trước],
đảm bảo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi đã đảm bảo cho các đơn vị dự toán cấp I có trách nhiệm phân
bổ và giao dự toán chi cho các đơn vị trực thuộc đúng với dự toán ngân sách đã được giao. Tuy nhiên, trong quá
trình tổ chức thực hiện chưa đáp ứng được yêu cầu để các đơn vị sử dụng ngân sách nhận được quyết định giao
dự toán trước 31/12 hàng năm. Mặt khác, trong công tác này, thì trách nhiệm chính là của các cơ quan nhà nước
ở trung ương và địa phương, các đơn vị dự toán.

- Về tạm cấp NSNN: Luật NSNN hiện hành quy định trường hợp vào đầu năm ngân sách, dự toán ngân
sách và phương án phân bổ ngân sách chưa được cơ quan có thẩm quyền giao, thì cơ quan tài chính/KBNN thực
hiện tạm cấp kinh phí cho các đơn vị. Tuy nhiên, Luật chưa quy định rõ các nội dung chi được tạm cấp kinh phí
khi dự toán NSNN chưa được cơ quan có thẩm quyền phân bổ; đồng thời, cũng chưa quy định rõ thời hạn cuối
cùng được tạm cấp kinh phí. Vì vậy, trong quá trình thực hiện việc tạm cấp diễn ra phổ biến, kể cả các nội dung
chi chưa thực sự cần thiết phải tạm cấp kinh phí, dẫn đến kỷ luật tài chính chưa cao; việc tạm cấp kinh phí kéo
dài, thực tế nhiều đơn vị đến tận tháng 3 hoặc 4 vẫn thực hiện chi từ nguồn kinh phí tạm cấp; một số đơn vị ỷ lại
vào việc tạm cấp kinh phí, nên chậm phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị trực thuộc,… Tình trạng này cũng
gây khó khăn cho KBNN trong việc quản lý, kiểm soát chi NSNN cũng như việc triển khai đưa vào vận hành
các hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin theo chuẩn mực chung của quốc tế [như dự án TABMIS].
Ngoài ra, theo kinh nghiệm quốc tế, thì các nước đều có quy định về việc tạm cấp kinh phí cho các đơn
vị sử dụng ngân sách khi dự toán chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt, song các nước đều quy định cụ thể,
rõ ràng về các nội dung chi được phép tạm cấp kinh phí.
- Về điều chỉnh dự toán ngân sách: Luật NSNN hiện hành quy định trong năm ngân sách các đơn vị dự
toán cấp I được phép điều chỉnh dự toán đã phân bổ và giao cho các đơn vị trực thuộc, song chưa quy định cụ
thể thời hạn cuối cùng được phép điều chỉnh dự toán chi NSNN, nên dẫn đến việc thực hiện chưa thống nhất.
Thực tế cho thấy nhiều khi đến tận tháng 12 hàng năm các đơn vị vẫn gửi dự toán điều chỉnh đến KBNN. Vì
vậy, gây khó khăn, bị động đối với các đơn vị dự toán, chủ đầu tư trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được
giao; giảm hiệu quả trong việc quản lý nguồn lực và gây khó khăn trong việc bố trí nguồn để thanh toán, chi trả
đầy đủ, kịp thời cho các đơn vị. Ngoài ra, theo kinh nghiệm chung, thì các nước đều quy định thời hạn cuối
cùng được phép điều chỉnh dự toán cho các đơn vị trực thuộc.
b. Về tổ chức thu và phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi NSNN:
- Về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi: Cách thức phân chia nguồn thu, nhiệm vụ chi hiện nay chưa
thực sự hợp lý, dễ dẫn đến tình trạng xung đột lợi ích giữa trung ương và các cấp chính quyền địa phương
[thông lệ chung của các nước thì quy định khoản thuế trung ương thì NSTW hưởng 100%; khoản thuế địa
phương thì NSĐP hưởng 100%]. Bên cạnh đó, hiện nay quy định khoản thuế thu nhập của các doanh nghiệp
hạch toán toàn ngành điều tiết 100% về NSTW cũng chưa hợp lý [khoản thuế này do nhiều địa phương đóng
góp; đồng thời, khái niệm doanh nghiệp hạch toán toàn ngành không còn phù hợp]; quy định ngân sách xã được
hưởng tối thiểu 70% đối với 5 khoản thu, nhưng thực tế có một số xã có nguồn đảm bảo vượt nhiệm vụ chi, một
số xã khác chưa có nguồn đảm bảo, song lại không thể điều hòa được.

- Về việc giao dự toán thu NSNN: Luật NSNN quy định Quốc hội, HĐND các cấp giao dự toán thu
NSNN và đây là chỉ tiêu pháp lệnh [bắt buộc phải thực hiện] làm căn cứ cho các cơ quan quản lý thu tổ chức
triển khai thực hiện. Điều này tạo thuận lợi trong quá trình tổ chức quản lý điều hành cân đối NSNN. Tuy nhiên,
việc tổ chức thu NSNN được thực hiện theo các quy định của Luật thuế [Luật thuế GTGT, TNDN, TNCN,…];
đồng thời, khả năng thu NSNN phụ thuộc vào tình hình kinh tế - xã hội trong từng năm ngân sách, nên số thu
NSNN hàng năm có thể cao hơn hoặc thấp hơn số dự toán NSNN đã được Quốc hội, HĐND các cấp giao [tức
không đúng với chỉ tiêu pháp lệnh đã giao].
c. Về kiểm soát chi và điều hành NSNN
- Về kiểm soát chi NSNN
+ Luật NSNN chưa quy định về việc kiểm soát cam kết chi NSNN. Vì vậy, một mặt làm công tác quản
lý chi NSNN chưa hiệu quả và chưa nâng cao được trách nhiệm, kỷ luật tài chính đối với cơ quan tài chính,
KBNN và các đơn vị sử dụng NSNN; mặt khác, cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến nợ thanh toán
xây dựng cơ bản còn lớn ở một số ngành, địa phương. Ngoài ra, việc quy định và triển khai quản lý, kiểm soát
cam kết chi NSNN cũng sẽ là cơ sở để thực hiện kế toán dồn tích và hỗ trợ cho việc lập ngân sách trung hạn của
cơ quan tài chính các cấp và các Bộ, ngành, địa phương trong tương lai.
+ Theo quy định của Luật NSNN hiện hành, thì vẫn thực hiện cơ chế kiểm soát chi NSNN theo yếu tố
đầu vào, chưa thực hiện kiểm soát chi theo kết quả đầu ra [trên thực tế đã có một số nội dung ngân sách đã được
lập, bố trí ngân sách theo chương trình, nhiệm vụ, dự án như chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình,
dự án khoa học công nghệ, đề án đào tạo cán bộ ở nước ngoài bằng tiền NSNN,… ]. Vì vậy, đã hạn chế đến
hiệu quả quản lý sử dụng NSNN; chưa thực sự gắn trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương, đơn vị sử dụng
NSNN với kết quả và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của đơn vị; hạn chế trách nhiệm giải trình, minh bạch ngân
sách và sự giám sát của cơ quan quản lý.
Hiện nay, một số nước trên thế giới cũng đã bắt đầu thực hiện quản lý ngân sách theo kết quả thực hiện
[như CHLB Đức, Thụy Điển, Hàn Quốc,…]. Tuy nhiên, các nước cũng chủ yếu thực hiện ở cấp cơ sở và chưa
bắt buộc tất cả các cấp, đơn vị phải thực hiện.
- Về ứng trước dự toán NSNN:
+ Về cơ chế ứng trước dự toán: Các quy định hướng dẫn về chi ứng trước dự toán NSNN chưa cụ thể, rõ
ràng như: tiêu chí để xác định những loại dự án, nhiệm vụ nào là cấp bách, cần phải đẩy nhanh tiến độ; chưa
quy định cụ thể năm thu hồi vốn ứng trước [nên vốn ứng trước có thể được thu hồi trong năm sau hoặc trong
nhiều năm sau]; việc quy định tổng mức chi ứng trước dự toán năm sau 20% là chưa có cơ sở khoa học và thực

tiễn, còn khá cao so với thực tế khả năng cân đối NSNN hiện tại,
Bên cạnh đó, Luật NSNN chưa quy định đầy đủ về nguyên tắc quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản [lập
dự toán, phân bổ vốn, thanh toán và quyết toán vốn, dự án đầu tư]; trong tổ chức thực hiện còn tình trạng bố trí
vốn cho nhiều dự án chưa đúng với quy hoạch, kế hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chưa căn cứ vào
nguồn lực NSNN và còn dàn trải, chưa quan tâm đến việc thu hồi vốn ứng trước của các dự án, công trình,…
Theo kinh nghiệm quốc tế, thì đa số các nước không có quy định về chi ứng trước dự toán năm sau.
Trường hợp có phát sinh nhiệm vụ chi cần xử lý trong năm, nhưng chưa có dự toán thì phải lập dự toán bổ sung
và trình Quốc hội quyết định; đồng thời, việc ứng trước dự toán NSNN năm sau đều phải có các thông tin báo
cáo về tài chính - ngân sách một cách minh bạch.
+ Về tổ chức thực hiện ứng trước dự toán NSNN:
 Về mặt bản chất, thì các khoản chi ứng trước dự toán NSNN là một khoản chi NSNN [bố trí dự toán
chi trong khi chưa có nguồn thu], nên tiềm ẩn những nguy cơ gây rủi ro đối với an ninh tài chính – ngân sách
trong giai đoạn trước mắt cũng như gây mất cân đối quỹ NSNN về lâu dài.
 Việc phân công nhiệm vụ giữa các Bộ, ngành có liên quan còn bất cập. Cụ thể, đối với ngân sách
trung ương, Bộ Kế hoạch – Đầu tư chịu trách nhiệm chủ trì bố trí, phân bổ vốn cho các công trình dự án thuộc
ngân sách trung ương; chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính trong việc trình Thủ tướng Chính phủ quyết định các
khoản chi ứng trước dự toán đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách trung ương. Bộ Tài chính chịu trách
nhiệm về mặt nguồn để đảm bảo các nhu cầu chi ứng trước dự toán của NSNN. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự phối
kết hợp chặt chẽ giữa Bộ Kế hoạch – Đầu tư và Bộ Tài chính trong việc xác định mức ứng trước, đảm bảo phù
hợp với khả năng về nguồn vốn và cân đối NSNN.
 Về thu hồi vốn ứng trước dự toán NSNN: Để đảm bảo cân đối NSNN hàng năm, thì về nguyên tắc cơ
quan phân bổ dự toán ngân sách phải bố trí dự toán cho các công trình, nhiệm vụ chi ứng trước dự toán đủ
nguồn hoàn trả mức đã ứng trước dự toán NSNN. Song trên thực tế, khi phân bổ dự toán NSNN chưa bố trí vốn
hoặc bố trí không đủ cho các dự án, công trình đã được ứng trước kế hoạch vốn, gây khó khăn cho việc cân đối,
điều hành NSNN cũng như đảm bảo khả năng chi trả, thanh toán của hệ thống KBNN.
 Về thời điểm thực hiện ứng trước dự toán NSNN: Thông thường việc ứng trước dự toán NSNN nên
được thực hiện vào cuối năm để đảm bảo khả năng cân đối NSNN và trên cơ sở sắp xếp lại các nguồn. Tuy
nhiên, trên thực tế vẫn còn tình trạng ứng trước dự toán NSNN từ giữa năm ngân sách hoặc thậm chí ngay từ
đầu năm ngân sách. Điều này một mặt phản ánh chất lượng công tác lập, phân bổ kế hoạch vốn trong lĩnh vực
đầu tư xây dựng cơ bản chưa thực sự sát với thực tiễn; mặt khác, phần nào gây căng thẳng cho quá trình điều

hành NSNN.
 Trong tổ chức thực hiện tại một vài địa phương cũng còn tình trạng “ứng trước chi đầu tư xây dựng
cơ bản” cho các công trình, dự án ngay cả khi hoàn thành các thủ tục đầu tư, chưa được bố trí vốn thực hiện,…
nên dẫn đến tình trạng nợ đọng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Ngoài ra, việc hạch toán các khoản chi
ứng trước dự toán NSNN hiện nay cũng chưa phù hợp với chuẩn mực kế toán công quốc tế - IPSAS [khi chi
ứng trước dự toán NSNN cho các công trình, dự án, KBNN vẫn thực hiện hạch toán chi “tạm ứng”, mặc dù
khoản chi đó đã có đầy đủ các điều kiện để hạch toán thanh toán chi NSNN; chỉ đến khi dự án, công trình đó
được bố trí hoàn trả phần dự toán đã ứng trước, thì KBNN mới thực hiện chuyển từ chi “tạm ứng” sang chi
thanh toán].
- Về chi chuyển nguồn: Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn chưa quy định rõ các nội dung được
chuyển nhiệm vụ chi và chuyển nguồn sang ngân sách năm sau, nên trong quá trình thực hiện, tại một vài Bộ,
ngành, địa phương thực hiện chuyển nhiệm vụ chi và chuyển nguồn ngân sách sang năm sau một cách tràn lan.
Vì vậy, việc chuyển nhiệm vụ chi và chuyển nguồn ngân sách có xu hướng tăng dần qua các năm, năm sau cao
hơn năm trước. Theo kinh nghiệm quốc tế, đa số các nước không quy định việc chuyển nhiệm vụ chi và chuyển
nguồn năm trước sang năm sau thực hiện tiếp; một số nước tuy có quy định về việc chuyển nguồn, song chỉ đối
với một số khoản chi mang tính đặc thù và phải được theo dõi, quản lý riêng.
- Về công khai, minh bạch NSNN: Luật NSNN tuy đã quy định dự toán, quyết toán, kết quả kiểm toán
ngân sách các cấp, các đơn vị dự toán ngân sách, các tổ chức được NSNN hỗ trợ kinh phí phải thực hiện công
khai, song chưa quy định việc đánh giá giải trình và thuyết minh số liệu công khai, nên dẫn đến việc công khai
còn thiếu minh bạch. Bên cạnh đó, hiện cũng chỉ mới quy định công khai về dự toán và quyết toán NSNN, chưa
công khai về tình hình thực hiện dự toán ngân sách của các cấp và các đơn vị dự toán ngân sách, nên việc công
khai NSNN chưa đầy đủ.
Kinh nghiệm chung, nhiều nước quy định bắt buộc công khai NSNN; nhiều nước quy định dự toán trước
khi trình Quốc hội phải được công khai; nội dung công khai bao gồm cả dự toán, quyết toán NSNN, tình hình
thực hiện thu, chi NSNN hàng quý kèm theo các tài liệu thuyết minh; ngoài ra, các Bộ, ngành địa phương cũng
phải thực hiện công khai các mục tiêu, kết quả đạt được.
- Một số vấn đề khác: Hiện nay, việc quản lý số dư quỹ NSNN và số dư tiền gửi các đơn vị, tổ chức kinh
tế tại KBNN chưa sử dụng [gọi tắt là ngân quỹ nhà nước; trong đó, tồn quỹ NSNN chiếm khoảng 40-50% tổng
tồn ngân quỹ tại KBNN]: Thực hiện Chiến lược phát triển ngành tài chính đến năm 2020, Bộ Tài chính đang
nghiên cứu cải cách công tác quản lý ngân quỹ theo hướng: hình thành tài khoản thanh toán tập trung của toàn

hệ thống KBNN [tài khoản TSA] và sử dụng số dư ngân quỹ tạm thời nhàn rỗi trên tài khoản TSA để nâng cao
hiệu quả quản lý tài chính công.
II. Đề xuất một số định hướng sửa đổi, bổ sung Luật NSNN trong khâu chấp hành NSNN
Từ những phân tích, đánh giá tồn tại nêu trên, việc sửa đổi bổ sung Luật NSNN trong thời gian tới là cần
thiết nhằm hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách tài chính phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN, đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước nói chung và ngân sách nói riêng trong việc động viên, phân
bổ, sử dụng nguồn lực của Nhà nước. Cụ thể:
1. Một số định hướng sửa đổi chung về Luật NSNN
- Về hệ thống NSNN: Cần hướng tới giảm bớt và xóa bỏ hệ thống ngân sách lồng ghép, Luật NSNN [sửa
đổi] quy định theo hướng: NSNN bao gồm NSTW và NSĐP; NSĐP bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính
các cấp có HĐND và UBND. Quốc hội quyết định dự toán và phân bổ NSTW; phê chuẩn quyết toán NSTW,
xem xét báo cáo tổng hợp dự toán và quyết toán NSNN. HĐND quyết định dự toán NSĐP; quyết định ngân
sách cấp mình và phê chuẩn quyết toán NSĐP.
- Về phạm vi NSNN: Xác định rõ phạm vi thu, chi NSNN đối với các khoản phí, lệ phí theo hướng: toàn
bộ các khoản lệ phí do cơ quan nhà nước quản lý được nộp vào NSNN; phí do cơ quan nhà nước thu được nộp
toàn bộ vào NSNN; phí không gắn với kết quả trực tiếp cua cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và phí
thu từ các dịch vụ do nhà nước đầu tư cho các doanh nghiệp, thì sau khi trừ đi chi phí là khoản thu của NSNN;
phí gắn trực tiếp với kết quả hoạt động của đơn vị [học phí, viện phí,…] là giá dịch vụ và không ghi thu, ghi chi
NSNN.
Ngoài ra, cũng cần quy định cụ thể trong Luật NSNN sửa đổi để hạn chế phát sinh các quỹ tài chính nhà
nước nằm ngoài NSNN.
- Về bội chi và phương pháp xác định bội chi NSNN: Quy định rõ trong Luật NSNN [sửa đổi], bội chi
NSTW là chênh lệch giữa thu và chi NSTW; trong đó, chi NSTW không bao gồm chi trả nợ gốc; đồng thời, bội
chi NSTW được bù đắp bằng vay nợ trong và ngoài nước [bao gồm cả vay phát hành công trái, trái phiếu cho
giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục,…; song không bao gồm các khoản vay về cho vay lại – đây là nghĩa vụ nợ
dự phòng của Chính phủ].
- Về trách nhiệm giải trình và đánh giá kết quả, hiệu quả chi NSNN:
+ Bổ sung quy định trong Luật NSNN sửa đổi về trách nhiệm báo cáo, giải trình của các Bộ, cơ quan
trung ương và các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương trước Quốc hội, Chính phủ; chế độ báo cáo giải trình
của các đơn vị dự toán và UBND cấp dưới trước HĐND, UBND cấp trên về hiệu quả chi NSNN trong khâu lập,

phân bổ, chấp hành và quyết toán thu, chi NSNN. Quy định rõ các Bộ, cơ quan trung ương phải báo cáo giải
trình trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội; các cơ quan, đơn vị ở địa
phương phải báo cáo giải trình trước HĐND, UBND cấp tỉnh về các vấn đề có liên quan của ngành mình, đơn
vị mình trong việc lập, chấp hành và quyết toán thu, chi NSNN.
+ Bổ sung quy định hàng năm, các cơ quan, đơn vị sử dụng NSNN được Thủ tướng Chính phủ, UBND
các cấp giao dự toán và UBND cấp dưới phải báo cáo kết quả thực hiện ngân sách gắn với việc thực hiện nhiệm
vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương mình. Các cơ quan nhà nước được phân công quản lý ngành, lĩnh vực,
chương trình mục tiêu quốc gia có trách nhiệm tổng hợp, báo cáo kết quả thực hiện ngân sách gắn với việc thực
hiện nhiệm vụ của ngành, lĩnh vực, chương trình mục tiêu quốc gia.
2. Một số định hướng sửa đổi cụ thể trong khâu chấp hành NSNN
a. Về phân bổ và giao dự toán NSNN
- Về phân bổ dự toán NSNN: Cần quy định và sửa đổi trong Luật NSNN theo hướng bỏ tính lồng ghép
về hệ thống NSNN nhằm khắc phục tình trạng bố trí nhiều cấp ngân sách, nhiều nguồn vốn,… cho cùng một
công trình, dự án để tạo thuận lợi cho quá trình quản lý; đồng thời, xác định rõ phạm vi thu, chi NSNN, tránh
tình trạng hoặc thu, chi để ngoài ngân sách hoặc đưa cả vào thu, chi ngân sách các khoản thu, chi không mang
tính chất là thu, chi ngân sách [các khoản thu, chi mang tính chất là giá dịch vụ].
- Về cơ quan tài chính thẩm tra phân bổ dự toán của các đơn vị dự toán cấp I: Để đơn giản về thủ tục
hành chính, đáp ứng yêu cầu về mặt thời gian, cần sửa Luật NSNN theo hướng: sau khi được Thủ tướng Chính
phủ, UBND các cấp giao dự toán, các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, các đơn vị dự toán có
trách nhiệm phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc, đảm bảo đúng với dự toán
ngân sách được giao về tổng mức và chi tiết theo từng lĩnh vực chi, các nhiệm vụ quan trọng được giao, đúng
chính sách, chế độ, tiêu chuẩn định mức chi,… gửi cơ quan KBNN và cơ quan tài chính đồng cấp. Cơ quan tài
chính có trách nhiệm thẩm tra, nếu không đúng dự toán ngân sách được giao về tổng mức, chi tiết theo lĩnh vực
chi và các nhiệm vụ chi quan trọng đã được giao thì yêu cầu điều chỉnh [tức là thẩm tra sau].
- Về điều chỉnh dự toán NSNN: Quy định rõ các đơn vị dự toán, chủ đầu tư được phép điều chỉnh dự
toán cho các đơn vị trực thuộc trong phạm vi tổng mức dự toán được giao, song phải đảm bảo thực hiện trước
ngày 15 tháng 11 của năm thực hiện.
- Về tạm cấp kinh phí NSNN:
+ Quy định cụ thể trong Luật NSNN các nội dung được thực hiện tạm cấp kinh phí cho các nhu cầu chi
để thực hiện các nhiệm vụ chi dự toán ngân sách và phương án phân bổ ngân sách chưa được cơ quan nhà nước

có thẩm quyền quyết định, bao gồm: chi lương và các khoản có tính chất tiền lương; chi nghiệp vụ phí và công
vụ phí; chi cho các dự án chuyển tiếp và các công trình trọng điểm quốc gia, các dự án đầu tư chuyển tiếp quan
trọng, cấp bách khác để khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa; chi bổ sung cân đối cho ngân sách cấp dưới; một
số khoản chi cần thiết cấp bách khác để đảm bảo hoạt động bộ máy, trừ các khoản chi mua sắm trang thiết bị,
sửa chữa.
+ Mức tạm cấp hàng tháng tối đa không quá mức chi bình quân 1 tháng của năm trước.
+ Thời hạn thực hiện tạm cấp kinh phí không quá 31/3 hàng năm.
b. Về tổ chức thu và phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi
- Về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi
+ Trước mắt, quy định rõ các khoản thu NSTW hưởng 100%, NSĐP hưởng 100% và hạn chế các khoản
thu được phân chia giữa NSTW và NSĐP. Về lâu dài, sửa đổi theo hướng: chỉ quy định các khoản thuế trung
ương [NSTW hưởng 100%] và khoản thuế địa phương [NSĐP hưởng 100%]; sau đó thực hiện cân đối lại giữa
NSTW và NSĐP để tạo thuận lợi cho quá trình quản lý và phù hợp với thông lệ chung của quốc tế.
+ Bỏ quy định thuế thu nhập của các doanh nghiệp hạch toán toàn ngành NSTW hưởng 100%; quy định
toàn bộ các khoản thuế thu nhập doanh nghiệp [bao gồm cả thuế thu nhập doanh nghiệp của các doanh nghiệp
hạch toán toàn ngành trước đây] là khoản thu phân chia giữa NSTW và NSĐP [bao gồm cả các địa phương có
trụ sở chính của doanh nghiệp và địa phương có cơ sở hạch toán phụ thuộc của doanh nghiệp] để tăng cường
phân cấp cho các địa phương; đồng thời, tạo sự công bằng giữa các địa phương trong việc đóng góp nguồn thu
của NSNN.
+ Quy định ngân sách xã, thị trấn được phân cấp quản lý các khoản thu thuế sử dụng đất phi nông
nghiệp, thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh, thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình, lệ phí
trước bạ nhà đất; ngân sách thị xã, thành phố được phân cấp khoản thu lệ phí trước bạ, không kể lệ phí trước bạ
nhà, đất. Việc quyết định tỷ lệ % để lại cụ thể cho ngân sách xã, thị trấn; thị xã, thành phố do HĐND cấp tỉnh
quyết định. Quy định này để tăng cường quyền hạn cho HĐND cấp tỉnh trong việc quyết định nguồn thu, nhiệm
vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa phương phù hợp với thực tế của địa phương.
- Về dự báo thu NSNN: Trước mắt, nghiên cứu sửa đổi quy định về dự báo thu theo hướng: đối với
NSTW thực hiện dự báo thu [tức Quốc hội không quyết định dự toán thu, mà trên cơ sở dự báo thu để quyết
định dự toán chi NSTW]; đối với NSĐP vẫn thực hiện giao dự toán thu như hiện nay. Về lâu dài, cả NSTW và
NSĐP đều thực hiện dự báo thu để đảm bảo tính thống nhất công tác dự báo thu từ trung ương đến các địa
phương.

c. Về kiểm soát chi và điều hành NSNN
- Về kiểm soát chi NSNN:
+ Bổ sung quy định trong Luật NSNN về việc thực hiện kiểm soát cam kết chi NSNN nhằm nâng cao kỷ
cương, kỷ luật tài chính đối với tất cả các cấp, ngành và đơn vị chi tiêu; khắc phục tình trạng nợ đọng trong
thanh toán XDCB và góp phần nâng cao hiệu quả quản lý chi NSNN cũng như hỗ trợ lập ngân sách trung hạn
của cơ quan tài chính và các Bộ, ngành địa phương trong thời gian tới.
+ Bổ sung quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương trong việc
quản lý NSNN theo kết quả thực hiện nhiệm vụ, gắn với việc thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
các đơn vị hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập. Lộ trình thực hiện do Chính phủ quyết định.
- Về ứng trước dự toán NSNN: Về lâu dài, cần bỏ quy định về chi ứng trước NSNN. Trước mắt, khi chưa
bỏ được quy định về chi ứng trước NSNN, thì cần quy định rõ về phạm vi, nguyên tắc và tổng mức chi ứng
trước dự toán NSNN năm sau trong Luật NSNN, cụ thể:
+ Về đối tượng chi ứng trước dự toán NSNN, bao gồm:
 Ứng trước dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản cho các chương trình, dự án quan trọng quốc gia và dự
án nhóm A, đủ điều kiện thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư và xây dựng, đang thực hiện và cần
phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện; các dự án đầu tư quan trọng, cấp bách để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh.
 Ứng trước dự toán chi thường xuyên cho các nhiệm vụ thuộc các lĩnh vực quốc phòng, an ninh thuộc
dự toán ngân sách năm sau, nhưng phải thực hiện ngay trong năm.
+ Về nguyên tắc ứng trước dự toán NSNN:
 Việc ứng trước dự toán NSNN phải đảm bảo khả năng cân đối của quỹ NSNN và khả năng thanh
khoản của KBNN, đảm bảo thu hồi được trong năm sau và không được ảnh hưởng đến việc bố trí dự toán
NSNN năm sau.
 Khi phân bổ dự toán NSNN năm sau, phải đảm bảo bố trí đủ dự toán cho các chương trình, dự án,
nhiệm vụ để thu hồi toàn bộ số đã ứng trước dự toán; nghiêm cấm việc ứng trước dự toán NSNN cho nhiều
năm.
 Nghiên cứu quy định việc ứng trước dự toán NSNN chỉ được áp dụng đối với ngân sách trung ương;
không áp dụng đối với ngân sách địa phương [trừ trường hợp chi cho các lĩnh vực quốc phòng, an ninh].
+ Về tổng mức ứng trước: Nghiên cứu quy định khống chế tổng số dư ứng trước dự toán NSNN năm
sau chỉ nên trong khoảng tổng mức dự toán chi NSNN bình quân 1 tháng [khoảng 8%] theo từng lĩnh vực,

nhiệm vụ chi tương ứng năm hiện hành đã giao hoặc số kiểm tra dự toán NSNN năm sau đã thông báo của cơ
quan, đơn vị và ngân sách cấp dưới được ứng trước dự toán.
+ Bên cạnh đó, cần tiến hành cải cách một số quy định để từng bước giảm dần việc ứng trước dự toán
NSNN như: gắn cải cách quản lý tài chính – ngân sách với cải cách quản lý ngân quỹ nhà nước nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính nhà nước cũng như tạo điều kiện về vốn hỗ trợ cho các nhu
cầu chi ứng trước dự toán NSNN đối với một số dự án, công trình quan trọng, cấp bách của quốc gia cần phải
đẩy nhanh tiến độ thực hiện; tăng cường nguồn dự phòng NSNN để đáp ứng cho các nhu cầu chi phòng chống
khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, đảm bảo chế độ chính sách mới được ban hành, các dự án đầu tư quan
trọng, cấp bách để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh,…
- Về chuyển nguồn NSNN: Trước mắt, quy định cụ thể, rõ ràng các nội dung được phép chuyển nhiệm vụ
chi và chuyển nguồn sang năm sau, cụ thể bao gồm: [1] các khoản chi ngân sách được phép chuyển nguồn sang
năm sau theo chế độ quy định [như phần kinh phí giao cho đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ và tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính; phần kinh phí giao cho cơ
quan thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính; các
khoản vốn, kinh phí để thực hiện hợp đồng; các khoản tăng thu từ tiền sử dụng đất, thu từ hoạt động xổ số kiến
thiết, viện trợ không hoàn lại, các khoản huy động, đóng góp được sử dụng theo mục tiêu quy định; nguồn thực
hiện cải cách tiền lương theo chế độ quy định; [2] một số các khoản chi ngân sách được xét chuyển nguồn sang
năm sau.
Bên cạnh đó, cũng cần xây dựng và triển khai thực hiện việc lập kế hoạch tài chính trung hạn, kế hoạch
chi tiêu trung hạn, đặc biệt là đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản để nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng
vốn NSNN; đồng thời, tạo thuận lợi cho quá trình bố trí dự toán và chuyển nguồn ngân sách năm sau.
- Về công khai, minh bạch NSNN: Bổ sung quy định các cấp ngân sách, các đơn vị dự toán ngân sách,
các đơn vị sử dụng ngân sách, các tổ chức được ngân sách hỗ trợ kinh phí, các chương trình dự án,… phải công
bố công khai đối với dự toán, thực hiện dự toán, kết quả kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách; đồng thời, tất
cả các báo cáo công khai này đều phải có thuyết minh đính kèm để đảm bảo tính minh bạch trong công khai
NSNN.

Quản lý ngân sách nhà nước là gì?

Theo đó, quản lý ngân sách nhà nước là hoạt động của các chủ thể quản lý ngân sách nhà nước thông qua việc sử dụng có chủ định các phương pháp quản lý và các công cụ quản lý để tác động và điều khiển hoạt động của ngân sách nhà nước nhằm đạt được các mục tiêu đã định.

Chu trình ngân sách nhà nước kéo dài bao lâu?

Ngân sách nhà nước [NSNN] là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước được dự toán và thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Có các trường hợp các khoản thu chi này kéo dài hơn 1 năm, ví dụ NSNN trung hạn là các khoản thu chi của nhà nước trong 3 năm.

Quản lý ngân sách xã là Gi?

Ngân sách xã [NSX] cấp cuối cùng trong phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước [NSNN]. NSX bao gồm toàn bộ các khoản thu, nhiệm vụ chi được quy định trong dự toán một năm do Hội đồng nhân dân [HĐND] quyết định và giao cho Ủy ban nhân dân [UBND] thực hiện nhằm đảm bảo các chức năng nhiệm vụ của chính quyền .

Ngân sách nhà nước được quản lý bởi ai?

Vụ Ngân sách nhà nước là đơn vị thuộc Bộ Tài chính, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.

Chủ Đề