Chính sách nội bắt về nông nghiệp trong cuộc khai thác lần thứ nhất của Pháp là

Chủ trương này đã làm đổi diện mạo nông nghiệp Việt Nam, đem lại cho người Pháp lợi nhuận kếch xù nhưng cũng gây ra nhiều đau khổ cho người nông dân Việt Nam.

Chiếm đoạt đất đai, phát triển kinh tế đồn điền

Đó là mục đích chính trị lâu dài và là chính sách khai thác thuộc địa của người Pháp ở Việt Nam. Từ cuối thế kỷ XIX, ngay cả khi chưa bình định xong thì họ đã bằng nhiều thủ đoạn chiếm đoạt đất đai để lập đồn điền.

Chính sách nội bắt về nông nghiệp trong cuộc khai thác lần thứ nhất của Pháp là
Cảnh khổ cực của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Ảnh tư liệu

Năm 1897, họ buộc triều đình Huế ký điều ước nhượng quyền khai khẩn đất hoang. Ngày 1/5/1900, chính quyền thực dân ra nghị định phủ nhận quyền sở hữu ruộng đất trong luật pháp phong kiến để dễ cướp đoạt ruộng đất của nông dân. Họ sử dụng khái niệm “đất hoang“, “đất vô chủ” đối với đất đai của nông dân đã bị họ đuổi đi để chiếm đoạt.

Ở Nam Kỳ, họ tổ chức nông dân vét sông, đào mương, khai khẩn thành ruộng rồi chiếm đoạt bằng hình thức mua của Nhà nước với giá rẻ mạt (80 đồng/1.000ha ruộng, tức là 192 franc năm 1900), hoặc được nhà nước cấp không.

Ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, ruộng đất của những người tham gia các phong trào chống Pháp đều bị coi là vô chủ để mặc nhiên chiếm đoạt.

Từ năm 1886, mỗi người Pháp có thể được cấp không quá 10ha để làm nông mỗi lần xin. Nhưng từ các Nghị định ra ngày 6/10/1889 và ngày 15/10/1890 thì người Pháp được quyền xin và được cấp mỗi lần không quá 500ha. Do đó, đất đai bị chiếm đoạt ngày càng tăng một cách nhanh chóng. Năm 1890, cả nước bị chiếm 10.900ha, năm 1900 là 301.000ha.

Năm 1901, người Pháp lập được 244 đồn điền, phần lớn trồng lúa, ngoài ra có cao su, cà phê, chè và chăn nuôi gia súc. Rừng cũng bị họ chiếm đoạt để lập những khu lâm khẩn.

Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, quy mô và tốc độ tập trung đất đai càng phát triển. Các đồn điền mới ngày càng nhiều, đặc biệt là đồn điền trồng cao su.

Tính đến năm 1930, tổng số ruộng đất bị người Pháp chiếm đoạt đã lên đến 1,2 triệu ha. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc phát triển và giữ vai trò ngày càng quan trọng của kinh tế đồn điền ở Việt Nam thời thuộc Pháp.

Củng cố và phát triển hệ thống thủy nông

Nhằm phục vụ trực tiếp cho hoạt động quân sự và mở mang khai thác nông nghiệp thuộc địa, chính quyền thực dân đã quan tâm đến việc củng cố và phát triển hệ thống thủy nông và giao thông đường thủy.

Ở Nam Kỳ, từ năm 1867, họ thành lập một ủy ban thuộc Soái phủ Sài Gòn để nghiên cứu và tổ chức việc nạo vét, mở rộng hệ thống kênh rạch. Năm 1875, họ tiếp tục thành lập ủy ban thường trực về việc hoàn chỉnh hệ thống đường thủy từ Sài Gòn đi các tỉnh miền Tây.

Từ năm 1880 - 1890, tổng cộng đã đào được 2,1 triệu m3 đất kinh rạch, tăng được 169.000ha đất canh tác so với thời Nguyễn.

Năm 1895 - 1897, Tổng đốc Trần Bá Lộc được chính quyền thực dân cho tự đầu tư đào kênh Tổng Đốc Lộc dài 45km, rộng 10m.

Quá trình đào kênh ở Nam bộ có sự chuyển biến lớn khi Paul Doumer làm Toàn quyền Đông Dương (1897 - 1902). Ngày 8/9/1900, một hội đồng gồm các kỹ sư công chính, các tỉnh trưởng, đại diện các điền chủ người Pháp được thành lập để hoạch định chương trình đào kênh cho đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1901, thành lập Công ty đào sông và các việc công chính Đông Dương.

Từ chương trình này, hàng loạt kênh cũ được nạo vét, kênh mới được đào thêm để có diện mạo hệ thống cơ bản như ngày nay. Đặc biệt, từ đây diện tích canh tác đã được tăng lên rất nhiều. Riêng kênh Rạch Giá - Hà Tiên hoàn thành năm 1929 đã mở rộng khai thác trên 220.000ha của khu tứ giác Long Xuyên.

Ở Bắc Bộ và Trung Bộ, việc xây dựng, khai thác thủy lợi của Pháp bắt đầu muộn hơn, chỉ từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1914).

Đến năm 1930, ở Bắc và Trung Bộ, Pháp mới chỉ đầu tư xây dựng và cải tạo 5 công trình thủy nông với tổng diện tích tưới thiết kế là 118.500ha. Cho đến năm 1945, các công trình thủy nông ở Bắc Bộ có công suất thiết kế tưới tiêu, hoặc ngăn mặn cho 298.000ha, ở Trung Bộ, các công trình tưới là 124.000ha.
Tuy còn hạn chế nhưng các công trình thủy lợi đã khai thác, đưa vào canh tác các vùng đất rộng lớn và quy tụ dân cư ở Nam Bộ, nâng cao hiệu quả sử dụng ruộng đất ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Thay đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi

Với mục tiêu khai thác lợi nhuận từ nông nghiệp, ngay từ đầu người Pháp đã chú trọng làm thay đổi nền nông nghiệp vốn chủ yếu chuyên canh cây lúa. Khi mới thôn tính ba tỉnh miền Đông, ngày 23/3/1864, người Pháp đã xây dựng Vườn Bách Thảo tại Sài Gòn để làm nơi nuôi thú và ươm cây, nghiên cứu và thực nghiệm di thực giống mới vào Việt Nam. Một số vườn ươm ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ cũng được thiết lập.

Người Pháp đã thành lập Viện khảo sát nông lâm Đông Dương (IRAFI), Túc mễ Đông Dương; Xây dựng một số cơ sở thí nghiệm về hóa học nông nghiệp, côn trùng học, thổ nhưỡng học ở cả ba miền… Từ đó một số giống cây trồng mới như cao su, cà phê, khoai tây, vú sữa, mía Indonesia, Ấn Độ, giống cam, quýt của Bắc Phi, Địa Trung Hải; khoai tây Pháp… đã được di thực vào Việt Nam, thực nghiệm và đưa ra trồng đại trà. Nhiều giống gia súc mới cũng được nhập vào như ngựa, cừu, bò sữa, gà tây…

Họ còn áp dụng nhiều kỹ thuật nông nghiệp của châu Âu như đưa phân bón hóa học vào sản xuất, nhất là ở các đồn điền trồng cây công nghiệp; Đưa vào một số nông cụ cầm tay của người Âu như cuốc, xẻng, xà beng, cưa tay… Đặc biệt, họ đã trang bị một số động cơ hơi nước, động cơ nổ, máy kéo, tàu cuốc.

Nhờ có thủy lợi và vận dụng kỹ thuật mới, năng suất lúa trung bình trên toàn xứ Đông Dương đã tăng gấp 5 lần (từ 2,3 tạ/ha lên 10,7 tạ/ha) so với cuối thế kỷ XIX.

Diện tích trồng cao su ở các đồn điền cũng tăng từ 18.000ha năm 1925 lên 27.328ha năm 1937 và 133.000ha năm 1942. Sản lượng và diện tích trồng cao su của Đông Dương vào hàng thứ 2 thế giới. Tiếp đến là cây cà phê với tổng diện tích khoảng 10.000ha, cây chè khoảng 26.000ha, cây thuốc lá khoảng 11.950ha (năm 1938). Ngoài ra còn có các đồn điền trồng trồng mía, dừa, lạc, thầu dầu, dâu, hạt tiêu… Các đồn điền chăn nuôi được xây dựng, riêng ở Bắc Kỳ, sau chiến tranh thế giới I, có 98 đồn điền, diện tích gần 155.000ha, nuôi khoảng 30.000 con gia súc.

Nền nông nghiệp cổ truyền độc canh cây lúa của Việt Nam đã thay đổi, nhiều loại cây công nghiệp dài ngày, nhiều giống gia súc mới đã xuất hiện và đem lại hiệu quả cao.

Chuyển đổi tính chất của nền nông nghiệp

Từ nhiều chính sách khuyến khích phát triển, nhất là kinh tế đồn điền, tính chất của nền nông nghiệp đã dần thay đổi. Quy mô tập trung đất đai ngày càng lớn, sản phẩm dành cho xuất khẩu ngày càng nhiều và chiếm giữ vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế.

Về sản lượng lúa, tính riêng năm 1913, cả nước thu hoạch khoảng 3.818.000 tấn lúa, trong đó 1.286.804 tấn đem đi xuất khẩu. Trong những năm 20, lúa đạt từ 60 - 70% giá trị xuất khẩu. Năm 1880, sản lượng gạo xuất khẩu là 240.000 tấn thì đến năm 1928 đã lên 1.700.000 tấn, số lượng xuất khẩu gạo trong thập niên 20 tăng 26%, Việt Nam trở thành nước cung cấp gạo lớn thứ hai cho thị trường thế giới. Việt Nam cũng trở thành nhà xuất khẩu ngô thứ hai thế giới.

Ngành kinh tế cao su ở Đông Dương chủ yếu là ở Việt Nam phát triển đã đưa lượng cao su xuất khẩu năm 1939 tăng gấp 7 lần năm 1928, giá trị xuất khẩu năm 1929 là 11.000.000 franc đến năm 1939 tăng lên 96.000.000 franc; tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của Đông Dương: năm 1936 chiếm 14,3%, năm 1937: 18%, năm 1938: 21,4%, năm 1939 lên tới 27,4%. Xuất khẩu cao su đã góp phần cho cán cân ngoại thương ở Việt Nam có thặng dư lớn.

Chủ nghĩa tư bản Pháp xuất hiện, thể hiện rõ nhất là kinh tế đồn điền đã dẫn đến sự phá vỡ kết cấu kinh tế nông nghiệp truyền thống đi liền với xuất hiện và ngày càng mở rộng các thành phần kinh tế mới tư bản chủ nghĩa.

Sự thay đổi về kinh tế, biến đổi về giáo dục, văn hóa… đã trở thành tiền đề để xuất hiện các giai cấp công nhân, tư sản, tầng lớp trí thức tiểu tư sản trong xã hội Việt Nam. Do bị thực dân Pháp áp bức bóc lột, mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc ngày càng sâu sắc đã tạo nên sự chuyển biến tư tưởng để hình thành nên các tổ chức, phong trào yêu nước và cách mạng trong nửa đầu thế kỷ XX.

Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp tập trung vào

A. Phát triển kinh tế nông nghiệp – công thương nghiệp

B. Nông nghiệp – công nghiệp – quân sự

C. Cướp đất lập đồn điền, khai mỏ, giao thông, thu thuế

D. Ngoại thương – quân sự - giao thông thủy bộ

Đáp án Đúng là C

Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân pháp tập trung vào cướp ruộng đất, lập đồn điền, khai thác mỏ, giao thông, thu thuế.

Để thực thi chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất thực dân Pháp tiến hành xây dựng bộ máy nhà nước để bắt tay vào khai thác, ban hành các chính sách kinh tế, chinh sách xã hội với mục tiêu vơ vén ruộng đất của dân, lập các đồn điền, tiến hành khai thác mỏ, giao thông, thu thuế cao và nặng. Cùng Top lời giải tìm hiểu cách thực dân Pháp xây dựng bộ máy và chính sách ban hành để thực hiện mục tiêu khai thác thuộc địa lần thứ nhất:

Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp [1897– 1914]

1. Tổ chức bộ máy Nhà nước

- Sau khi đàn áp xong những cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa lần thứ nhất [1897 - 1914]. Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, đứng đầu là viên toàn quyền người Pháp.

- Tổ chức bộ máy nhà nước từ trên xuống do Pháp chi phối. Việt Nam bị chia làm 3 xứ với 3 chế độ cai trị khác nhau: Nam Kì [thuộc địa], Trung Kì [bảo hộ], Bắc Kì [nửa bảo hộ]. Xứ và các tỉnh đều do viên quan người Pháp cai trị.

- Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, làng xã.

=> Nhìn chung bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương đều do thực dân Pháp chi phối nhằm tăng cường ách áp bức, kìm kẹp, để tiến hành khai thác Việt Nam, làm giàu cho tư bản Pháp.

* Nhận xét

- Chính sách của Pháp trong việc tổ chức bộ máy nhà nước vô cùng chặt chẽ, với tay xuống tận nông thôn.

- Kết hợp giữa thực dân và phong kiến cai trị.

2. Chính sách kinh tế để phục vụ khai thác thuộc địa lần thứ nhất

- Nông nghiệp:

+ Đẩy mạnh cướp đoạt ruộng đất. Ở Bắc Kì đến năm 1902, có tới 182.000 hécta ruộng đất bị Pháp chiếm.

Năm 1897, Pháp ép triều Nguyễn kí điều ước “nhượng” quyền “khai khẩn đất hoang” cho chúng. Năm 1915, địa chủ người Pháp chiếm 470 000 ha để lập đồn điền ở Bắc và Trung Kì.

+ Phát canh thu tô.

- Công nghiệp: khai thác mỏ than và kim loạiđể xuất khẩu, đầu tư công nghiệp nhẹ như: sản xuất xi măng, gạch ngói, xay xát gạo, giấy, diêm...

- Giao thông vận tải:xây dựng hệ thống đường giao thông để tăng cường bóc lột và đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân.

Cầu Long Biên [1898 - 1902]

- Thương nghiệp:độc chiếm thị trường Việt Nam, đánh thuế nặng vào hàng hóa nước ngoài, trong khi đó hàng hóa Pháp bị đánh thuế rất nhẹ hoặc được miễn thuế.

- Pháp lại tăng thêm các loại thuế, thuế mới chồng thuế cũ, đặc biệt là thuế rượu, muối, thuốc phiện.

- Tác động tiêu cực:

+ Tài nguyên vơi cạn.

+ Nông nghiệp dẫm chân tại chỗ, không có sự phát triển.

+ Công nghiệp phát triển nhỏ giọt, thiếu hẳn công nghiệp nặng.

+ Việt Nam trở thành thị trường cung cấp nguyên – nhiên liệu và thị trường độc chiếm của Pháp.

- Tác động tích cực:

+ Phương thức sản xuất TBCN bước đầu được du nhập vào Việt Nam, nó mang lại nhiều tiến bộ hơn so với phương thức sản xuất phong kiến⇒đưa tới sự chuyển biến cơ bản về bộ mặt kinh tế tại một số khu vực [ví dụ: Hà Nội, Sài Gòn,...].

3. Chính sách văn hoá, giáo dục để phục vụ khai thác thuộc địa lần thứ nhất

- Duy trì nền giáo dục phong kiến.

- Mở một số trường học và cơ sở y tế, văn hoá, đưa tiếng Pháp vào chương trình học bắt buộc ở bậc Trung học.

=>Những chính sách của thực dân Pháp đã tạo ra tầng lớp tay sai, kìm hãm nhân dân.

4. Những chuyển biến về xã hội thời kỳ pháp khai thác thuộc địa lần thứ nhất

- Giai cấp địa chủ phong kiến: Từ lâu đã đầu hàng, làm tay sai cho thực dân Pháp. Tuy nhiên, có một bộ phận nhỏ có tinh thần yêu nước.

- Giai cấp nông dân: số lượng đông đảo nhất, họ bị áp bức bóc lột nặng nề, cuộc sống của họ khổ cực, nông dân sẵn sàng hưởng ứng, tham gia cuộc đấu tranh giành được độc lập và ấm no.

- Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX xuất hiện nhiều đô thị mới: Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn – Chợ Lớn…

- Tầng lớp tư sản: Là các nhà thầu khoán, chủ xí nghiệp, xưởng thủ công, chủ hãng buôn bán… bị chính quyền thực dân kìm hãm, tư bản Pháp chèn ép.

- Tiểu tư sản thành thị: Là chủ các xưởng thủ công nhỏ, cơ sở buôn bán nhỏ, viên chức cấp thấp và những người làm nghề tự do.

- Công nhân: Xuất thân từ nông dân, làm việc ở đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp, lương thấp nên đời sống khổ cực, có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống bọn chủ để cải thiện điều kiện làm việc và đời sống.

=> Từ một nước phong kiến, Việt Nam trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam: Nông dân với phong kiến; dân tộc ta với thực dân Pháp, ngày càng sâu sắc.

Trong bối cảnh đó đã xuất hiện xu hướng mới trong cuộc vận động giải phóng dân tộc.

I. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp[1897-1914]

1.Tổ chức bộ máy nhà nước


2. Chính sách kinh tế

-Nông nghiệp

+ Cướp đoạt ruộng đất, lập các đồn điền.

+ Phát canh thu tô.

- Công nghiệp

Khai thác mỏ than, kim loại, các ngành sản xuất: xi măng, điện, chế biến gỗ.

-Giao thông vận tải

Tăng cường xây dựng hệ thống đường bộ, sắt, thủy để bóc lột kinh tế, đ áp phong trào đấutranh của nhân dân

- Thương nghiệp

+ Độc chiếm thị trường.

+ Đánh thuế nặng nhất là muối, rượu , thuốc phiện.

Mục đích: khai thác thuộc địa, vơ vét sức người, sức của làm giàu tư

bản Pháp. Đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân  phục vụ cho

mục đích quân sự.

3. Chính sách văn hoá, giáo dục 

- Duy trì văn hóa, giáo dục PK,tiếng Pháp.

- Hệ thống giáo dục chia làm 3 cấp: Ấu học, Tiểu học, Trung

học.

- Mục đích của chính sách này là nô dịch và ngu dân.

II.Những biến chuyển trong xã hội VN

1. Các vùng nông thôn

a. Giai cấp địa chủ PK

- Tăng nhanh, 1 số làm tay sai cho Pháp.

- Địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước, chống Pháp.

b. Giai cấp nông dân

- Bị bần cùng hoá,mất đất.

- 1 số thành tá điền.

- 1 số đi nơi khác sinh sống và làm công nhân. Họ là lực lượng cách mạng

2. Đô thị phát triển, sự xuất hiện của giai cấp, tầng lớp mới

a. Đô thị phát triển

- Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định,Huế, Sài Gòn…

b. Các tầng lớp trong xã hội VN

- Tầng lớp tư sản: tìm lực kinh tế yếu ớt, chưa có ý thức đấu tranh dân tộc.

- Tầng lớp tiểu tư sản:Cuộc sống bấp bênh,ý thức dân tộc.

- Giai cấp công nhân: phần lớn xuất thân từ nông dân. Họ bị thực dân PK và tư sản bóc lột.

Họ có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ đi đầu.

3. Xu hướng mới trong cuộc vận động giải phóng dân tộc.

- Kinh tế, xã hội VN thay đổi.

- Tư tưởng dân chủ tư sản châu Âu thổi vào.

- Nhật giàu nhờ đi theo con đường TBCN.

 Những nhà trí thức làm cuộc cách mạng dân chủ tư sản.

Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, nền kinh tế, xã hội Việt Nam đã có những bước chuyển biến quan trọng theo chiều hướng tiêu cực, từ đó làm dấy lên nhiều mâu thuẫn trong xã hội. Vây chính sách bóc lột của thực dân Pháp gồm những nội dung nào? Hãy cùng Chúng tôi tìm hiểu về Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp.

Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp tại Việt Nam diễn ra trong hoàn cảnh nào?

– Sau khi đã bình định được cơ bản Việt Nam, năm 1897, thực dân Pháp cử Pôn Đu-me sang làm Toàn quyền Đông Dương để hoàn thiện bộ máy thống trị và tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa lần thức nhất lên các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam [1897 – 1914].

– Trong thời điểm đó, thực dân Pháp bắt đầu việc áp đặt một bộ máy cai trị tuyệt đối lên cả ba nước Đông Dương, đứng đầu là Toàn quyền Đông Dương, chúng chia Đông Dương thành 5 kỳ với sự quản lý của người Pháp với Bắc Kỳ [Thống sứ], Trung Kỳ [Khâm sứ], Nam Kỳ [Thống Đốc], Lào [Khâm sứ], Campuchia [Khâm sứ], dưới bộ máy chính quyền cấp kỳ là Bộ máy chính quyền cấp tỉnh [do người Pháp cai quản], dưới bộ máy chính quyền cấp tỉnh là Bộ máy chính quyền cấp phủ, huyện, châu, rồi đến làng, xã [bản xứ].

Mục đích của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất

Với chính sách bóc lột “chia để trị” của thực dân Pháp và bè lũ tay sai, chúng thẳng tay đàn áp và bóc lột nhân dân với mục đích:

– Vơ vét, bóc lột một cách tối đa để bù đắp vào sự tổn thất của chúng trong các cuộc chiến tranh xâm lược.

– Đồng thời, chúng cũng muốn thăm dò thế mạnh về địa hình, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, cũng như nguồn lao động tại các nước thuộc địa.

Cuộc khai thác thuộc địa lần thức nhất của Pháp được thực hiện trên nhiều lĩnh vực, nhưng tập trung ở 03 lĩnh vực chính:

Thứ nhất: Lĩnh vực nông nghiệp

– Pháp tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền. Trong cuộc khai thác này, có rất nhiều tên thực dân đã chiếm hàng ngàn, hàng vạn hecta đất để lập các đồn điền trồng lúa, trồng cà phê, chè hay cao su.

– Ép triều đình nhà Nguyễn khai khẩn đất hoang cho chúng.

Thứ hai: Lĩnh vực công nghiệp

– Thực dân Pháp tập trung và khai thác mỏ để vơ vét nguồn khoáng sản giàu có ở Việt Nam, đặc biệt là các mỏ than đá, thiếc, kẽm ở Hòn Gai, Thái Nguyên, Tuyên Quang,… Tất cả khoáng sản mà chúng vơ vét được đều được đưa về Pháp. Phần lớn các xí nghiệp khai thác mỏ đều nằm trong tay các tập đoàn tư bản pháp, đồng thời, chúng còn tận dụng nguồn nhân công lao động rẻ mạt tại Việt Nam để tiến vào các hầm mỏ làm việc cho chúng.

– Thực dân Pháp tiến hành cho xây dựng nhiều cơ sở phục vụ đời sống của chúng tại Việt Nam, như: điện, nước, bưu điện, hay cơ sở sản xuất xi măng, dệt nhằm tận dụng nhân công và nguồn nguyên liệu tại chỗ phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của chúng khi hàng hóa chính quốc chưa kịp chuyển sang.

-> Một số ngành nghề thủ công tại Việt Nam đã bị mai một như dệt, gốm, … do không có đủ điều kiện để sản xuất và đồng thời không cạnh tranh được với hàng hóa của Pháp.

Thứ ba: Lĩnh vực giao thông vận tải

– Những đoạn đường sắt ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ được xây dựng ngày càng nhiều. Tính đến năm 1912, tổng chiều dài đường sắt đã làm xong ở Việt Nam là 2.059 km, đường bộ được mở rộng đến các khu hầm mỏ, đồn điền, bến cảng và các đường biên giới trọng yếu.

– Các cây cầu, cảng biển, các tuyế đường biển ngày càng được xây dựng nhiều và vươn ra nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, mục đích xây dựng hệ thống giao thông của Pháp nhằm phục vụ cho mục đích khai thác lâu dài là chủ yếu, đồng thời góp phần hỗ trợ trong việc bóc lột nhân dân ta một cách dễ dàng.

-> Đây là một trong các lĩnh vực được thực dân Pháp tập trung phát triển một cách mạnh mẽ.

Tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Thực dân Pháp tại Việt Nam

Những chuyển biến về kinh tế:

– Từ cuối thế kỷ XIX từ một nền kinh tế thuần phong kiến: Từ một nền kinh tế với sự phát triển nông nghiệp là chủ đạo, nền công nghiệp, thủ công nghiệp và các lĩnh vực đi kèm, thì sau cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từng bước du nhập, tồn tại song song cùng phương thức sản xuất phong kiến: Bên cạnh nông nghiệp đã xuất hiện một số cơ sở công nghiệp đã xuất hiện một số ngành nghề mới: ngân hàng, giao thông phát triển mạnh.

Những chuyển biến về xã hội:

– Giai cấp cũ tiếp tục tồn tại và phân hóa:

+ Địa chủ phong kiến: phần lớn đầu hàng, làm tay sai cho Pháp, 1 bộ phận nhỏ có tinh thần yêu nước.

+ Nông dân: Khốn khổ vì nạn thuế khóa, cướp đoạt ruộng đất, một bộ phận trở thành vô sản, là lực lượng cách mạng to lớn.

– Xuất hiện lực lượng xã hội mới: giai cấp công nhân và tầng lớp tư sản, tiểu tư sản thành thị

+ Giai cấp cong nhân: xuất thân từ nông dân bị cướp đoạt ruộng đất, hay những thợ thủ công không có ruộng, tầng lớp công dân vừa ra đời, còn non trẻ, số lượng ít và từ lâu đã có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ.

+ Tầng lớp tư sản: đây là những nhà thầu khoán, chủ xí nghiệp, chủ xưởng thủ công, … các sĩ phu yêu nước thức thời. Từ đó, có thể thấy, tầng lớp tư sản được phân ra làm 2 loại: Tư sản mại bản làm tay sai cho Pháp, mục đích là để được nương nhờ ở Pháp và tư sản dân tộc: số lượng khá ít những lại có tinh thần dân tộc cao.

+ Tầng lớp tiểu tư sản: chủ yếu là tầng lớp tri thức, học sinh, sinh viên, tiểu thương, địa chủ, văn nghệ sĩ, tần lớp này có cuộc sống khá bấp bênh, nên rất có tinh thần dân tộc.

Trên đây là Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp và một số vấn đề khác liên quan. Mong rằng đây sẽ là một nguồn tài liệu bổ ích có thể giúp Quý bạn đọc trong quá trình nghiên cứu và làm việc. Nếu vẫn còn thắc mắc hoặc để biết thêm nhiều thông tin, Quý bạn đọc có thể liên hệ với chúng tôi để được tư vấn. Xin cảm ơn.

Video liên quan