Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2022

Hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Theo đó, Chiến lược cải cách tư pháp được triển khai theo 4 định hướng cơ bản: Hoàn thiện thể chế hình sự, dân sự, thủ tục tư pháp; Cải cách tổ chức các cơ quan tư pháp và các thiết chế bổ trợ tư pháp mà trung tâm là Tòa án và khâu đột phá là tăng cường tranh tụng dân chủ; Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp; Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của Nhân dân đối với hoạt động tư pháp[1].

Qua 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, nhận thức của cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của hoạt động tư pháp và cải cách tư pháp được nâng lên rõ rệt. Về phương diện lập pháp, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động tư pháp có nhiều tiến bộ. Nổi bật trong quá trình soạn thảo, ban hành các luật, pháp lệnh và các văn bản dưới luật, các nguyên tắc về hạn chế quyền con người, quyền công dân đã được quán triệt đầy đủ để bảo đảm việc hạn chế quyền chỉ trong các trường hợp đã được Hiến pháp quy định và chỉ bằng luật. Các cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân cũng được quy định cụ thể trong các đạo luật thông qua việc trực tiếp quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước, trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân khác có liên quan; quy định việc tăng cường trách nhiệm, bảo đảm sự đúng đắn, nghiêm minh công bằng trong các hoạt động của cơ quan Nhà nước thông qua việc xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật của mọi chủ thể; trách nhiệm bồi thường của Nhà nước khi vi phạm để xảy ra thiệt hại cho công dân; có cơ chế bảo đảm quyền khiếu nại, khởi kiện, tố cáo nhằm bảo vệ các quyền con người nói chung. Nhiều đạo luật quy định khá cụ thể, toàn diện các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân, nhất là các đạo luật có nhiệm vụ cụ thể hóa trực tiếp các quyền mà Hiến pháp giao, hạn chế tối đa các điều khoản ủy quyền quy định chi tiết thi hành luật[2].

Việc chú trọng kỹ thuật lập pháp trong quá trình xây dựng các đạo luật có nhiệm vụ cụ thể hóa các quyền con người cũng như các đạo luật trong các lĩnh vực khác đã góp phần đáng kể trong việc bảo đảm nguyên tắc việc hạn chế quyền chỉ được giới hạn bởi các quy định của luật, chú trọng trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp. Nhiều đạo luật khi được ban hành đã được dư luận xã hội đánh giá cao.​​​

Từ tháng 6/2005 đến nay đã có 53 luật, 19 pháp lệnh liên quan đến lĩnh vực tư pháp được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành để cụ thể hóa mục tiêu, các định hướng cải cách tư pháp, quán triệt, thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực Nhà nước, bảo vệ công lý, quyền con người trong Hiến pháp năm 2013; hệ thống pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp và tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện theo đúng định hướng của Đảng về cải cách tư pháp. Cụ thể: Pháp luật về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân cùng các đạo luật về tố tụng[3]đã kịp thời thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về tòa án, viện kiểm sát nhân dân[4]và các quan điểm về cải cách tư pháp. Pháp luật hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp đã được hoàn thiện theo các mục tiêu, định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra, như tăng tính hướng thiện, nhân đạo trong chính sách hình sự. Luật Tố tụng hành chính năm 2010 được xây dựng theo hướng mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các khiếu kiện hành chính, bảo đảm sự bình đẳng giữa người dân và cơ quan công quyền trước tòa án. Luật Thi hành án dân sự năm 2008 [sửa đổi, bổ sung năm 2014] và Luật Thi hành án hình sự năm 2010 đều hướng tới bảo đảm các bản án, quyết định của tòa án được thi hành nghiêm minh theo các nguyên tắc, trình tự, thủ tục minh bạch, dân chủ, công khai, phù hợp với tính chất của từng loại án, quy định rõ tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thi hành án, cơ quan quản lý thi hành án, thể chế hóa những chủ trương mới trong thi hành án, như thay đổi hình thức thi hành án tử hình, xã hội hóa một số khâu thi hành án dân sự. Pháp luật tố tụng tư pháp cũng được đổi mới theo hướng kết hợp giữa tố tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng nhằm tăng tính dân chủ, minh bạch trong hoạt động tư pháp, tạo điều kiện để cá nhân, tổ chức tiếp cận công lý thuận lợi hơn.

Bên cạnh đó, pháp luật về tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp từng bước được kiện toàn theo hướng xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức được giao thực hiện các hoạt động tư pháp; tăng thẩm quyền xét xử của toà án nhân dân cấp huyện; mở rộng thẩm quyền xét xử của toà án đối với các khiếu kiện hành chính; chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên, đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp đã có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng[5]

Những kết quả nêu trên đã góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc theo mục tiêu nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế và xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong thời gian qua, việc thực hiện một số nhiệm vụ cải cách tư pháp từ phương diện lập pháp vẫn chưa theo đúng lộ trình của Chiến lược cải cách tư pháp.Trong đó, quá trình thể chế hóa một số chủ trương, định hướng nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW còn lúng túng; còn có một số quy phạm pháp luật chưa rõ hoặc chưa phù hợp với thực tiễn, chưa được các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương giải thích, hướng dẫn đầy đủ, kịp thời. Một số chủ trương nêu trong Nghị quyết liên quan đến hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự còn chưa được thể chế hóa[6]. Nhận thức và áp dụng pháp luật của các ngành, các địa phương thiếu thống nhất, ảnh hưởng đến các quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Hơn nữa, thực tế cho thấy tình hình vi phạm, tội phạm vẫn diễn biến phức tạp, xuất hiện ngày càng nhiều các loại tội phạm mới, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia; các yếu tố an ninh phi truyền thống và các tranh chấp quốc tế ngày càng phức tạp; khả năng tự bảo vệ của Việt Nam trong các tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Thực tế này đã và đang đặt ra nhu cầu tiếp tục thực hiện tốt cải cách tư pháp, tăng cường đổi mới cải cách tư pháp ở nhiều phương diện trong tình hình mới, trong đó phương diện lập pháp có tầm quan trọng đặc biệt.

Giai đoạn hiện nay là thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, căn cứ Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, quy định của Hiến pháp năm 2013 và kết quả tổng kết thực tiễn 15 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW; kết quả tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Đảng, nhóm tác giả đưa ra một số kiến nghị việc tiếp tục thực hiện cải cách tư pháp từ phương diện lập pháp như sau:

a]Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp năm 2013:

Hiến pháp năm 2013 đã đi vào cuộc sống gần 10 năm nên cần chuẩn bị cho việc tổng kết 10 năm thi hành Hiến pháp. Trên cơ sở kết quả tổng kết sẽ kiến nghị việc sửa đổi Hiến pháp năm 2013 cho phù hợp tình hình mới, trong đó đặc biệt quan tâm chế định quyền con người, quyền công dân và chế định về các thiết chế bảo đảm quyền con người, quyền công dân Đó là các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung, cơ quan tư pháp nói riêng và thiết chế hiến định độc lập về bảo vệ Hiến pháp. Trước khi sửa đổi Hiến pháp năm 2013, cần tập trung:

- Tiếp tục cụ thể hóa quy định tại khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định. Nghiên cứu về cơ chế vận hành, thiết chế bảo vệ Hiến pháp và các điều kiện bảo đảm thực hiện trong thực tiễn.

- Hiến pháp năm 2013 đã xác địnhtòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Theo đó, nhiều nội dung quan trọng về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân cũng đã được bổ sung, sửa đổi[7]và đã được cụ thể hoá trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Bên cạnh đó, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khoá IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra một số nhiệm vụ về việc tiếp tục triển khai thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp trong thời gian tới, trong đó có nhiệm vụxây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các hoạt động tư pháp. Những nội dung này cần tiếp tục được thể hiện trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các đạo luật về tố tụng.

- Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp và viện kiểm sát nhân dânthực hiện kiểm soát quyền lực tư pháp.Theo đó, cần:

+ Thống nhất nhận thức về quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN. Tiếp tục kiện toàn, sắp xếp lại tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân, nhất là toà án nhân dân cấp huyện, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.

+ Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy các cơ quan thực hiện hoạt động tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp khoa học, hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Xác định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của tòa án trong việc thực hiện quyền tư pháp; xã hội hóa các hoạt động bổ trợ tư pháp, huy động tối đa các nguồn lực xã hội tham gia hỗ trợ hoạt động tư pháp.

+ Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các đạo luật về tố tụng tư pháp, tổ chức và hoạt động của tòa án, viện kiểm sát để thể chế hoá đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng trong Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014[8]và quy định của Hiến pháp năm 2013 về chức năng, nhiệm vụ của tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân[9].

+ Nghiên cứu xây dựng cơ chế, tạo điều kiện cho Tòa án nhân dân Tối cao tập trung thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ chính là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, giám đốc việc xét xử của các tòa án khác, tổng kết thực tiễn xét xử của các tòa án, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.

+ Nghiên cứu việc tiếp tục mở rộng phạm vi, tăng thẩm quyền của toà án trong giải quyết các tranh chấp, xử lý vi phạm.

+ Cần có định hướng để nâng cao vị trí, vai trò của tòa án nhân dân nói chung và của thẩm phán nói riêng, trong đó, cần coi thẩm phán là một ngạch công chức đặc biệt, quy định nhiệm kỳ dài hơn, ổn định hơn, tiến đến chế độ bổ nhiệm một lần cho đến khi về hưu. Cần tiếp tục chủ trương nghiên cứu việc thành lập tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động của các tòa án nhân dân cấp huyện hiện nay.

b] Kiến nghị sửa đổi các luật cụ thể:

- Trong thời gian tới, cần tiếp tục quán triệt, thể chế hóa các chủ trương, định hướng về hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp đã nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW. Đồng thời sửa đổi, bổ sung các quy định không phù hợp với thực tiễn triển khai công tác phòng, chống vi phạm, tội phạm, giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế; tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự nhằm xử lý triệt để các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, gian lận thương mại, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng giả. Tiếp tục hoàn thiện chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại; mở rộng khả năng áp dụng các chế tài không tước tự do, nhất là với nhóm tội phạm kinh tế.

- Nghiên cứu bổ sung quy định chuyển đổi hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ thành hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp người bị kết án không thể chấp hành án để bảo đảm tính răn đe, phòng ngừa của các hình phạt; bổ sung quy định tội phạm và hình phạt đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế. Tiếp tục xây dựng cơ chế khuyến khích các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia phòng, chống các hành vi vi phạm, tội phạm; bảo vệ, khen thưởng người có công trong đấu tranh phòng, chống vi phạm, tội phạm.

- Tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các chế định về quyền sở hữu, hợp đồng, bồi thường, bồi hoàn, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch, thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển lành mạnh.

- Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tố tụng hình sự theo hướng nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc những yếu tố khoa học, tiến bộ của mô hình tố tụng tranh tụng; sửa đổi các quy định của mô hình tố tụng thẩm vấn không còn phù hợp; tăng cường tính công khai, minh bạch và khả năng tiếp cận công lý, bảo vệ quyền của Nhân dân khi tham gia tố tụng; đổi mới căn bản thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Tiến hành tổng kết việc thực hiện chế định hội thẩm nhân dân; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo hướng xác định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của hội thẩm nhân dân, thẩm phán trong hoạt động xét xử. Xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của những người tham gia hoạt động tố tụng hành chính, có chế tài xử lý các tập thể, cá nhân không thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Bổ sung, hoàn thiện cơ chế bảo đảm tính độc lập, liêm chính trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và bảo đảm khả năng tiếp cận công lý, bảo vệ quyền của người dân./.

PGS.TS. Đinh Xuân Thảo

Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp

TS. Nguyễn Thị Dung

Viện Nghiên cứu lập pháp

Video liên quan

Chủ Đề