Báo cáo kết quả sáng kiến kinh nghiệm
BÁO CÁO Kết quả thực hiện sáng kiến, cải tiến, giải pháp kỹ thuật, quản lý, tác nghiệp, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật hoặc nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT THỂ LOẠI VĂN MIÊU TẢ Ở LỚP 4 ; 5Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.43 KB, 19 trang ) Show
[Type here] CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG TIỂU HỌC A KIẾN THÀNH Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Kiến Thành, ngày 24 tháng 09 năm 2015 BÁO CÁO Kết quả thực hiện sáng kiến, cải tiến, giải pháp kỹ thuật, quản lý, tác nghiệp, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật hoặc nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ---------------------------------------I. SƠ LƯỢC LÝ LỊCH TÁC GIẢ: - Họ và tên : NGÔ MINH TẤN Nam, nữ : Nam - Ngày tháng năm sinh: ngày 24 tháng 08 năm 1986 - Nơi thường trú: 70A Long Hòa, ấp Long Hòa, TT Chợ Mới, huyện Chợ Mới - Đơn vị công tác: Trường Tiểu hoch A Kiến Thành - Chức vụ hiện nay: Giáo viên dạy lớp - Lĩnh vực công tác: Giáo viên dạy lớp II. TÊN SÁNG KIẾN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT THỂ LOẠI VĂN MIÊU TẢ Ở LỚP 4 ; 5 III. LĨNH VỰC: Phân môn Tập làm văn của môn Tiếng Việt lớp 4 ; 5 IV. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU CỦA SÁNG KIẾN: 1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến: Thực trạng học sinh: Năm (2013 – 2014), tôi được phân công phụ trách lớp 4B với 36 học sinh. Hầu hết 36 học sinh của lớp 4B tôi chủ nhiệm còn rất hạn chế khi làm bài Tập làm văn. Sau khi nghiên cứu sách giáo khoa Tiếng Việt 4, tôi nhận thấy học sinh lớp 4 đã được học văn miêu tả về đồ vật, cây cối, con vật. Nhưng qua khảo sát chất lượng đầu năm học ( 2014 – 2015 ) ở lớp 5B, đã có hơn 50% học sinh bị đánh giá chưa hoàn thành về Tập làm văn, dẫn đến môn Tiếng Việt của lớp tôi từng chủ nhiệm chưa hoàn thành chiếm 30%. Đều đó đã khiến tôi mài mò nghiên cứu để khác phục thực trạng trên. 2 [Type here] Các hạn chế của học sinh là: Bài viết của học sinh còn mắc nhiều lỗi chính tả. Học sinh chưa xác định được trọng tâm đề bài cần miêu tả. Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng. Nhiều em chưa biết dừng lại để nói kĩ một vài chi tiết cụ thể nổi bật. Vốn từ ngữ của các em còn nghèo nàn, khuôn sáo, quan sát sự vật còn hời hợt. Các em chưa biết cách dùng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả. Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm văn trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên tiểu học. Ý nghĩ cho rằng Tập làm văn là một phân môn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quả cao đã là nhận thức chung của nhiều thầy cô giáo dạy lớp 4, lớp 5. Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng Tập làm văn của học sinh không đạt yêu cầu ? Qua quá trình giảng dạy lớp 5, tôi nhận thấy học sinh học yếu Tập làm văn là do nhiều nguyên nhân. 2. Nguyên nhân của thực trạng Theo tôi có sáu nguyên nhân như sau: 1/ Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài. 2/ Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả. 3/ Khi quan sát thì các em không được hướng dẫn về kĩ năng quan sát: quan sát những gì, quan sát từ đâu ? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng cần miêu tả. 4/ Không biết hình dung bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật miêu tả khi quan sát. 5/ Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một sự vật, cảnh vật, về một con người cụ thể nào đó. 6/ Nguyên nhân cuối cùng là trách nhiệm của người giáo viên. Phân môn Tập làm văn là một môn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, nhưng lâu nay người giáo viên (nhất là giáo viên lớp 4, lớp 5) chưa có cách phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thông viết thạo Tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ. 2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến. o ĐẶT VẤN ĐỀ : Dạy tốt phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu tả nói riêng là vấn đề được nhiều giáo viên tiểu học quan tâm. Chương trình thay sách tiểu học phát huy bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết trong môn Tiếng Việt. Học sinh tiểu học ngay từ lớp 1, 2, 3 đã được tiếp xúc với nhiều dạng văn bản khác nhau, có nội dung gần gũi trong cuộc sống và kĩ năng giao tiếp của các em với cộng đồng. Đó là một 3 [Type here] ưu điểm không ai phủ nhận. Tuy nhiên, chương trình mới chuyển tải sự thay đổi cả về nội dung và kỹ năng rèn luyện lẫn hình thức, biện pháp và quy trình lên lớp . Là giáo viên, nhất là giáo viên dạy lớp 4, 5 không ai tránh khỏi những trăn trở, băn khoăn là làm thế nào giúp học sinh rèn luyện tốt kỹ năng làm bài Tập làm văn, nhất là văn miêu tả. Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của chúng ta, các em lúc chưa tròn một tuổi đã biết nói, năm sáu tuổi đã biết đọc, đã biết viết Tiếng Việt ? Chúng ta đã tự hào tiếng Việt ta phong phú, giàu hình ảnh, đa dạng về nghĩa, có sức biểu cảm sâu sắc. Nhưng một thực tế làm buồn lòng những thầy cô giáo chúng tôi vì học sinh giỏi phân môn Tập làm văn còn quá khiêm tốn. Khi chấm bài Tập làm văn, tôi thấy đa số học sinh đã biến các bài văn miêu tả thành văn kể, liệt kê một cách khô khan, nghèo nàn về từ, diễn đạt rườm rà tối nghĩa. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy- học Tập làm văn nhất là văn miêu tả cho học sinh lớp 4, lớp 5? Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi trên là một quá trình và cũng là mục đích cần hướng đến của các kỹ sư tâm hồn. Để làm tốt vai trò người tổ chức và hướng dẫn, tôi đã tìm tòi, phân tích thực trạng và lựa chọn một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tập có hiệu quả Tập làm văn miêu tả. Với những lý do trên, tôi chọn và viết đề tài : “ Một số biện pháp giúp học sinh học tốt thể loại văn miêu tả ở lớp 4 ; 5 ”, trước hết là giúp nâng cao chất lượng Tập làm văn cho lớp tôi phụ trách. Sau đó, mục tiêu quan trọng hơn là góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt nói chung. Giới hạn nghiên cứu: - Nghiên cứu và áp dụng cho học sinh lớp 4B và 5B Trường Tiểu học A Kiến Thành từ năm học 2014 – 2015 đến 2015 – 2016 và rút kinh nghiệm áp dụng cho các năm sau. CƠ SỞ LÝ LUẬN Tập làm văn là một phân môn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng hợp các kiến thức, kĩ năng từ Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu,... để viết nên một bài Tập làm văn. Theo quan điểm tích hợp, các phân môn được tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng gắn bó chặt chẽ với nhau. Như vậy, muốn dạy- học có hiệu quả Tập làm văn miêu tả (tả cảnh, tả người) nhất thiết người giáo viên phải dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Vì trong các bài đọc, trong câu chuyện, trong các bài tập luyện từ- câu thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội dung miêu tả rất rõ về cảnh vật, thiên nhiên, con người,.. Bài Tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng, góp nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới mẻ như tâm hồn của các tác giả nhỏ tuổi. Chất lượng Tập làm văn là chất lượng của cảm thụ văn học, của các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ. Cho nên, thầy và trò phải soạn giảng và học tập 4 [Type here] tích cực, nghiêm túc, hiệu quả, mới mong nâng cao một cách bền vững chất lượng môn Tiếng Việt ở lớp cuối cấp Tiểu học. Dạy Tập làm văn lớp 4 ; 5 phải đảm bảo mục tiêu yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ năng của Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng của từng môn học (ban hành kèm theo quyết định số 16 của Bộ GD-ĐT) và phù hợp trình độ của từng học sinh trong lớp mà “Hướng dẫn 896” của Bộ GD-ĐT đã đề ra. Tôi tin rằng đề tài này nếu được áp dụng và vận dụng hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cao cho phân môn Tập làm văn, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt lớp 4, lớp 5. 3. Nội dung sáng kiến: NỘI DUNG: Xuất phát từ thực trạng và nguyên nhân trên, đồng thời thấy rõ vai trò, nhiệm vụ của một giáo viên đang đứng trên bục giảng, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp sau đây, hy vọng sẽ nâng cao được chất lượng phân môn Tập làm văn cho lớp tôi. VĂN MIÊU TẢ LỚP 4 Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học lý thuyết văn miêu tả cho học sinh lớp 4. Biện pháp 1: Phân tích mẫu Phân tích mẫu để giúp HS hiểu thấu đáo mẫu đã nêu ra và làm theo mẫu. Để làm được điều này, GV cần phải sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học kết hợp tổ chức nhiều hình thức dạy học phong phú. Trong biện pháp này, tôi thường sử dụng phương pháp quan sát để học sinh quan sát mẫu, đọc thầm mẫu. Sau đó sử dụng phương pháp vấn đáp gợi mở để HS hiểu mẫu giúp cho việc định hướng bài học tốt hơn. Sau đó, GV sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ, tóm những điều cơ bản mẫu nêu ra. Chẳng hạn, khi day bài: “Thế nào là miêu tả?” HS đọc yêu cầu, đọc thầm mẫu (hình thức học cá nhân) GV yêu cầu học sinh quan sát mẫu và trả lời câu hỏi (phương pháp quan sát, phương pháp hỏi đáp, hình thức học cả lớp). Hỏi: Tên sự vật đầu tiên được miêu tả là gì ? - Cây sồi. Hỏi: Cây sồi có đặc điểm gì nổi bật ? - Cao lớn, lá đỏ chói lọi, lá rập rình động như những đám lửa. Hỏi: “Cao lớn” tả đặc điểm gì của cây sồi ? - Hình dáng. Hỏi: “Lá đỏ chói lọi” miêu tả đặc điểm gì của cây sồi ? 5 [Type here] - Màu sắc. Hỏi: Theo em tác giả miêu tả cây sồi đang ở trạng thái nào ? - Chuyển động. Hỏi: Từ nào cho biết lá cây sồi đang chuyển động ? - Rập rình. Giáo viên tóm ý: Phần mẫu đã chỉ ra một số đặc điểm sự vật đầu tiên được miêu tả hình dáng, màu sắc, chuyển động. Sau khi thực hiện các biện pháp phân tích mẫu, tôi thấy các em biết vận dụng mẫu và làm tốt các phần tiếp theo. Biện pháp 2: Hình thành lý thuyết - tìm đặc điểm nổi bật Trong quá trình hình thành lý thuyết miêu tả cho học sinh lớp 4, GV cần sử dụng một số phương pháp đặc trưng như phương pháp trực quan, phương pháp quan sát, phương pháp vấn đáp gợi mở, phương pháp phân tích ngôn ngữ kết hợp với hình thức dạy phù hợp nhằm phát huy tính tích cực của HS trong giờ học. Ở các bài hình thành lý thuyết văn miêu tả, GV thường tiến hành hướng dẩn HS nhận diện đặc điểm loại văn miêu tả thông qua những gợi ý, nhận xét trong SGK. Các thao tác được làm theo trình tự như sau: - Yêu cầu HS đọc mục nhận xét trong SGK, khảo sát văn bản để trả lời từng câu hỏi gợi ý. - Hướng dẩn HS trao đổi, thảo luận nhằm rút ra những nhận xét về đặc điểm văn miêu tả. - Ví dụ dạy bài:” Cấu tạo của bài văn miêu tả cây cối” ( TV lớp 4 tập 2/31). Giả sử dùng phương pháp trực quan, phương pháp quan sát, GV đưa trực quan tranh “Bãi ngô”. Sau đó mỗi cá nhân sẽ xác định đoạn văn và nội dung từng đoạn. - GV cho HS đọc yêu cầu 2; 3 phần nhận xét, thảo luận nhón đôi 2 yêu cầu đó. - HS trình bày kết quả thảo luận chính là các em được thực hành giao tiếp. HS sẽ so sánh, đối chiếu, phân tích được trình tự miêu tả trong bài “Bãi ngô” là theo từng thời kỳ phát triển của cây ngô. Sau đó, GV dùng phương pháp vấn đáp gợi mở, phương pháp phân tích ngôn ngữ. Hỏi: Bài văn miêu tả những thời kỳ phát triển nào của cây ngô ? + HS dễ dàng nhận thấy được bài văn miêu tả cây ngô từ lúc còn bé lấm tấm như mạ non, rồi tả cây ngô lúc trưởng thành, lá rộng dài, tiếp đến tả hoa ngô, bắp ngô non ở giai đoạn đơm hoa kết trái, cuối cùng tả hoa ngô và lá ngô giai đoạn bắp ngô mập, chắc. Còn trình tự miêu tả trong bài “Cây mai tứ quý” theo từng bộ phận của cây. Hỏi: Bài văn tả những bộ phận nào của cây mai tứ quý ? - Tán, gốc, cành, cánh hoa, trái. Bài văn đã sử dụng tự loại nào ? Biện pháp nghệ thuật gì để miêu tả bộ phân đó? - Bài văn sử dụng nhiều tính từ miêu tả như: xòe, vàng thắm, chín đậm. Biện pháp nghệ thuật so sánh: Gốc lớn bằng bắp tay. 6 [Type here] GV dùng phương pháp phân tích ngôn ngữ chốt lại nội dung yêu cầu 2: Bài văn miêu tả cây cối có thể tả theo thứ tự từng bộ phân của cây (gốc, thân, cánh, lá, hoa, quả) hoặc là từng thời ký pháy triển theo mùa trong năm. Từ đó HS dễ dàng tổng hợp được cấu tạo bài văn miêu tả gồm 3 phần: 1. Mở bài: Tả hoặc giới thiệu bao quát về cây. 2. Thân bài: Tả từng bộ phân của cây hoặc từng thời ký phát triển của cây. 3. Kết bài: Có thể nêu lợi ích của cây, ấn tượng đặc biệt hoặc tình cảm của người tả với cây. Ví dụ 2: Dạy bài “Quan sát đồ vật” (TV lớp 4 tập I/153). GV sử dụng phương pháp trực quan, phương pháp quan sát ở chỗ GV cho HS quan sát đồ chơi mà trẻ đem tới lớp, kết hợp quan sát tranh một số trò chơi, như gấu bông, con lật đật, con búp bê… Học sinh đọc phần gợi ý SGK/154 (học cá nhân). Sau khi hướng dẩn đọc phân tích mẫu, GV sử dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu, HS luyện tập theo mẫu đã gợi ý. Sau đó GV yêu cầu HS: - Hãy quan sát một số đồ chơi mà em thích và ghi lại những điều quan sát được. - HS vừa quan sát vừa ghi lại ý quan sát, sau đó sắp xếp ý để tạo thành dàn ý tả đồ chơi mà em thích. GV cho HS trình bày những ý đã ghi được sau khi quan sát theo một dàn bài( luyện thực hành giao tiếp cho HS). Ví dụ về một dàn bài: 1-Mở bài: Giới thiệu đồ chơi mà em thích nhất là Gấu bông. 2- Thân bài: - Hình dáng bên ngoài: Gấu bông không to, gấu đang ngồi, dáng tròn. - Bộ lông màu trắng mịn như nhung. - Hai mắt đen nháy rất thông minh. - Mũi đỏ, trông ngộ nghĩnh. - Trên cổ thắt chiếc nơ màu đỏ chói. 3-Kết luận: Em yêu quý gấu bông, ôm gấu bông em rất thích. Sau đó GV sử dụng hình thức thảo luận nhóm, cho học sinh thảo luận yêu cầu 2 của phần nhận xét: - Theo em khi quan sát đồ vật cần chú ý những gì ? - Học sinh trình bày kết quả thảo luận (rèn thực hành giao tiếp). - GV sửa chữa bổ sung. GV dùng phương pháp phân tích ngôn ngữ để HS thấy được: để miêu tả đồ vật phải quan sát đồ vật. Cách quan sát từ hình dáng bên ngoài đến các bộ phận chính là quan sát đồ vật theo tình tự hợp lý. Khi quan sát đồ vật sử dụng nhiều giác quan. Cần tìm ra đặc điểm riêng của đồ vật, phân biệt đồ vật với đồ vật khác nhất là đối với đồ vật cùng loại ( cùng là gấu bông nhưng có con lông màu đỏ, có con màu nâu, có con mũi đỏ có con mũi đen.) 7 [Type here] Tóm lại, biện pháp trên, HS tự hình thành lý thuyết về văn miêu tả về “Cấu tạo bài văn miêu tả cây cối” và “Quan sát đồ vật”. Các em biết vận dụng lý thuyết văn miêu tả để viết một bài văn miêu tả một loại cây, một đồ vật có bố cục rõ ràng, các phần đủ ý, biết sử dụng nghệ thuật nhân hóa, so sánh, dùng từ gợi tả màu sắc, hoạt động để bài văn thêm sinh động, giàu hình ảnh. Biện pháp 3: So sánh tới nhận diện Để giúp HS nhận ra một văn bản thuộc thể loại văn miêu tả, GV cần đặt bên cạnh nó một văn tả khác, chẳng hạn như văn bản kể chuyện. GV yêu cầu HS phải nêu ra được văn bản nào thuộc thể loại văn miêu tả và HS lý giải được vì sao nó là văn bản miêu tả. Để làm được điều này GV cần sử dụng phương pháp quan sát, phương pháp đối chiếu, phân tích, tổng hợp, phương pháp vấn đáp gợi mở để rút ra kết luận cần thết về văn miêu tả. Ví dụ: GV yêu cầu HS đọc bài “Cái nón” (TV 4tập II/11) và bài “Bốn anh tài” (TV 4 tập II). Hãy cho biết văn bản nào la văn bản miêu tả ? Vì sao ? GV sử dụng phương pháp quan sát, hình thức học cá nhân, yêu cầu HS đọc thầm. Khảo sát 2 văn bản trên. Sau đó dùng phương pháp vấn đáp gợi mở, kết hợp với hình thức học tập cả lớp. Hỏi: Văn bản “Bốn anh tài” nói về điều gì ? - Kể về tài năng, sức khỏe bốn anh tài. Hỏi: Văn bản “Cái nón” nói về điều gì ? - Tả các bộ phận cái nón. Hỏi: Vậy văn bản nào thuộc thể loại văn bản miêu tả ? - Văn bản “Cái nón”. Hỏi: Vì sao ? Học sinh so sánh đối chiếu, phân tích tổng hợp để thấy được văn bản “Cái nón” thuộc thể loại văn miêu tả vì văn bản tả các bộ phận của một cái nón: miệng nón, vành nón, lá nón, chỉ ra được đặc điểm nổi bật của cái nón. GV giúp HS hiểu rằng: văn bản “Bốn anh tài” nói về nhân vật, tính cách nhân vật. Tóm lại, từ việc so sánh hai văn bản kể chuyện, miêu tả, HS nhận diện được loại văn miêu tả. VĂN MIÊU TẢ LỚP 5 Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học lý thuyết văn miêu tả cho học sinh lớp 5. 1. Giáo viên phải nắm vững nội dung, chương trình và phương pháp dạy Tập làm văn: Dạy như thế nào để học sinh học giỏi Tập làm văn, viết được những bài văn miêu tả sinh động ? Điều cơ bản là người dạy phải nắm vững nội dung chương trình, đồng thời biết chọn và vận dụng phương pháp phù hợp để truyền thụ kiến thức cho học sinh. Biết được học sinh cần gì, chưa biết những gì để xác định đúng 8 [Type here] mục tiêu bài dạy, xác lập được mối quan hệ giữa kiến thức bài dạy với kiến thức cũ và kiến thức sẽ cung cấp tiếp theo. Cụ thể, giáo viên cần nắm vững những vấn đề sau : a. Nội dung chương trình Tập làm văn lớp 5: Cả năm có 62 tiết trong đó Tập làm văn miêu tả 33 tiết (chiếm hơn 50% số tiết) với mục tiêu là trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng làm văn, góp phần cùng với các môn học khác làm giàu vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh. b. Biện pháp dạy học từng kiểu bài: Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu và làm bài tập thực hành theo các biện pháp sau: Giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập. Tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập. c. Trình tự dạy Tập làm văn: Trong phần dạy bài mới, giáo viên phải nắm vững trình tự dạy đối với hai loại bài Tập làm văn: loại bài dạy lý thuyết và loại bài dạy thực hành. Khi dạy từng loại bài, giáo viên cần chú ý đến các đối tượng học sinh của lớp: có nội dung cho học sinh khá, giỏi; có nội dung cho học sinh trung bình, yếu,... Ví dụ: Muốn dạy học sinh làm văn miêu tả đạt yêu cầu thì giáo viên cần biết thế nào là văn miêu tả, đặc điểm thể loại văn miêu tả, biết yếu tố nào là quan trọng và cần thiết để giúp học sinh làm được bài văn miêu tả sinh động thông qua quan sát đối tượng miêu tả (Nội dung này nằm trong bước chuẩn bị bài mới của giáo viên). 2. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người để giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy (Tiếng Việt 4 tập 1, trang 140), tức là lấy câu văn để biểu hiện các đặc tính, chân tướng sự vật, giúp người đọc như được nhìn tận mắt, sờ tận tay vào sự vật miêu tả. Vì vậy, khi dạy văn miêu tả, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh quan sát và miêu tả theo các trình tự hợp lý : a. Tả theo trình tự không gian: Quan sát toàn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ trái qua phải,... (hoặc ngược lại). Ở lớp 4, lớp 5 trình tự này được vận dụng khi miêu tả loài vật, đồ vật, cảnh vật,... Ví dụ : Tả từ dưới lên trên “ Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn, dễ gãy hơn cành khế. Quả hồi phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành” (Rừng hồi xứ Lạng). b. Tả theo trình tự thời gian: Cái gì xảy ra trước (có trước) thì miêu tả trước. Cái gì xảy ra sau (có sau) thì miêu tả sau. Trình tự này thường được vận dụng khi làm Tập làm văn miêu tả cảnh vật hay tả cảnh sinh hoạt của người . Ví dụ : 9 [Type here] “...Buổi chiều, xe dừng lại ở một thị trấn nhỏ. Nắng phố huyện vàng hoe. Những em bé Hmông, những em bé Tu Dí, Phù Lá cổ đeo móng hổ, quần áo sặc sỡ đang chơi đùa trước cửa hàng. Hoàng hôn, áp phiên của phiên chợ thị trấn, người ngựa dập dìu chìm trong sương núi tím nhạt” (Đường đi Sa Pa- Tiếng Việt 4). c. Tả theo trình tự tâm lí: Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây cảm xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả sau. Khi miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ nên tả những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau của đối tượng. Ví dụ 1: “Sầu riêng là loại trái quý ở miền Nam. Hương vị của nó hết sức đặc biệt, mùi thơm đậm, bay rất xa... Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm... Hoa đậu từng chùm màu trắng ngà. Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về dáng cây kì lạ này. Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngay thẳng đuột...”. Tác giả đã tả nét đặc sắc nhất của quả, hoa và dáng cây sầu riêng. Ngoài các trình tự miêu tả trên, giáo viên cần hướng dẫn và rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác,...) để quan sát, cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả. Ví dụ 2: Phân tích bài “Mưa rào” (Tiếng Việt 5- Tập 1- Trang 33) ta thấy tác giả đã quan sát bằng các giác quan như sau: Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy mưa rơi. Xúc giác: Gió bỗng thấy mát lạnh, nhuốm hơi nước. Khứu giác: Biết được mùi nồng ngai ngái, xa lạ man mác của những trận mưa đầu mùa. Thính giác: Nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng hót của chào mào. 3. Xác định yêu cầu trọng tâm đề bài: Bài văn của học sinh được viết theo một đề bài cụ thể, cho nên yêu cầu hàng đầu là các em phải viết đúng đề bài. Một đề bài đưa ra cho học sinh viết thường ẩn chứa đến 3 yêu cầu: yêu cầu về thể loại (kiểu bài), yêu cầu về nội dung, yêu cầu về trọng tâm. Ví dụ: Đề bài ở tuần 4 lớp 5: “ Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy). Khi xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài, giáo viên phải làm sao giúp học sinh hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định nội dung bài viết: Với đề bài trên, ẩn chứa 3 yêu cầu sau: 10 [Type here] a. Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”). b. Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ “cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”. c. Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công viên….). Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề bài “Tả một cơn mưa” chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này, giáo viên cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài viết. Chẳng hạn “Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học”... Việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu hẹp nên các em có được ý cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan, chung chung,... 4. Giúp học sinh nắm đặc điểm của từng kiểu bài miêu tả: Giáo viên giúp học sinh biết dùng lời văn phù hợp với yêu cầu về nội dung và thể loại cho trước, khi luyện tập. Giáo viên cũng cần lưu ý nhắc nhở các em nắm vững các đặc điểm của mỗi thể loại, mỗi dạng bài và xác định đối tượng miêu tả. Trong mỗi bài văn phải thể hiện cái mới cái hay, cái riêng và cảm xúc của mình. KIỂU BÀI TẢ CẢNH: Cần xác định các yêu cầu sau: a. Xác định không gian, thời gian nhất định: Sau khi xác định thời gian, không gian nhất định học sinh cần biết lựa chọn trình tự quan sát. Việc quan sát có thể tiến hành ở những vị trí khác nhau nhưng vẫn phải có một vị trí chủ yếu làm cho cảnh được quan sát bộc lộ ra những điều cơ bản nhất của nó. Khi đã xác định được vị trí quan sát rồi, ta nên có cái nhìn bao quát toàn cảnh đồng thời phải biết phân chia cảnh ra thành từng mảng, từng phần để quan sát. b. Xác định trình tự miêu tả: Khi tả phải xác định một trình tự miêu tả phù hợp với cảnh được tả. Tả từ trên xuống hay từ dưới lên, từ phải sang trái hay từ ngoài vào trong... là tuỳ thuộc đặc điểm của cảnh. c. Chọn nét tiêu biểu: Chỉ nên chọn nét tiêu biểu nhất của cảnh để tả, tập trung làm nổi bật đặc điểm đó lên, có thể tả xen hoạt động của người, của vật, ... trong cảnh để góp phần làm cho cảnh sinh động hơn, đẹp hơn. d. Tả cảnh gắn với cảm xúc riêng bằng nhiều giác quan: Tả cảnh luôn luôn gắn với cảm xúc của người viết. Cảnh vật mang theo trong nó cuộc sống riêng với những đặc điểm riêng. Con người cảm nhận cảnh như thế nào sẽ đem đến cho cảnh những tình cảm như thế. Nhà thơ Lê Anh Xuân, trong niềm vui của ngày Tổ quốc hoàn toàn thống nhất, đất nước thoát khỏi ách ngoại xâm, bằng tâm trạng hạnh phúc nhất, ông đã thốt lên: “Bỗng thấy nội tôi trẻ lại 11 [Type here] Như thời con gái tuổi đôi mươi.” Đây chính là phần hồn của cảnh. Cảnh không có hồn sẽ trơ trọi, thiếu sức sống. e. Chọn từ ngữ thích hợp khi tả cảnh: Khi làm văn miêu tả cần biết lựa chọn từ ngữ gợi tả, dùng hình ảnh so sánh hoặc nhân hoá để làm nổi bật đặc điểm cảnh đang tả giúp người đọc như đang đứng trước cảnh đó và cảm nhận được những tình cảm của người viết. Ví dụ : Sau đây xin trích một số câu trong bài văn tả cảnh: “Chiều tối” của Phạm Đức (Sách Tiếng Việt 5- tập 1- trang 22): “Nắng bắt đầu rút lên những chòm cây cao, rồi nhạt dần và như hoà lẫn với ánh sáng trắng nhợt cuối cùng.” Ta thấy câu văn miêu tả sự chuyển hoá của ánh sáng từ “nhạt dần” rồi “hoà lẫn” với “ánh sáng trắng nhợt”. Tác giả cũng đã dùng mắt để quan sát sự biến đổi của ánh sáng và bóng tối, đã dùng tai để nghe tiếng dế và dùng mũi để cảm nhận hương vườn và cũng đã sử dụng nghệ thuật nhân hoá làm cho câu văn sinh động một cách rất tinh tế, khi viết: “Bóng tối như bức màn mỏng, như thứ bụi xốp, mờ đen phủ dần lên mọi vật.” “Một vài tiếng dế gáy sớm, vẻ thăm dò, chờ đợi.” “ Trong im ắng, hương vườn thơm thoảng bắt đầu rón rén bước ra và tung tăng trong ngọn gió nhẹ, nhảy trên cỏ, trườn theo những thân cành.” KIỂU BÀI TẢ NGƯỜI: Khi miêu tả người, yếu tố quan sát lại càng quan trọng. Nhìn chung, mọi người đều có những đặc điểm giống nhau nhưng lại hoàn toàn khác nhau ở những đặc điểm riêng, chỉ người đó mới có. Nhiệm vụ của giáo viên khi hướng dẫn học sinh “miêu tả người” là giúp cho các em thấy rằng phải miêu tả ngắn gọn mà chân thực, sinh động về hình ảnh và hoạt động của người mình tả. Ví dụ: Trong bài văn “Người thợ rèn” (SGK lớp 5- tập 1- trang 123). Tác giả miêu tả người thợ rèn đang làm việc: “Anh bắt lấy thỏi thép hồng như bắt lấy một con cá sống. Dưới những nhát búa hăm hở của anh, con cá lửa ấy vùng vẫy, quằn quại, giãy lên đành đạch.” Ta thấy tác giả quan sát rất kĩ và miêu tả sinh động làm nổi bật hình ảnh người thợ rèn như một người chinh phục dũng mãnh và thấy rõ quá trình biến thỏi thép thành một lưỡi rựa. Vì thế, để làm được bài văn tả người thành công, giáo viên cần giúp học sinh xác định các yêu cầu sau: a. Chú ý tả ngoại hình hoạt động: Khi tả người cần chú ý đến tuổi tác- mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có sự phát triển về cơ thể, về tâm lý riêng biệt khác nhau và có những hành động thể hiện theo giới tính, thói quen sinh hoạt, hoàn cảnh sống…. Khi miêu tả cần tập trung vào việc làm sao nêu được cái chung và cái riêng của con người được miêu tả. 12 [Type here] b. Quan sát trò chuyện trực tiếp: Khi tả người, điều cần nhất là quan sát trực tiếp hoặc trò chuyện, trao đổi ý kiến với người đó. Quan sát khuôn mặt, dáng đi, nghe giọng nói, xem xét cách nói, cử chỉ, thao tác lúc làm việc…để rút ra nét nổi bật... (chọn và quan sát người định tả trong thời gian chuẩn bị bài mới ở nhà). Ta cũng cần dùng cách quan sát gián tiếp là thông qua trí nhớ hoặc nhận xét của một người khác về người định tả để bổ sung những thông tin cần thiết. c. Tả kết hợp ngoại hình, tính nết, hoạt động: Khi miêu tả có thể tách riêng từng mặt,từng bộ phận để tả nhưng để nội dung bài văn miêu tả đạt được sự gắn bó, súc tích ta nên kết hợp tả ngoại hình, tính nết đan xen với tả hoạt động. d. Tả những nét tiêu biểu bằng tình cảm chân thật của mình: Khi tả người, điều quan trọng là cần tả chân thật những nét tiêu biểu về người đó, không cần phải tô điểm người mình tả bằng những hình ảnh hoa mĩ, vẽ nên một hình ảnh toàn diện. Làm như vậy bài văn sẽ trở nên khuôn sáo, thiếu sự chân thật làm người đọc cảm thấy khó chịu. Thầy cô giáo cần lưu ý học sinh rằng, trong mỗi con người ai cũng có chỗ khiếm khuyết nhưng nét đẹp thì bao giờ cũng nhiều hơn ( đẹp về hình thể, đẹp về tính cách, đẹp về tâm hồn….) Nếu học sinh phát hiện, cảm nhận được và biết tả hết các đặc điểm đó thì sẽ làm cho bài văn miêu tả của các em sinh động, hồn nhiên đầy cảm xúc và người đọc dễ chấp nhận hơn. Ví dụ: Trong bài văn tả “Cô Chấm” (sách Tiếng Việt 5- tập 1- trang 156) nhà văn Đào Vũ đã viết: “Chấm không phải là cô con gái đẹp, nhưng là người mà ai đã gặp thì không thể lẫn lộn với bất cứ một người nào khác.” “Chấm cứ như một cây xương rồng. Cây xương rồng chặt ngang chặt dọc, chỉ cần cắm nó xuống đất, đất cằn cũng được, nó sẽ sống và sẽ lớn lên. Chấm thì cần cơm và lao động để sống .” “Chấm mộc mạc như hòn đất. Hòn đất ấy bầu bạn với nắng với mưa để cho cây lúa mọc lên hết vụ này qua vụ khác, hết năm này qua năm khác...” 5. Làm giàu vốn từ cho học sinh Giáo viên cần có biện pháp làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh qua từng bài đọc, từng bài tập ở các môn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ- câu cùng chủ điểm. Tạo cho học sinh thói quen quan sát, đánh giá, nhìn nhận một sự vật, một cảnh vật hay một con người nào đó và thể hiện những điều đã quan sát và đánh giá được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình, kịp thời điều chỉnh những lỗi về dùng từ, viết câu, làm văn... a. Bài tập làm giàu vốn từ cho học sinh thông qua các phân môn Tiếng Việt: Môn Tập đọc giúp các em hiểu được nghĩa đen, nghĩa bóng, hiểu được nội dung của các đoạn văn, khổ thơ có ý nghĩa miêu tả (cảnh vật, con người,...). Mỗi tiết dạy Tập đọc nên thêm một vài câu hỏi về thể loại, bố cục và trình tự miêu tả của tác giả để học sinh thấm dần về Tập làm văn miêu tả. 13 [Type here] Môn Luyện từ- câu là môn có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ nhiều nhất khi dạy các tiết Mở rộng vốn từ. Trong các tiết này có các bài tập mở rộng vốn từ rất cụ thể, thiết thực như tìm từ, ghép từ, phát hiện từ miêu tả, dùng từ đặt câu, sắp xếp các từ thành nhóm miêu tả như nhóm từ ngữ miêu tả ngoại hình, nhóm từ ngữ miêu tả đặc điểm cảnh vật, nhóm miêu tả hoạt động,... Đặc biệt ở chính phân môn Tập làm văn, giáo viên có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ theo các đề tài nhỏ: Ví dụ 1: Tìm từ láy gợi tả âm thanh trên dòng sông (bì bọp, ì ọp, ì ầm, xôn xao, ào ào...) Ví dụ 2: Tìm những hình ảnh so sánh để so sánh với dòng sông: dòng sông như dải lụa, dòng sông như con trăn khổng lồ, dòng sông như người mẹ hiền ôm ấp đồng lúa chín vàng... b. Sử dụng từ ngữ trong miêu tả: Sau khi học sinh đã có một vốn từ nhất định, giáo viên giúp học sinh các cách sử dụng vốn từ trong miêu tả như: sử dụng từ láy, sử dụng tính từ tuyệt đối (đỏ mọng, đặc sệt, trong suốt...), sử dụng các biện pháp nghệ thuật (so sánh, nhân hoá, ẩn dụ...). Ví dụ 1: Cho các từ “ríu rít, líu lo, liếp chiếp, rộn ràng, tấp nập, là là, từ từ...” Hãy chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau: “Tiếng chim... báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Ông mặt trời... nhô lên sau luỹ tre xanh. Khói bếp nhà ai... bay trong gió. Đàn gà con... gọi nhau,...theo chân mẹ. Đường làng đã... người qua lại.” Ví dụ 2: Hãy chọn từ ngữ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống để được các câu văn có hình ảnh so sánh phù hợp nhất (tiếng chuông, chùm sao, thuỷ tinh, dải lụa, giọng bà tiên). - Hoa xoan nở từng chùm trông giống như... ( những chùm sao ) - Nắng cứ như...xối xuống mặt đất. ( thuỷ tinh ) - Giọng bà trầm ấm ngân nga như... ( tiếng chuông ) Ở ví dụ 1 và ví dụ 2, cho số từ nhiều hơn số chỗ trống cần điền, buộc HS phải suy nghĩ kĩ hơn khi chọn từ. 6. Lập và hoàn thiện dàn ý Để làm một bài văn đúng trình tự, đầy đủ nội dung, hay về ý tứ lời văn, đẹp về hình ảnh sống động, dùng từ viết câu chính xác, rõ ràng... đòi hỏi học sinh phải có vốn kiến thức về từ ngữ, kiến thức về câu, về cách xây dựng văn bản. Khi học sinh đã được cung cấp những từ ngữ miêu tả rồi, giáo viên cần tổ chức, hướng dẫn cho các em lập dàn ý, lựa chọn sắp xếp ý để miêu tả. Mục đích xây dựng dàn ý là giúp học sinh xác định được đúng yêu cầu của từng phần: mở bài, thân bài, kết bài, xác định thể loại và đối tượng miêu tả để tránh tình trạng học sinh viết tràn lan, lạc đề và miêu tả không trọng tâm. 14 [Type here] Hoạt động tiếp theo sau khi lập dàn ý là hoàn thiện dàn ý. Đây là bước quan trọng, cần thiết để có được một bài tập làm văn viết tốt nhất. Khi làm bài vào vở, học sinh cần chú ý cách trình bày, chữ viết, lỗi chính tả. Đó là những yếu tố giúp học sinh thành công trong quá trình học Tập làm văn. Cuối cùng, khi đã làm bài xong học sinh cần kiểm tra lại bài viết của mình trước khi nộp bài. 7. Giáo viên chấm bài và trả bài viết Chương trình Tập làm văn lớp 5 có 3 tiết trả bài tả cảnh, 3 tiết trả bài tả người, 4 tiết trả bài kể chuyện, đồ vật, cây cối, con vật. Ta nhận thấy rằng có chấm bài chu đáo thì mới có tiết trả bài đạt hiệu quả. a. Chấm bài: Khi chấm bài Tập làm văn cho học sinh, mỗi bài tôi đọc qua một lượt để có cái nhìn chung về bố cục, về diễn đạt của học sinh, xem thử học sinh đã làm bài đúng thể loại, nội dung và trọng tâm bài viết chưa. Tôi ghi ra sổ chấm bài những chỗ hay, chưa hay hoặc sai những lỗi gì...của từng HS. Khi chấm điểm xong cho cả lớp, tôi đánh giá chung kết quả bài làm của học sinh và rút ra những tiến bộ cần phát huy, và những thiếu sót cần sửa chữa bổ sung để chuẩn bị cho tiết trả bài sắp tới….. b. Trả bài viết: Nội dung, phương pháp lên lớp một tiết trả bài Tập làm văn viết lớp 5, theo sách giáo khoa xác định có 3 hoạt động chính: 1. Nghe thầy (cô) nhận xét chung về kết quả bài làm của lớp. 2. Chữa bài. 3. Đọc tham khảo các bài văn hay được thầy (cô) giáo khen để học tập và rút kinh nghiệm (TV5- T1- T53). Để tiết trả bài viết đạt hiệu quả, giáo viên cần lấy thông tin từ bài viết của học sinh (đã chấm và ghi ở sổ chấm bài) và thực hiện các hoạt động trả bài một cách bài bản, có linh hoạt tuỳ theo tình hình chất lượng Tập làm văn của lớp. Hoạt động 1: Nhận xét chung về bài làm của lớp gồm các bước sau: o Bước 1: Đánh giá việc nắm vững các yêu cầu của đề bài (ghi đề, học sinh đọc đề bài, xác định 3 yêu cầu: thể loại, nội dung và trọng tâm). Đánh giá tình hình làm bài của lớp về mặt nhận thức đề (số bài đã đạt 3 yêu cầu của đề, số bài chưa đạt hoặc đạt chưa đủ 3 yêu cầu. Biểu dương cá nhân, cả lớp...). o Bước 2: Đánh giá về nội dung bài viết (cho học sinh nêu dàn ý chung của kiểu bài tả cảnh,( tả người )… Đọc một vài đoạn văn đã chọn sẵn cho học sinh nghe và nhận xét, cuối cùng giáo viên đánh giá chung về nội dung đoạn văn đó. Hoạt động 2: Chữa bài: Nội dung và cách thức thực hiện sửa chữa lỗi diễn đạt: Việc sửa chữa lỗi diễn đạt dựa trên cơ sở bài làm của cả lớp mà trong quá trình chấm bài, GV đã ghi ra các câu có vấn đề về ngữ pháp, các lỗi chính tả … Đến lúc này GV tổ chức, hướng dẫn cho HS nhận xét, sửa chữa. Định hướng 15 [Type here] như vậy sẽ giúp cho việc sửa chữa lỗi sát hợp và kịp thời uốn nắn kĩ năng diễn đạt cho lớp. Tuy nhiên, sửa như vậy sẽ dẫn đến tình trạng nhàm chán trong HS vì tiết trả bài nào cũng sửa chữa những lỗi đó. Riêng tôi, ngay từ đầu năm học đã lên kế hoạch sửa lỗi diễn đạt cho lớp, mỗi tiết trả bài viết tập trung sửa chữa cho một hoặc hai loại lỗi nào đó một cách bền vững, tức là cần có trọng tâm sửa lỗi cho từng tiết. * Hoạt động 2 này tiến hành theo 3 bước : o Bước 1: Tham gia chữa lỗi chung cho cả lớp: Ví dụ: Tiết trả bài viết số 1(tả cảnh, tuần 5) : Trọng tâm sửa lỗi là luyện từ -câu và thực trạng viết câu. o Bước 2: Học sinh đọc lại bài làm của mình, chú ý những chỗ mực đỏ ghi lời khen, chê của cô giáo. ( Ví dụ : câu hay, đoạn hay, hoặc lỗi dùng từ, lỗi viết câu, lỗi chính tả…) o Bước 3: Học sinh tự chữa bài vào vở tập làm văn. Hoạt động 3: Đọc tham khảo một số đoạn, hoặc vài bài văn hay của một số em cho cả lớp nghe để học tập và rút kinh nghiệm. V. HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: Qua những biện pháp và giải pháp tôi đã áp dụng được nêu ở trên, đến thời điểm học kì I năm học 2015 – 2016 các em đã nắm được một số vốn kiến thức nhất định để học có hiệu quả phân môn Tập làm văn. Cả lớp đều ham thích môn học, không sợ sệt khi đến tiết Tập làm văn như đầu năm học nữa. Bài làm của các em đa số đã có tiến bộ, học sinh nắm được cách sắp xếp ý, bố cục chặt chẽ, dùng từ chính xác, viết câu văn trôi chảy, mạch lạc, bước đầu có hình ảnh, cảm xúc, hiểu và vận dụng khá tốt các biện pháp tu từ trong các bài tập làm văn của mình. Các em cảm thụ được bài văn, đọc bài trôi chảy, hiểu đúng nội dung bài, nhất là rất tự tin khi đến tiết học Tập làm văn. Sau 01 năm triển khai và áp dụng sáng kiến trên vào thực tế ở năm học 2014 2015. Tôi đã thu được kết quả chất lượng môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung ở cả 02 lớp 4B và 5B như sau: 16 [Type here] CHẤT LƯỢNG TẬP LÀM VĂN LỚP 4B NĂM 2014 – 2015 Diễn biến chất lượng Tập làm văn: Điểm 5 Điểm 4 Số Thời điểm HS SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ Học kì I 31 8 26,4% 7 25,6% Học kì II 31 12 38,4 % 10 Điểm 3 SL Tỉ lệ 10 32 % 32 % 8 26,4% Điểm 1, 2 SL Tỉ lệ 5 16 % 1 3,2 % Diễn biến chất lượng môn Tiếng Việt (Điểm kiểm tra): Thời điểm Số HS Học kì I 31 Điểm 9 - 10 SL Tỉ lệ 16 52 % Học kì II 31 20 Điểm 7- 8 SL Tỉ lệ 10 32 % 64 % 8 Điểm 5-6 SL Tỉ lệ 3 9,6 % 26,4 % 3 Điểm 1,2,3,4 SL Tỉ lệ 2 6,4 % 9,6 % 0 0% ---------------------------------------------------------- CHẤT LƯỢNG TẬP LÀM VĂN LỚP 5B NĂM 2014 – 2015 Diễn biến chất lượng Tập làm văn: Điểm 5 Điểm 4 Số Thời điểm HS SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ Học kì I 36 12 33,6 % 10 28 % Học kì II 36 15 41,2 % 12 33,6 % Điểm 3 SL Tỉ lệ 9 24,4 % 7 19,6 % Điểm 1, 2 SL Tỉ lệ 5 14 % 2 5,6 % Diễn biến chất lượng môn Tiếng Việt (Điểm kiểm tra): Thời điểm Số HS Học kì I 36 Điểm 9 - 10 SL Tỉ lệ 20 56 % Học kì II 36 25 Điểm 7- 8 SL Tỉ lệ 7 19,6 % 72,8% 17 8 21,6 % Điểm 5-6 SL Tỉ lệ 6 16 % 2 5,6 % Điểm 1,2,3,4 SL Tỉ lệ 3 8,4 % 0 0% [Type here] Diễn biến chất lượng phân môn Tập làm văn sau khi áp dụng đề tài này thật tốt Chất lượng phân môn Tập làm văn đi lên rõ rệt đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt của lớp và của tổ chuyên môn. VII.MỨC ĐỘ ẢNH HƯỞNG: Biện pháp này có thể áp dụng cho thể loại văn miêu tả ở phân môn tập làm văn của môn Tiếng Việt lớp 4 ; 5. Để dạy học có hiệu quả Tập làm văn ở Tiểu học ( nhất là văn miêu tả ở lớp 4 ; 5) tôi xin có mấy đề nghị sau : 1. Đối với cấp trên : Cần điều chỉnh phân phối chương trình Tập làm văn lớp 4-5 để có thêm số tiết Tập làm văn viết và trả bài. 2. Đối với BGH nhà trường : Cần cho áp dụng đối với các lớp khối 4,5 trong trường, nhằm rút kinh nghiệm chung đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu tả nói riêng. 3. Đối với đồng nghiệp dạy lớp 4; 5 : Thầy, cô giáo cần phải đầu tư hơn nữa về phương pháp và biện pháp cho mỗi giờ học phân môn Tập làm văn ( từng thể loại, từng kiểu bài cụ thể ) để từng bước giúp các em nắm vững kiến thức, chủ động nói lên những suy nghĩ hồn nhiên của mình; nói đúng, nói hay, làm giàu thêm vốn từ ngữ và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt . VII. KẾT LUẬN Sau một năm học 2014 – 2015 và trong học kì I của năm học 2015 – 2016 áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, thành công tuy nhỏ nhoi nhưng tôi ý thức được rằng để giúp học sinh lớp 4 ; 5 làm được bài văn miêu tả sinh động, đúng kiểu bài, đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian, công sức nghiên cứu soạn giảng, có lòng nhiệt tình với học sinh và tâm huyết với nghề nghiệp. Thầy cô giáo đã miệt mài, tận tuỵ thì việc mong muốn có nhiều học sinh giỏi văn sẽ không còn là khó. Sau thời gian đầu tư nghiên cứu và áp dụng những biện pháp dạy học như trên, học sinh lớp tôi đã có chuyển biến đi lên về chất lượng phân môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung. Tập làm văn đúng là phân môn có tính chất tổng hợp và sáng tạo cao. Cho nên mỗi bài văn của từng học sinh là một tác phẩm văn học của các em, chúng ta phải tôn trọng nó, giúp đỡ nó để mỗi ngày có được nhiều học sinh giỏi văn. Biết đâu sau này trong các em, sẽ có người trở thành nhà văn, nhà thơ... Có thể nói, bước đầu thành công trong việc dạy Tập làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4 ; 5 là nguồn động viên rất lớn cho tôi. Tôi sẽ đem kinh nghiệm này tiếp tục áp dụng để giảng dạy phân môn Tập làm văn ở học kì II và các năm sau, với mong muốn lớn nhất của tôi là giúp học sinh nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cấp Tiểu học. Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã áp dụng trên, tuỳ đối tượng học sinh cũng cần có sự vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo của giáo viên. Tôi nghĩ rằng nội dung đề tài này không có nhiều điểm mới, đó chỉ là nhiệm vụ hằng ngày của 18 [Type here] giáo viên mà thơi. Nhưng đồng thời tơi cũng tin rằng nếu lâu nay ta làm chưa tốt thì bây giờ ta dốc hết tâm huyết vào, tận tuỵ với học sinh, soạn giảng nghiêm túc thì chắc chắn sẽ gặt hái được thành cơng. Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường và các bạn đồng nghiệp của trường Tiểu học A Kiến Thành đã giúp tôi hoàn thành đề tài sáng kiến kinh nghiệm này. Tôi rất vui được chia sẽ những hiểu biết của mình với q thầy cô. Tơi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật. Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến …………………………………………… …………………………………………… …………………………………………… …………………………………………… …………………………………………… …………………………………………… 19 Người viết sáng kiến NGƠ MINH TẤN 1. “3 nội dung” cơ bản khi viết báo cáoBáo cáo sáng kiến kinh nghiệm cá nhân là một văn bản tổng hợp những ý tưởng, sáng kiến, kinh nghiệm của một cá nhân về một công việc cụ thể, quản lý thành một báo cáo khoa học, đồng thời đưa ra giải pháp và ứng dụng sáng kiến đó vào thực tế. 3 Nội dung cơ bản khi viết báo cáo sáng kiến kinh nghiệm Khi viết báo cáo có rất nhiều vấn đề cập được đề cập đến, trong đó, bắt buộc phải có 3 nội dung cơ bản như sau: 1.1. Chọn đề tài báo cáo sáng kiến
1.2. Đề cương chi tiết
Viết đề cương chi tiết giúp tác giả chủ động hơn trong việc viết báo cáo sáng kiến
1.3. Viết báo cáo sáng kiến kinh nghiệm
BÁO CÁObiện pháp thực hiện có hiệu quảtrong hoạt động dạy học, giáo dục học sinh1. Tên Báo cáo Sáng kiến kinh nghiệmMột số giải pháp hướng dẫn học sinh lớp 7 tạo lập văn bản biểu cảm mang lại hiệu quả cao ở trường … 2. Thực trạng trước khi có báo cáo sáng kiếnBiểu lộ tình cảm, cảm xúc là một trong những yêu cầu cơ bản của việc làm văn biểu cảm. Nhưng thực tế dạy học cho thấy chất lượng bài viết ở hs chưa đồng đều. Nhiều bài viết chất lượng còn thấp. Phần đông hs vẫn còn khó khăn. Hs chưa biết cách hoặc “ngại” thể hiện cảm xúc của mình trong các bài viết. Bên cạnh đó, văn miêu tả, tự sự từ lâu đã “ăn sâu” vào cách làm bài của hs. Vì vậy, tuy làm văn biểu cảm nhưng hs lại chỉ tập trung “tả” và “kể” về đối tượng biểu cảm. Trong nhiều trường hợp tuy hs hiểu được đề bài, nắm được phương pháp tiến hành. Nhưng để tạo lập được một văn bản biểu cảm thực sự có ấn tượng lại là điều không hề dễ dàng. 3. Nội dung Báo cáo Sáng kiến kinh nghiệm3.1. Phân loại đối tượng học sinhTrong các bài viết của học sinh thì có sự chênh lệch khá rõ về chất lượng bài viết. Đó là chất lượng giữa hs khá, giỏi và yếu, kém. Vì vậy, việc phân loại hs để đưa ra kế hoạch, phương pháp. Nhằm nâng cao khả năng viết văn cho các em là điều tiên quyết. Ngay từ đầu năm gv tổ chức khảo sát, làm bài viết để nắm được đối tượng hs. Từ đó đưa ra những phương pháp phù hợp. Gv có biện pháp thích hợp trong việc rèn luyện kĩ năng viết văn biểu cảm cho các em. 3.2. Giúp học sinh nhận biết và phân biệt văn biểu cảm, miêu tả, tự sựVăn miêu tả, tự sự, biểu cảm là ba phương thức khác nhau trong cách hành văn. Tuy nhiên, việc nhầm lẫn lại là điều thường gặp ở mỗi hs. Vì vậy, việc giúp hs phân biệt được ba phương thức này là điều hết sức quan trọng. Đối với văn tự sự đó là phương thức trình bày một chuỗi các sự việc. Sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc. Còn văn miêu tả nhằm tái hiện lại đối tượng sao cho người đọc, người nghe hình dung được. Văn biểu cảm nhằm mượn những đặc điểm, phẩm chất của đối tượng. Trong văn biểu cảm, người ta cũng miêu tả cảnh vật, đồ vật, con người… Nhưng chủ yếu là để bộc lộ tư tưởng, tình cảm. Chính vì vậy, văn biểu cảm không miêu tả đồ vật, con người ở mức cụ thể, hoàn chỉnh. Mà chỉ chọn những chi tiết tiêu biểu nhất, nổi bật nhất. Và chi tiết đó có khả năng gợi cảm để bộc lộ cảm xúc. Để học sinh nhớ khái niệm một cách có cơ sở, giáo viên đưa ra các ví dụ, phân tích, hướng dẫn để các em hiểu phương thức biểu cảm trong ví dụ đó. 3.3. Hướng dẫn học sinh áp dụng một số cách lập ý vào bài viếtLập ý trong văn biểu cảm là một hình thức góp phần quan trọng tạo chất lượng cho bài viết. Đối với hs THCS việc áp dụng các cách lập ý đôi khi còn khá xa lạ . Đặc biệt là các em học sinh yếu, kém. Để bài viết của học sinh tốt hơn, giáo viên nên hướng dẫn các em. Phải hình thành các đoạn văn theo đối tượng biểu cảm với những cách lập ý mang lại hiệu quả cao nhất. Ví dụ như khi thực hành viết cho đề văn “Loài cây em yêu”. Học sinh có thể sử dụng khả năng quan sát của mình về loài cây đó. Từ đó các em sẽ tự hình thành khả năng suy ngẫm đến tương lai khi loài cây đó không còn gắn bó với mình nữa. Vì vậy sẽ khơi gợi cảm xúc chân thật cho hs về đối tượng biểu cảm trong hiện tại. Biểu cảm về người thân cũng không phải là ngoại lệ. Bày tỏ được tình cảm một cách tự nhiên, chân thật nhất. Việc sử dụng khả năng quan sát hình dáng, cử chỉ, việc làm của người thân, Cùng với việc đưa ra những tình huống, hứa hẹn, mong ước. Điều đó sẽ giúp người viết đảm bảo được nội dung mà bài văn biểu cảm đề ra. 3.4. Luyện viết từng đoạn văn biểu cảmĐể có bài văn hoàn chỉnh thì cách triển khai các đoạn trong bài hết sức quan trọng. Đối với hs khi mới làm quen văn biểu cảm. Trong quá trình dạy và cho luyện viết gv nên cho các em viết từng đoạn. Thông qua đó gv sẽ dễ dàng hơn trong việc hướng dẫn hs thể hiển cảm xúc. Giáo viên hướng dẫn học sinh viết các đoạn văn và nối chúng lại với nhau. Từ đó sẽ tạo thành một nội dung thống nhất và đạt được kết quả như mong muốn. 3.5. Thể hiện tình cảm chân thậtThứ không thể thiếu trong một bài văn biểu cảm chính là tình cảm, cảm xúc. Đây chính là phần gây khó khăn nhất cho các bạn hs khi làm dạng bài này. Học sinh thường không khơi gợi được cảm xúc với đối tượng nên cảm xúc nghèo nàn, không phong phú sâu sắc. Khiến bài viết rất nhàm chán và nhạt nhòa. Hoặc trường hợp thứ hai, học sinh có quá nhiều cảm xúc dành cho đối tượng. Khiến bài viết trở nên lan man, dàn trải, không đọng lại gì sau khi đọc. Vậy nên, để khắc phục tình trạng này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tập trung vào một tình cảm chủ đạo. Các em cần xoáy sâu vào tình cảm chủ đạo này để tạo được ấn tượng không phai cho người đọc. Giáo viên cần cho học sinh hiểu được tình cảm chân thật và nhân văn. Đây chính là “vũ khí” để có sự đồng cảm của người đọc, người nghe. 3.6. Hướng dẫn học sinh đưa yếu tố “tả” và “kể” vào trong văn biểu cảmBài văn biểu cảm cần đạt hiệu quả cao. Việc kết hợp “tả”, “kể” để thệ hiện tình cảm dường như là một lẽ đương nhiên. Đối tượng biểu cảm trong một bài văn biểu cảm là cảnh vật, con người và sự việc. Không có sự biểu cảm chung chung. Không có các yếu tố “tả”, “kể” chắc chắn người viết sẽ không thể thể hiện được cảm xúc của mình. Vì người viết sẽ không có đối tượng để gửi gắm tình cảm. Bên cạnh đó trong bài văn biểu cảm, tự sự và miêu tả chỉ là phương tiện. Tự sự không nhằm kể lại sự việc. Miêu tả không chỉ là tả mà chúng nhằm mục đích khêu gợi cảm xúc của người viết. Chính vì vậy, trong quá trình dạy cách viết cho học sinh giáo viên nên hướng dẫn hs. Hướng dẫn hs cách đưa yếu tố “kể”, “tả” vào bài một cách linh hoạt, hợp lí. Đây chính là “bước đệm” cho tình cảm được thể hiện. 3.7. Hướng dẫn học sinh đưa từ ngữ biểu cảm, biện pháp nghệ thuật, ca dao thơ ca vào bài viếtĐối với văn biểu cảm, việc sử dụng ngôn từ, biện pháp nghệ thuật, thơ ca, ca dao được xem là một trong những yếu tố quan trọng. Chính điều đó giúp người viết thể hiện được cảm xúc của mình. Những từ ngữ thể hiện tình cảm yêu, ghét, vui, buồn, mừng, giận… Đi kèm với những từ ngữ bộc lộ cảm xúc như: “ôi”, “biết bao”, “biết mấy”, “biết nhường nào”… Chính những từ ngữ này làm cho câu văn trở nên mượt mà hơn. Bên cạnh đó,lời bài hát, ca dao… bản chất của nó đã chứa đựng yếu tố trữ tình. Giáo viên nên hướng dẫn hs trích những lời bài hát, ca dao liên quan đến đối tượng biểu cảm. Điều đó, sẽ góp phần nâng cao hiệu quả cho bài viết. Đối với việc viết văn thì sử dụng các biện pháp nghệ thuật là điều không thể thiếu. Đặc biệt là trong văn biếu cảm. Khi người viết biết cách sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, điệp ngữ… thì việc thể hiện cảm xúc sẽ được bộc lộ rõ ràng và chân thật nhất. 3.8. Luyện viết, đọc tài liệu tham khảoĐể hs nắm vững và củng cố tri thức, kĩ năng về văn biểu cảm. Hs không phải chỉ biết, hiểu, học thuộc lòng mà quan trọng hơn là phải biết làm. Hs phải biết biết thực hành, biết sáng tạo. Việc thực hành – luyện tập phải được thường xuyên, liên tục. Người viết phải được kiểm tra đánh giá, rút kinh nghiệm. Giáo viên phải có yêu cầu, nghiêm túc song cũng cần phải động viên, khích lệ. Thế nên, đối với phần luyện viết giáo viên nên yêu cầu hs có một quyển tập luyện viết. Về nhà hs luyện viết theo những nội dung giáo viên dặn dò. Khi lên lớp gv có thể trực tiếp kiểm tra tập các em. Hoặc giao nhiệm vụ cho ban cán sự lớp. Bên cạnh đó, việc đọc các tài liệu tham khảo cũng là cách để học sinh học hỏi. Hs sẽ nâng cao khả năng viết văn cho mình. Trong các tiết Tập làm văn giáo viên sẽ dành thời gian đọc cho hs nghe các bài văn mẫu. Những bài văn của các bạn khá giỏi để hs yếu, kém có thể tham khảo. 4. Hiệu quả của báo cáo sáng kiến* Trước khi vận dụng sáng kiến: Kết quả khảo sát chất lượng môn Ngữ văn đầu năm
Nhận xét: Qua kết quả khảo sát đầu năm tỉ lệ học sinh Yếu – Kém khá cao. Học sinh Khá – Giỏi chiếm tỉ lệ thấp. * Sau khi vận dụng Báo cáo Sáng kiến kinh nghiệm:Kết quả chất lượng môn Ngữ văn Học kì I
Kết quả đạt được : Giỏi : tăng 13.3%; Khá : tăng 14.9 %; Trung bình : tăng 6 %; Yếu – Kém : giảm 34.4 %. Qua thời gian thực hiện các giải pháp trên. Bước đầu tôi thấy chất lượng bài viết của học sinh được nâng lên. Số lượng bài viết bị điểm kém giảm đi rõ rệt. Việc áp dụng các phương pháp đa dạng phong phú làm cho tiết dạy hay hơn. Tiết dạy trở nên hấp dẫn hơn, dễ dàng khơi gợi nội dung bài học. Nhờ đó hs tự phát hiện thông tin, tự trình bày theo cách hiểu của mình. Hs yếu, kém trở nên năng động, tự tin hơn trong việc tiếp thu kiến thức. Kết quả điều tra cho thấy, đa số hs yếu, kém đều thích học thông qua các phương pháp này. Nhiều em rất thích thú khi tự tìm hiểu, khám phá nội dung bài học. Tạo được hứng thú học tập cho học sinh. Giúp các em hiểu và yêu môn Ngữ văn hơn. Kết quả học tập được nâng lên, số học sinh yếu, kém giảm rõ rệt. * Phần cam kếtTrên đây là Báo cáo sáng kiến kinh nghiệm. Thực hiện có hiệu quả trong hoạt động dạy học, giáo dục học sinh. Bản thân tôi đã được vận dụng hiệu quả ở trường. Chưa được dùng để báo cáo ở bất cứ đâu. Chưa dùng để xét duyệt thành tích cá nhân trước đó.
|