Vì sao ngành nuôi trồng thủy sản nước ta trồng những năm quả phát triển rất nhanh

Answers [ ]

  1. a, Ngành nuôi trồng thủy sản nước ta trong những năm qua tăng nhanh vì :

    – Thị trường trong và ngoài nước ngày càng mở rộng.

    – Nước ta có nhiều tiềm năng để phát triển ngành thuỷ sản:

    + Có bờ biển dài 3260 km, vùng đặc quyền kinh tế rộng.

    + Nguồn lợi hải sản khá phong phú.

    + Nước ta có nhiều sông suối, kênh rạch, ao hồ, các ô trũng ở vùng đồng bằng có thể nuôi cá, tôm nước ngọt.

    – Sự phát triển mạnh của công nghiệp chế biến và các dịch vụ thuỷ sản.

    b, Đông Nam Bộ trở thành vùng có tỉ trọng giá trị sản xuất công nghiệp dẫn đầu cả nước vì :

    -Có diện tích tự nhiên chiếm 8,4% diện tích tự nhiên cả nước, dân số chiếm 15,6% dân số cả nước. –Vùng có cửa ngõ phía tây tiếp giáp với Cam-pu-chia và các nước Thái-lan, Ma-lai-xi-a thông qua mạng đường bộ xuyên Á [ nơi diễn ra nhiều hoạt động kinh tế sôi động]

    ⇒ Đã và đang có sức hút mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.

    -Vùng còn là nơi tập trung trữ lượng dầu mỏ lớn nhất cả nước, còn 16 vạn ha đất chưa sử dụng.

    -Có trình độ chuyên môn cao, năng động, thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường hơn so với các vùng khác

    -Trong vùng còn tập trung nhiều trường đại học, dạy nghề; có lực lượng trí thức đông đảo và tâm huyết.

    ⇒Tốc độ đô thị hóa trong vùng khá cao và nhanh so với cả nước.

  2. a vì:
    – Thị trường trong và ngoài nước ngày cảng mở rộng.
    – Nước ta có nhiều tỉềm năng để phát triển ngành thủy sản:
    -Có bờ biển dài 3260 km, vùng đặc quyền kinh tế rộng.
    + Nguồn lợi hải sản khá phong phú.
    + Nước ta có nhiều ngư trường, trong đó có 4 ngư trường trọng điểm là: Cà Mau
    – Kiên Giang, ngư trường Ninh Thaận – Bình Thuận – Bà Rịa — Vũng Tàu, ngư trường Hải Phòng – Quảng Ninh và ngư trường quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa.
    + Dọc bờ biển có những bãi triều, đầm phá, các dải rừng ngập mặn thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản nước lợ. Ở nhiều vùng biển ven các đảo, vũng, vịnh có điều kiện thaận lợi cho nuôi thủy sản nước mặn [nuôi trên biển].
    -Nước ta có nhiều sông suối, kênh rạch, ao hồ các ô trũng – vùng đồng bằng cá thể nuôi cá, tôm nước ngọt,
    – Sự phát triển mạnh của phương tiện tàu thuyền ngày càng trang bị tốt hơn.
    – Những đổi mới trong chính sách của Nhà nước về phát triền ngành thủy sản.
    – Nhân dân có kinh nghiệm, truyền thống đánh bắt và nuôi trồng thủy sản.

    B

    Đông Nam Bộ là vùng có tỉ trọng giá trị sản xuất công nghiệp lớn nhất cả nước vì vùng có nhiều điều kiện thuận lợi về vị trí địa lí, tự nhiên và kinh tế – xã hội:

    – Về vị trí địa lí:

    + Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; có TP. Hồ Chí Minh là đầu mối giao thông vận tải lớn nhất ở miền Nam⟶ rất thuận lợi cho hoạt động vận chuyển nguyên nhiên liệu, sản phẩm.

    +Nằm gần cáccảng biển lớn và thông ra vùng biển phía Đông, có ý nghĩa giao lưu quốc tế vô cùng quan trọng [cảng TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa Vũng Tàu].

    + Nằm gần các vùng giàu có về nguyên, nhiên liệu [Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long], Đông Nam Bộ cũng là vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất cả nước.

    – Về tự nhiên:khí hậu nhiệt đới, địa hình đồng bằng rộng lớn bằng phẳng thuận lợi để xây dựng các nhà máy xí nghiệp; nguồn nước dồi dào.

    – Về kinh tế – xã hội:

    + Là nơi có dân cư tập trung đông đúc nhất cả nước, có trình độ dân trí cao và năng động. Đây vừa là lực lượng sản xuất vừa là thị trường tiêu thụ lớn.

    + Là thành phố đô thị từ lâu nên cơ sở vật chất kí thuật, cơ sở hạ tầng khá hoàn thiện, có sức hút mạnh các nguồn đầu tư trong và ngoài nước.

    + Nhà nước đang thực hiện chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp thành phố lớn này. Đây cũng là nơi đầu tiên được áp dụng các thành quả công nghệ hiện đại nhất.

    + Là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị lớn của cả nước.

Nguyên nhân nào dưới đây khiến cho ngành nuôi trồng thủy sản đang phát triển với tốc độ nhanh trong những năm gần đây?


Câu 61033 Vận dụng cao

Nguyên nhân nào dưới đây khiến cho ngành nuôi trồng thủy sản đang phát triển với tốc độ nhanh trong những năm gần đây?


Đáp án đúng: c

Phương pháp giải

Liên hệ kiến thức vai trò của ngành đánh bắt và nuôi trồng thủy, hải sản.

...

Làm thế nào để ngành thuỷ sản phát triển bền vững?

[ĐCSVN] - Việt Nam có tiềm năng lớn về nuôi trồng thủy sản. Thời gian qua, lĩnh vực thủy sản đã có những bước chuyển đổi mạnh theo hướng chất lượng và hiệu quả, có nhiều đóng góp vào nền kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nguồn lợi thủy sản có dấu hiệu suy giảm. Do vậy, làm thế nào để ngành thuỷ sản phát triển bền vững đang là vấn đề đặt ra.

Một khu vực nuôi tôm hùm ở Nha Trang, Khánh Hoà [Ảnh: Đ.H]

Nước ta có hệ thống sông ngòi dày đặc và có bờ biển dài, rất thuận lợi phát triển hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản. Sản lượng thủy sản Việt Nam đã duy trì tăng trưởng liên tục trong 17 năm qua với mức tăng bình quân là 9,07%/năm. Theo số liệu của Tổng cục Thuỷ sản, tổng sản lượng thủy sản sản xuất năm 2016 đạt hơn 6,7 triệu tấn, tăng 2,5% so với năm 2015. Trong đó, sản lượng khai thác thủy sản đạt 3.076 ngàn tấn, tăng 3% so với năm 2015. Trong khai thác thủy sản, nhiều mô hình liên kết tổ chức sản xuất đã xuất hiện như chuỗi liên kết khai thác và chế biến cá ngừ đại dương. Các công nghệ khai thác hiện đại, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong khai thác và bảo quản chất lượng sản phẩm đã được ứng dụng trong thực tiễn để nâng cao hiệu quả khai thác thủy sản; sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 3.650 ngàn tấn, tăng 1,9% so với năm 2015.

Nhờ sản lượng thuỷ sản ngày càng tăng, đã góp phần thúc đẩy ngành chế biến phục vụ cho xuất khẩu. Năm 2016, giá trị xuất khẩu đạt trên 7 tỷ USD. 6 tháng đầu năm 2017, xuất khẩu thuỷ sản đã đạt 3,6 tỷ USD, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2016. Sản phẩm thủy sản được xuất khẩu sang 164 nước và vùng lãnh thổ. 3 thị trường chính là EU, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản... chiếm trên 54% tỷ trọng. Ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, đã hình thành một số công ty quy mô lớn, công suất các nhà máy lớn tăng nhanh, vượt xa tốc độ tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu.

Trong hoạt động chế biến thuỷ sản, trước đây chủ yếu chỉ chế biến các sản phẩm dạng đông, nhưng hiện nay tỷ lệ sản phẩm giá trị ngày càng tăng, đến nay ước đạt khoảng 35%. Các sản phẩm sushi, sashimi, surimi, chế biến sâu đã có mặt ở hầu hết các nhà máy chế biến xuất khẩu. Một xu hướng mới hiện nay là chế biến phụ phẩm đạt hiệu quả cao, mang lại lợi ích kinh tế lớn và giảm thiểu tác động đến môi trường. Nhiều nhà máy đã nghiên cứu nhập dây chuyền công nghệ đồng bộ chế biến phụ phẩm cá để sản xuất dầu cá và bột cá chất lượng cao.

Xu hướng này cho thấy tình hình ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất thuỷ sản ngày càng được đẩy mạnh. Việc chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực thuỷ sản ở nước ta trong thời gian qua có bước chuyển biến đáng kể, thông qua các chương trình hỗ trợ đầu tư đóng tàu cá xa bờ và các dự án khuyến ngư. Nhiều tàu cá đã có các thiết bị điện tử hàng hải, máy thu dây, thu lưới và các thiết bị thông tin liên lạc. Một số kỹ thuật, công nghệ sơ chế, bảo quản sản phẩm thuỷ sản đã bước đầu được nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng vào thực tế của ngành khai thác thủy sản.

Hầu hết các kỹ thuật, quy trình công nghệ, thiết bị tiên tiến trong nuôi trồng thuỷ sản trên thế giới đều đã được nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tại Việt Nam như: công nghệ điều khiển giới tính và chọn giống theo tình trạng mong muốn trong sản xuất giống; hệ thống nuôi tuần hoàn [RAS], kỹ thuật nuôi ghép và nuôi kết hợp, nuôi cá nước lạnh… trong công nghệ nuôi; công nghệ enzym, vi sinh, hoá sinh, sản xuất vacine… ứng dụng trong sản xuất thức ăn, chế phẩm trong nuôi trồng thủy sản và quản lý môi trường dịch bệnh trong quá trình nuôi.

Việc đầu tư, đổi mới trang thiết bị, ứng dụng công nghệ chế biến thuỷ sản cũng có bước phát triển vượt bậc. Trình độ công nghệ chế biến sản phẩm thuỷ sản đông lạnh của Việt Nam được đánh giá là tiên tiến so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Các trang thiết bị, máy móc hiện đại, có năng suất cao, đảm bảo chất lượng, đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm như: hệ thống cấp đông IQF, hệ thống làm đá vảy, đá khô, đá lỏng, dây chuyền chế biến liên hoàn, máy phân cỡ, lạng da, máy rà kim loại, máy đóng gói hút chân không.

Việc nghiên cứu và áp dụng khoa học công nghệ trong chế biến thủy sản đã tạo ra nhiều mặt hàng mới, làm thay đổi cơ cấu sản phẩm thủy sản từ những mặt hàng thủy sản sơ chế, đến nay sản phẩm thủy sản Việt Nam đã rất phong phú, đa dạng, các mặt hàng chế biến sâu, chế biến giá trị gia tăng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của thị trường trong và ngoài nước. Sản phẩm chế biến sâu, có giá trị gia tăng cao [làm sẵn, ăn liền] ngày càng nhiều, mẫu mã, bao bì sản phẩm hấp dẫn. Nhiều sản phẩm bao gói nhỏ, tiêu thụ tại các siêu thị đang được khách hàng ưa chuộng. Cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu đang chuyển biến tích cực từ xuất khẩu nguyên liệu, sản phẩm thô, sơ chế là chính sang sản phẩm có hàm lượng công nghệ chế biến cao hơn như đồ hộp, sản phẩm ăn liền sashimi, tẩm bột, bánh nhân thủy sản, chả giò, xúc xích, xông khói, hấp chín, tẩm gia vị ăn liền, surimi và các sản phẩm mô phỏng tôm, cua,....

Để nâng cao chất lượng sản phẩm thuỷ sản, công tác giống cũng được tập trung nghiên cứu và đưa vào ứng dụng. Chẳng hạn, Tập đoàn Minh Phú đã và đang ứng dụng công nghệ cao, hợp tác với các viện nghiên cứu trong và ngoài nước để chọn tạo tôm bố mẹ [tôm sú và tôm thẻ chân trắng] kháng bệnh phù hợp với tình hình dịch bệnh và biến đổi khí hậu của nước ta hiện nay. Ngoài ra, trong lĩnh vực sản xuất giống, các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết thiết bị hiện đại, không sử dụng kháng sinh để sản xuất ra con giống tốt có chất lượng như Công ty CP Thái Lan, Việt Úc, Nam Miền Trung, Thông Thuận, Đắc Lộc…

Mặc dù có nhiều tiến bộ trong hoạt động chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ vào khai thác và nuôi trồng thủy sản ngày càng được đổi mới, nhưng đội tàu khai thác hải sản, các cơ sở sản xuất giống và nuôi trồng thủy sản của nước ta vẫn bấp bênh, chưa ổn định, chưa phát triển theo hướng công nghiệp, hiện đại. Chẳng hạn, những ngày gần đây, dư luận rất quan tâm đến chất lượng của nhiều tàu vỏ thép đóng mới theo Nghị định 67 của Chính phủ ở nhiều địa phương không đảm bảo. Điều này không những gây ảnh hưởng đến hoạt động đánh bắt và khai thác thuỷ sản, mà còn tác động xấu đến niềm tin của công luận đối với một số cơ quan chức năng. Ngành thuỷ sản vẫn sử dụng nhiều lao động, năng suất còn thấp, tổn thất sau thu hoạch vẫn còn cao. Vẫn còn rủi ro dịch bệnh, mất an toàn thực phẩm và tác động tiêu cực đến môi trường. Điều này dẫn đến sản xuất thủy sản ở nước ta đạt hiệu quả chưa cao, thiếu bền vững và không ổn định.

Một trong những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế nêu trên là việc chậm đổi mới công nghệ. Hiệu quả hoạt động chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ, công nghệ cao vào thực tế sản xuất thủy sản chưa cao. Thực tế, hoạt động chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ, công nghệ cao trong sản xuất thủy sản trong thời gian qua mang tính tự phát, manh mún, thiếu đồng bộ, sức lan tỏa chưa cao, chưa phù hợp điều kiện sản xuất thực tiễn.

Để ngành thuỷ sản đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất, chất lượng sản phẩm và thích ứng với biến đổi khí hậu, theo Tổng cục Thuỷ sản, cần đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất vật tư đầu vào như công nghệ enzym, vi sinh, hoá sinh, sản xuất vacine, thức ăn, chế phẩm và quản lý môi trường dịch bệnh chất lượng cao phục vụ nuôi trồng thuỷ sản. Ứng dụng công nghệ di truyền để tạo giống sinh trưởng nhanh, sạch bệnh, kháng bệnh phục vụ nuôi hiệu quả. Ứng dụng công nghệ cao để phát triển hệ thống máy kiểm soát chất lượng vật tư đầu vào trong nuôi trồng thuỷ sản cho các địa phương và thiết lập quản lý bằng công nghệ điện toán đám mây. Nhân rộng mô hình nuôi và chăm sóc quản lý nuôi trồng thủy sản theo hướng thâm canh, siêu thâm canh; ứng dụng hệ thống nuôi tuần hoàn [RAS] trong sản xuất giống và nuôi thương phẩm; nuôi quảng canh, sinh thái [tôm - rừng, tôm – lúa] và bán thâm canh tôm nước lợ an toàn sinh học và bảo đảm chất lượng sản phẩm. Trong khai thác thuỷ sản, ứng dụng công nghệ cao trong quy trình kỹ thuật khai thác cá ngừ và cá nổi nhỏ hiệu quả ở vùng biển xa bờ bằng tàu lưới vây đuôi. Ứng dụng công nghệ cao trong công nghệ bảo quản cá ngừ đại dương, mực và cá nổi trên tàu khai thác hải sản xa bờ đảm bảo chất lượng và hiệu quả. Xử lý nghiêm minh những cá nhân, tổ chức có sai phạm trong việc ứng dụng công nghệ mới của ngành thuỷ sản.

Nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học, nano, công nghệ CAS, công nghệ cấp đông siêu nhanh, sấy chân không thăng hoa, sấy bức xạ hồng ngoại, công nghệ enzyme, công nghệ bảo quản thủy sản sống bằng phương pháp ngủ đông, bao gói MAP [Modified Atmosphere Packaging], để tạo ra sản phẩm có hàm lượng khoa học, giá trị gia tăng cao, tiện dụng, mẫu mã bao bì đẹp, phù hợp với thị hiếu từng thị trường. Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguồn nguyên liệu thủy sản. Tập trung vào các đối tượng chủ lực, hải sản, đặc biệt là cá tra vì hiện nay vẫn chủ yếu là sản phẩm phi lê đông lạnh.

Về cơ chế, cần ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư vào nông nghiệp một cách cụ thể và thiết thực, đặc biệt chính sách hỗ trợ tiền thuê đất của dân, kinh phí chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp đầu tư nông nghiệp công nghệ cao, chi phí đào tạo lại cho nông dân và truyền thông xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, hỗ trợ các doanh nghiệp có hoạt động nghiên cứu và phát triển được tham gia vào các dự án khoa học công nghệ bình đẳng như các cơ sở nghiên cứu công. Sửa đổi Nghị định số 210/2013/NĐ-CP về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn cho phù hợp với quá trình tái cấu trúc sản xuất nông nghiệp, trong đó ưu tiên lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Sửa đổi Nghị định 55 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn để tạo động lực hấp dẫn các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nhất là nông nghiệp công nghệ cao. Có chính sách tín dụng trung hạn cho đầu tư nông nghiệp; hướng dẫn bộ thủ tục mẫu gọn nhẹ, thuận lợi về giao dịch vốn đối với các dự án nông nghiệp. Đẩy mạnh triển khai chính sách về bảo hiểm nông nghiệp trong đó có thuỷ sản.

Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư thành lập trung tâm, viện nghiên cứu, tham gia thực hiện các nhiệm vụ có hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước như các đơn vị nghiên cứu công lập. Hình thành mối liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp liên kết với những tổ chức công nghệ để thúc đẩy quá trình nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ trong thuỷ sản. Khuyến khích và có cơ chế hỗ trợ nhập khẩu công nghệ mới, công nghệ tiên tiến để đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Đầu tư công nghệ cao cần tập trung vào nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị của sản phẩm. Tập trung vào các sản phẩm xuất khẩu và các sản phẩm thay thế nhập khẩu, các sản phẩm Việt Nam có thế mạnh. Đẩy mạnh phát triển công nghệ sau thu hoạch, tạo ra những ưu thế so sánh nhất định. Có như vậy mới nâng cao được giá trị gia tăng của sản phẩm, mang lại lợi nhuận cao về cho đất nước, cho doanh nghiệp và ngư dân.

Thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ cao, mang tri thức và tiến bộ khoa học công nghệ từ nhà khoa học đến với nông dân, giúp họ áp dụng vào thực tiễn, thay đổi tập quán làm nông nghiệp theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị các sản phẩm thuỷ sản. Chính sự liên kết này sẽ giúp doanh nghiệp phát triển bền vững, giúp nông dân nâng thu nhập và nhà khoa học có động lực để nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ cao…/.

Đặng Hiếu

TIN LIÊN QUAN

  • Trách nhiệm của đơn vị thu thu phí đường bộ?
  • Báo tin giả về tội phạm có phải chịu trách nhiệm hình sự?
  • Chủ tịch nước dự Lễ Công bố huyện Tuy Phước đạt chuẩn nông thôn mới
  • Thu hẹp khoảng cách trong phát hiện và điều trị bệnh lao
  • Không chủ quan, lơ là trong công tác phòng, chống dịch khi tham gia lễ hội
  • Chính thức mở cửa lại hoạt động du lịch từ ngày 15/3
  • Thanh niên Công giáo Hoàng Mai [Nghệ An] hăng hái lên đường nhập ngũ

Video liên quan

Chủ Đề