Ví dụ về phạm trù hình thái kinh tế -- xã hội

Câu 11 Hình thái kinh tế xã hội là gì? Nêu kết cấu của HTKT-XH1. Định nghĩa hình thái kinh tế - xã hộiLần đầu tiên trong lịch sử triết học, triết học Mac-Lenin đã nghiên cứu xã hội như một kếtcấu vật chất đặc biệt, phức tạp, liên kết các yếu tố nội tại thành một hệ thống chỉnh thể vàkhông ngừng vận động, phát triển. Đó chính là hình thái kinh tế xã hộiVậy hình thái kinh tế xã hội là gì?HTKT-XH là một phạm trù dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với mộtkiểu QHSX đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của LLSX và vớimột KTTT tương ứng được xây dựng trên những QHSX ấy.Nó chính là các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa các mặt trongđời sống xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.Xã hội không phải là tổng hợp của những hiện tượng sự kiện rời rạc, những cá nhân riêng lẻmà xã hội là một chính thể toàn vẹn có cơ cấu phức tạp, trong đó có những mặt cơ bản nhấtlà lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt đó có vai trò nhấtđịnh và tác động đến các mặt khác tạo nên sự vận động của xã hội. Chính tính toàn vẹn đóđược phản ánh bằng tổng thể các mặt của hình thái kinh tế - xã hội.2. Kết cấu của HTKT -XHHTKT-XH là một hệ thống hoàn chỉnh có cấu trúc phức tạp gồm: LLSX, QHSX và KTTTNgoài các yếu tố cơ bản trên thì trong HTKT-XH còn bao gồm các yếu tố không cơ bản khácnhư quan hệ gia đình, quan hệ dân tộc và các quan hệ xã hội khácĐây là một chỉnh thể toàn vẹn cơ cấu phức tạp chứ k nói đến thứ riêng rẽ được, nó phải đanxen lẫn nhau, có quan hệ không thể tách rời nhau được và chính mặt toàn vẹn này thì ta mớicó một HTKT-XH cần có và phải có hình thái kinh tế xã hội vạch ra kết cấu cơ bản, phổ biếncủa mọi xã hội, quy luật vận động và phát triển của xã hội đó.Lực lượng sản xuất• LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa người với tự nhiên, nghĩa là trong quá trình sản xuấtcon người phải chinh phục giới tự nhiên bằng sức mạnh hiện thực của mình• Là nền tảng vật chất kỹ thuật quyết định sự hình thành phát triển và thay thế lẫn nhaugiữa các HTKT-XHLLSX bao gồm con người và TLSX [ đối tượng lao động và tư liệu lao đông]a. Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, biết sử dụng tưliệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Vd: người lao động bao gồm các tầng lớp trongxã hội như công nhân, nông dân, trí thức sử dụng kinh nghiệm và tư liệu sản xuất đểtạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu sống của mìnhb. Tư liệu sản xuất gồm•Đối tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ có bộ phận củagiới tự nhiên được đưa vào sản xuất , được con người sử dụng mới là đối tượng laođộng trực tiếp. Bao gồm những gì có sẳn trong tự nhiên như khoáng sản, động vật,…vànhững gì đã qua chế biến như gạo, …•Tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động như cái cuốc, cày,…và phương tiệnlao động như xe máy, tàu bè, máy bay,…Quan hệ sản xuấtQHSX là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.QHSX là bộ xương của cơ thể xã hội nó bao gồm các mối quan hệ của quan hệ sản xuất làquan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế-xã hội. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểucho bản chất kinh tế của mỗi hình thái kinh tế- xã hội nhất định.Thể hiện ở ba mặt:1. QH giữa người với người đối với việc sở hữu tư liệu sản xuất. Ví dụ: người đi thuê vàngười cho thuê [bằng dược, máy cày, xe…..]2. QH giữa người với người đối với việc tổ chức quản lý và phân công lao động. Ví dụ:Trong công ty người bỏ vốn làm chủ công ty và mướn người lao động3. QH giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm. Ví dụ: công ty dược với nhàthuốcBa mặt nói trên có quan hệ hữu cơ vơí nhau, trong đó quan hệ sở hữu về TLSX có ý nghĩaquyết định đối với tất cả các quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ QHSX nào cũng đều phụthuộc vào vấn đề những TLSX chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì LLSX phát triển, nếu không phù hợp thìsẽ kìm hãm sự phát triển Ví dụ: công ty đi lên hoặc phá sảnTrong hình thái kinh tế xã hội còn có bộ phận thứ 3 là kiến trúc thượng tầnga. Cơ sở hạ tầng- CSHT là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.Khái niệm CSHT phản ánh chức năng xã hội của các QHSX với tư cách là cơ sở kinh tếcủa các hiện tượng xã hội.- CSHT bao gồm QHSX thống trị, những QHSX là tàn dư của xã hội trước và nhữngquan hệ sản xuất là mầm mống của xã hội sau. Đặc trưng cho tính chất của một CSHTdo QHSX thống trị quy định.b. Kiến trúc thượng tầng- KTTT [các quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, tôn giáo, nghệthuật,…cùng với những thiết chế tương ứng] được xây dựng trên sự tổng hợp nhữngQHSX [CSHT] của xã hội ấy.- Mỗi yếu tố của KTTT có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng, nhưng có liên hệtác động lẫn nhau và đều nảy sinh trên CSHT, phản ánh CSHT, trong đó nhà nước là bộphận có quyền lực mạnh mẽ nhất của KTTT. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng củagiai cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội.KTTT do cơ sở hạ tầng quy định nhưng nó là công cụ bảo vệ, duy trì và phát triển CSHT đãsinh ra nó.Ngoài các yếu tố cơ bản trên thì trong HTKT-XH còn bao gồm các yếu tố không cơ bản khácnhư QHGĐ, quan hệ dân tộc và các quan hệ xã hội khácTrong xã hội nào bao giờ cũng có các dân tộc do vậy cần phải tạo đoàn kết gắn bó giữa dântộc này vơí dân tộc kia thì mới thúc đẩy sản xuất phát triển được. Trong mỗi dân tộc lại cócác gia đình riêng lẻ, mỗi gia đình này lại có một phong cách sống khác nhau, một GĐ tốt làcó sự đoàn kết, bố mẹ biết dạy con cái, con cái thì nghe lời bố mẹ. Còn ngược lại bố mẹkhông dạy con cái và con cái không nghe lời bố mẹ thì gia đình đó sẽ không hoà thuận.Trong GĐ thì có sự ảnh hưởng của xã hội rất lớn. Một xã hội văn minh lịch sự thì gia đìnhđó cũng sẽ tốt hơn khi tiếp xúc với mặt sáng của xã hội đó, nhưng cũng sẽ rất tồi khi tiếp xúcquá nhiều với những cái xấu như văn hoá đồ truỵ, xã hội đen...Giá trị khoa học của HTKT-XHSản xuất vật chất là cơ sở của đời sống kinh tế xã hội, phương thức sản xuất quyết định cácmặt của đời sống kinh tế xã hội. Cho nên, không thể xuất phát từ ý chí, tư tưởng, từ ý chí chủquan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội mà phải xuất phát từphương thức sản xuấtXã hội không phải là sự kết hợp ngẫu nhiên máy móc giữa các cá nhân mà là một cơ thể sốngsinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhauSự phát triển của các HTKT-XH là một quá trình lịch sử tự nhiên tức diễn ra theo các quyluật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên, muốn nhận thức đúng đờisống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của xã hộiTrong tiến trình phát triển thay thế lẫn nhau của HTKT-XH, hình thái cao hơn phủ định hìnhthái trước nhưng luôn diễn ra sự kế thừaMặc dù trên cơ sở vận động của 2 quy luật cơ bản nhưng không do nhiều yếu tố khác nhaucùng vận động mà lịch sử phát triển không đồng đều, con đường phát triển của mỗi dân tộc làkhác nhau

 Hình thái kinh tế – xã hội là gì? Mỗi hình thái kinh tế – xã hội được cấu thành từ những yếu tố cơ bản nào? Hiểu thế nào về luận điểm của C. Mác: “sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên”? Nhân tố chủ quan đóng

–    Khái niệm “hình thái kinh tế – xã hội”

Với tư cách là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái niệm hình thái kinh tế – xã hội dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.

–    Các yếu tố hợp thành một hình thái kinh tế- xã hội

+ Phương pháp luận của sự phân tích các yếu tố cấu thành một hình thái kinh tế – xã hội:

Xã hội là tổng thể của nhiều lĩnh vực với những mối quan hệ xã hội hết sức phức tạp. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng để phân tích đời sống xã hội, tiến hành trừu tượng hóa các quan hệ xã hội và phân tách ra những quan hệ sản xuất, tức là những quan hệ kinh tế tồn tại một cách khách quan, tất yếu không phụ thuộc vào ý chí con người, tiến hành “giải phẫu” những quan hệ đó. Đồng thời phân tích những quan hệ đó trong mối quan hệ phụ thuộc của nó với thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực. Phân tích những quan hệ đó trong mối quan hệ vối toàn bộ những quan hệ xã hội khác, tức với những quan hệ thuộc kiến trúc thượng tầng chính trị – xã hội, từ đó cho thấy rõ xã hội là một hệ thống cấu trúc với các lĩnh vực cơ bản tạo thành. V.I. Lênin từng nhấn mạnh rằng: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên”.

+ Các yếu tố cấu thành một hình thái kinh tế – xã hội:

Một là, các lực lượng sản xuất của xã hội ở một trình độ phát triển nhất định, đóng vai trò là cơ sở vật chất – kỹ thuật của xã hội đó.

Hai là, hệ thống quan hệ sản xuất được hình thành trên cơ sở thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất, đóng vai trò là hình thức kinh tế của các lực lượng sản xuất đó; những quan hệ sản xuất này hợp thành một cơ cấu kinh tế của xã hội, đóng vai trò là cơ sở hạ tầng kinh tế của việc xác lập trên đó một kiến trúc thượng tầng nhất định.

Ba là, hệ thống kiến trúc thượng tầng được xác lập trên cơ sở hạ tầng kinh tế, đóng vai trò là các hình thức chính trị, pháp luật, đạo đức, văn hoá…. của các quan hệ sản xuất của xã hội.

–     Hiểu thế nào về luận điểm của C. Mác: sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trinh lịch sử – tự nhiên?

Theo c. Mác: sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên.

Luận điểm đó được phân tích ở các nội dung chủ yếu sau dây:

Một là, sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà tuân theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tế – xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học,… trong đó, cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.

Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,… của xã hội, suy đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội đó.

Ba là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội, tức là quá trình thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử nhân loại và đó là sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan. Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ của nó, là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế – xã hội: nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và tương lai nhất định thuộc về hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa.

–    Nhân tố chủ quan đóng vai trò gì đối với tiến trình phát triển của lịch sử?

Trong khi khẳng định tính chất lịch sử – tự nhiên, tức tính quy luật khách quan của sự vận động, phát triển xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đồng thời khẳng định vai trò của các nhân tố khác đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử mỗi cộng đồng người cụ thể nói riêng. Đó là sự tác động của các nhân tố thuộc về điều kiện địa lý, tương quan lực lượng chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội, truyền thống văn hóa của mỗi cộng đồng người, điều kiện tác động của tình hình quốc tế đối với tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người trong lịch sử, V.V.. Chính do sự tác động của các nhân tố này mà tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người có thể diễn ra với những con đường, hình thức và bước đi khác nhau, tạo nên tính phong phú đa dạng trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. Tính chất phong phú, đa dạng trong tiến trình phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội có thể bao hàm những bước phát triển “bỏ qua” một hay một vài hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Tuy nhiên, những sự “bỏ qua” như vậy đều phải có những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.

Như vậy, lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người nói riêng vừa tuân theo tính tất yếu quy luật xã hội, vừa chịu sự tác động đa dạng của các nhân tố khác nhau, trong đó có cả nhân tố hoạt động chủ quan của con người, nó đóng vai trò là các nhân tố thuộc cơ chế vận động, phát triển của lịch sử nhân loại. Từ đó lịch sử phát triển của xã hội được biểu hiện ra là lịch sử thông nhất trong tính đa dạng và đa dạng trong tính thống nhất của nó.

–      Ý nghĩa phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế – xã hội

Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó hạt nhân là lý luận hình thái kinh tế – xã hội đã cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa học trong nghiên cứu về lĩnh vực xã hội.

Thứ nhất, theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, sản xuất vật chất chính là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất và do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát triển của đời sống xã hội và lịch sử nói chung. Vì vậy, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng hoặc từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội, mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát triển của nền sản xuất xã hội, đặc biệt là từ trình độ phát triển của phương thức sản xuất xã hội với cốt lõi là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực.

Thứ hai, theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc nữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống động. Các phương tiện của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống cấu trúc thống nhất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau. Vì vậy, để giải chính xác đời sống xã hội cần phải sử dụng phương pháp luận trừu tượng hóa khoa học – đó là cần phải xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện thực của xã hội để tiến lành phân tích các phương diện khác nhau [chính trị, pháp luật, văn hóa, khoa học,…] của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.

Thứ ba, theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, sự vận động, phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên, tức là quá trình diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan, do vậy muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động, phát triển của xã hội. V.I. Lênin từng nhấn mạnh rằng: “Xã hội là một cơ thể sống đang phát triển không ngừng [chứ không phải là một cái gì được kết thành một cách máy móc và do đó cho phép có thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào cũng được], một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cần phải phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó”.

Những giá trị khoa học trên đây của lý luận hình thái kinh tế – xã hội là những giá trị về mặt phương pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu về xã hội và lịch sử nhân loại, lịch sử các cộng đồng người, nó không thể thay thế cho những phương pháp đặc thù trong các quá trình nghiên cứu về từng lĩnh vực cụ thể của xã hội. V.I. Lênin từng dạy rằng: lý luận đó “không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương pháp… “duy nhất khoa học” để giải thích lịch sử”.

Video liên quan

Chủ Đề