Vay mượn là gì
Trường hợp vay tiền, mượn tiền trong quan hệ dân sự. Pháp luật quy định như thế nào là vay tiền? Như thế nào là mượn tiền? Show Vay tiền – mượn tiền là hai khái niệm mà nhiều người thường xuyên nhần lẫn. Vậy khi nào là vay tiền, khi nào thì được gọi là mượn tiền? Theo quy định tại Điều 163 Bộ luật dân sự thì:
Như vậy vay tiền chính là vay tài sản, mượn tiền cũng chính là mượn tài sản. Về quyền sở hữu đối với tài sản, nếu đó là tài sản vay thì bên vay sẽ trở thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản đó. Nếu đó là tài sản mượn thì quyền sở hữu tài sản vẫn sẽ thuộc về bên cho mượn, bên mượn chỉ được sử dụng tài sản đó để nhằm đạt được mục đích nhất định của mình. Về nghĩa vụ của bên vay hay bên mượn, Bộ luật dân sự quy định:
Theo những quy định trên của pháp luật, nếu là vay tài sản thì quyền sở hữu tài sản đó sẽ bị thay đổi kể từ thời điểm bên vay nhận tài sản đó. Và người vay sẽ có nghĩa vụ trả lại tài sản khác cùng loại với tài sản đã vay, nếu là tiền thì phải bằng số tiền đã vay và có thể có lãi kèm theo. Nếu là mượn tài sản thì quyền sở hữu tài sản sẽ không bị thay đổi. Người mượn tài sản sẽ phải có nghĩa vụ hoàn trả lại đúng vật mà mình đã mượn, không được thay thế bằng một vật cùng loại khác nếu không sẽ phải bồi thường thiệt hại.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568 Như vậy để xác định là vay tiên hay mượn tiền phải căn cứ vào thỏa thuận của các bên. Nếu là vay tiền thì quyền sở hữu đối với khoản tiền đó sẽ thuộc về người vay và khi đến hạn trả, người vay chỉ phải trả một khoản tiền đúng bằng số tiền đã vay (có thể có lãi kèm theo) mà không phải là đúng những tờ tiền đã vay (đúng số sơ-ri, năm sản xuất…). Nếu là mượn tiền thì quyền sở hữu với số tiền đó sẽ không thay đổi và khi đến hạn trả, người mượn phải trả lại cho người cho mượn đúng những tờ tiền mà mình đã mượn, bao gồm đúng năm sản xuất, số sơ-ri… đúng tình trạng của tài sản. Việc xác định là vay tài sản hay mượn tài sản, vay tiền hay mượn tiền sẽ xác định được quyền cũng như nghĩa vụ của các bên. Vì thế cần phải phân biệt rõ ràng giữa vay và mượn. Các ví dụ và quan điểm trong bài viết này có thể không thể hiện tầm nhìn toàn cầu về chủ đề này. Vui lòng giúp cải thiện bài viết này hoặc thảo luận về vấn đề này tại trang thảo luận, hoặc tạo bài viết mới sao cho phù hợp. Từ mượn là từ vay mượn từ tiếng nước ngoài (ngôn ngữ cho) để làm phong phú thêm cho vốn từ vựng của ngôn ngữ nhận. Gần như tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều có từ mượn, vì một ngôn ngữ vốn dĩ không có đủ vốn từ vựng để định nghĩa cho tất cả các khái niệm và việc chuyển ngữ từ vựng từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác để là xu thế tất yếu trong quá trình hội nhập của một nền văn hóa. Tuy nhiên, việc tạo mới và sử dụng các từ mượn cũng cần hết sức quan tâm để tránh làm mất đi bản sắc ngôn ngữ nhận, đánh mất sự đa dạng của ngôn ngữ; để tránh điều đó chỉ nên sử dụng từ mượn trong một ngôn ngữ khi ngôn ngữ đó không có từ thay thế hoặc từ thay thế quá dài và phức tạp.
Từ mượn xuất hiện trong một ngôn ngữ khi từ đó được nhiều người nói ngôn ngữ đó sử dụng và mang một ý nghĩa nhất định.
Bài chi tiết: Từ mượn trong tiếng Việt Trong tiếng Việt có rất nhiều từ mượn có nguồn gốc từ tiếng Hán (từ Hán Việt gốc Trung Quốc và từ Hán-Việt gốc Nhật), tiếng Pháp, tiếng Anh,... Dưới đây liệt kê một số từ mượn trong tiếng Việt:
Bài chi tiết: Từ Hán-Việt và Danh sách từ Hán-Việt gốc Nhật 陰陽 (âm dương)
八卦 (bát quái)
道德 (đạo đức)
突厥 (Đột Quyết)
氣空 (khí công)
孔子 (Khổng Tử)
五行 (ngũ hành)
儒教 (Nho giáo)
三界 (tam giới)
三教 (tam giáo)
太極 (Thái cực)
吐蕃 (Thổ Phồn)
天下 (thiên hạ)
天子 (thiên tử)
中國 (Trung Quốc)
中原 (Trung Nguyên)
萬歲 (vạn tuế)
佛教 (Phật giáo), 菩提 (Bồ đề), 菩薩 (Bồ Tát) 羅漢 (La Hán), 閰王 (Diêm Vương), 彌勒 (Di Lặc), 婆羅門 (Bà-la-môn), 比丘 (Tì-kheo), 僧團 (Tăng đoàn), 輪迴 (luân hồi), 涅槃 (niết bàn), 阿修羅 (A tu la), 釋迦牟尼 (Thích Ca Mâu Ni), 禪 (thiền), 須弥 (Tu Di)
臘腸 (lạp xưởng), 利市 (lì xì), 爐 (lẩu), 味精 (mì chính), 馬力 (mã tấu), 蝦餃 (há cảo), 水圓 (sủi dìn), 水餃 (sủi cảo), 雲吞 (vằn thắn), 油 (dầu), 叉燒 (xá xíu), 鼓油 (xì dầu), 酸梅 (xí muội), 長衫 (xường xám), 豆腐 (tào phớ)
麵 hay 米 (mì), 豆腐 (tàu hủ), 粉 (bún) Từ vay mượn từ tiếng PhápViệt Nam từng là thuộc địa của Pháp nên tiếng Pháp có điều kiện du nhập vào Việt Nam. Trong quá trình giao lưu văn hóa và ngôn ngữ đó người Việt đã vay mượn nhiều từ gốc Pháp để chỉ những khái niệm mà thường thì trong tiếng Việt không có. Phần lớn các từ đó đã bị thay đổi cả về cách đọc lẫn chữ viết để phù hợp với đặc trưng của tiếng Việt, vốn là ngôn ngữ không biến hình[1]. Các từ mượn tiếng Pháp được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như:
Từ vay mượn từ tiếng AnhTiếng Anh được coi là ngôn ngữ giao tiếp quốc tế. Vậy nên ở Việt Nam tiếng Anh là ngôn ngữ bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông và cũng là ngoại ngữ được sử dụng rộng rãi. Nhờ đó, trong tiếng Việt đã xuất hiện nhiều từ mượn tiếng Anh như: in-tơ-nét (internet), ti vi (TV), xì ke (scag),... Và bản thân tiếng Anh có ảnh hưởng từ Pháp vào năm 1066 nên nhiều từ mượn tiếng Pháp cũng có thể coi là mượn của tiếng Anh như cà rốt, cà phê, boong ke,... Từ vay mượn từ tiếng NgaMặc dù tiếng Nga được dùng trong một số nước nhưng trên thế giới từ mượn này ít xuất hiện.
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Từ_mượn&oldid=68257553” |