Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Thứ Năm, 29 /07/2021 08:05

Bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” của GS-TS.Nguyễn Phú Trọng- Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã gợi mở nhiều vấn đề quan trọng đối với sự phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Liên quan bài viết này, tôi xin được tiếp tục phân tích, làm rõ thêm vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN.

Cho đến nay, một trật tự kinh tế thị trường (KTTT) thế giới được thiết lập và điều chỉnh bởi sự khác biệt về vai trò của Nhà nước giữa các quốc gia. Bởi lẽ, KTTT không còn được hiểu thuần túy là một hệ thống tự điều chỉnh và tự tối ưu hóa với quyền tự do quyết định và hành động cho các chủ thể kinh tế, mà ít nhiều đều có sự điều tiết thị trường của Nhà nước ở tất cả các quốc gia.

Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Theo đó, Nhà nước không hành xử thụ động, mà can thiệp tích cực vào hoạt động kinh tế thông qua chính sách kinh tế, chính sách cạnh tranh hoặc kiểm soát độc quyền và chính sách xã hội, nhằm cố gắng đưa các ý tưởng về công bằng, tự do và tăng trưởng kinh tế vào một sự cân bằng hợp lý và ngăn chặn sự thất bại của thị trường.

Nhận thức rõ vấn đề này, ở Việt Nam, ngay từ khi tiến hành nền KTTT, Nhà nước ta đã khẳng định vai trò điều tiết của mình đối với thị trường, nhằm phát huy hiệu quả hoạt động của thị trường, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh kinh tế, tạo nền tảng vật chất cho việc cải thiện, nâng cao đời sống cho mọi người dân. Nhà nước có nhiệm vụ thiết lập khuôn khổ pháp lý và tổ chức nền kinh tế-xã hội, tạo ra các điều kiện khuôn khổ đáng tin cậy cho các DN và cá nhân hoạt động cũng như cạnh tranh và cân bằng xã hội được thực hiện hài hòa với nhau.

Cụ thể, Nhà nước thực hiện quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách bảo đảm cho thị trường phát triển, tuân thủ các quy luật của KTTT, hướng tới các mục tiêu như: Tạo việc làm đầy đủ cho mọi NLĐ; ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát; tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững.

Nhà nước đồng hành cùng thị trường thông qua các hoạt động: Thông tin thị trường, định hướng thị trường, kiểm soát thị trường, kết nối, liên thông thị trường, liên kết, mở rộng thị trường giữa các địa phương, các ngành, các lĩnh vực trong nước cũng như với nước ngoài theo chuỗi cung ứng toàn cầu. Qua đó, đã nâng giá trị hàng hóa của Việt Nam ngang bằng với chuẩn mực chất lượng và giá trị hàng hóa thế giới, giúp cho Việt Nam hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới, không chỉ thương mại hàng hóa và dịch vụ, mà cả sự luân chuyển vốn và việc làm.

Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất; khuyến khích và tạo sự chủ động, tự do và sáng tạo của các DN và cá nhân trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa đa dạng, phong phú cung ứng cho thị trường trên cơ sở khai thác hiệu quả các nguồn lực: Vốn, tài nguyên, đất đai, lao động; thực hiện cạnh tranh công bằng, lành mạnh nhằm đảm bảo cung cấp hàng hóa có chất lượng tốt với giá cả hợp lý vì lợi ích người tiêu dùng và tạo cho nhà sản xuất động lực để liên tục cải tiến sản phẩm cũng như tạo thêm nhiều việc làm cho NLĐ.

Nhà nước khuyến khích phát triển đồng bộ các thị trường bao gồm: Thị trường hàng hóa (trong đó có thị trường bất động sản), thị trường tiền tệ (thị trường vốn), thị trường lao động nhằm đảm bảo mối tương quan hợp lý giữa các thị trường cũng như tính minh bạch của thị trường.

Nhà nước với tư cách là một chủ thể kinh tế- người cung cấp hàng hóa (DN có vốn đầu tư của Nhà nước hoặc chiếm giữ tỷ phần vốn lớn trong một số lĩnh vực trọng yếu) sẽ gương mẫu tuân thủ các chính sách, pháp luật kinh tế, tuân thủ các nguyên tắc thị trường, cung cấp cho thị trường những sản phẩm hàng hóa với chất lượng tốt, giá cả hợp lý và giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.

Thậm chí, Nhà nước còn đứng ra hỗ trợ người sản xuất và DN trong trường hợp bị thiệt hại bởi những rủi ro bất khả kháng tác động đến thị trường. Ví dụ như: Chi trả tiền do dịch tả lợn Châu Phi năm 2020; hoãn nợ, giãn nợ, giảm lãi suất cho vay, giảm thuế… do dịch bệnh Covid-19 vào các năm 2020-2021…

Về lý thuyết, nền KTTT sẽ dẫn đến phương thức phân phối thu nhập liên quan đến hiệu suất vì thu nhập phụ thuộc vào năng lực của mỗi người như: Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn cũng như tính năng động và nỗ lực mỗi cá nhân. Những người có trình độ chuyên môn thấp hơn, ít nỗ lực và ít năng động hơn sẽ kém hơn về thu nhập. Ngoài ra, trên thực tế, việc phân phối thu nhập cũng chịu ảnh hưởng của các điều kiện khởi đầu khác nhau, có thể được hiểu bằng thuật ngữ “sức mạnh thị trường” cũng được coi là sự phân phối công bằng và hợp lý.

Tuy nhiên, khi một bộ phận dân cư trở nên nghèo khó và những người yếu thế không thể đối phó với những biến động của thị trường, thì phải cần nhiều hơn đến vai trò điều tiết xã hội của Nhà nước. Khi đó, chính sách thu nhập sẽ là một công cụ điều tiết mạnh mẽ hệ thống cạnh tranh, nhằm sửa chữa những mặt trái của thị trường bằng sự can thiệp của Nhà nước.

Trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta, việc bảo đảm an sinh xã hội và công bằng xã hội là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước gắn kết với nhiệm vụ phát triển kinh tế. Chính sách tiền lương và thu nhập nhằm ổn định giá cả sức lao động trên thị trường lao động hay đảm bảo thu nhập và ổn định cuộc sống cho NLĐ. Nhà nước thực hiện điều tiết thu nhập và phân phối lại thông qua chính sách thuế và chính sách BHXH.

Chính sách thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân sẽ tạo nguồn thu cho NSNN để sử dụng vào những mục đích quốc gia khác nhau, trong đó có việc đảm bảo các chế độ ưu đãi xã hội và các khoản trợ cấp xã hội khi cần thiết. Thực hiện nộp thuế thu nhập cá nhân cũng làm giảm hợp lý về chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Nhà nước cũng tiến hành phân phối lại thông qua chính sách BHXH và hoạt động này nhằm ổn định đời sống cho NLĐ và các thành viên trong gia đình họ khi gặp phải những rủi ro như: Ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN, mất việc làm hoặc già cả và chết.

Hơn nữa, Nhà nước cũng nhận thức rằng, trong điều kiện KTTT, sự bình đẳng về cơ hội và khả năng tận dụng cơ hội cũng là sự công bằng về mặt xã hội. Do đó, hơn bao giờ hết, chính sách xã hội mới phải là đầu tư vào vốn con người hay nguồn lực con người. Tri thức và đào tạo nhanh chóng trở nên quan trọng, bởi lẽ thành công về kinh tế của mỗi quốc gia và của mỗi cá nhân đều phụ thuộc vào hiệu quả của quá trình học tập từ các cấp phổ thông, đào tạo nghề, đại học đến đào tạo nâng cao, nghiên cứu và đổi mới. Vì vậy, vai trò của Nhà nước đối với thị trường cũng bao gồm cả việc đầu tư, phát triển lĩnh vực giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học.

Công bằng xã hội ở nước ta cũng bao gồm sự cân bằng lợi ích một cách hợp lý và bền vững giữa các thế hệ kế tiếp. Điều đó được thể hiện một phần ở chế độ hưu trí thông qua việc điều chỉnh lương hưu, nhằm đảm bảo mức sống của người nghỉ hưu cho phù hợp với mức sống chung toàn xã hội hiện thời. Đây là sự phân phối lại giữa các thế hệ trên cơ sở thế hệ trước xây dựng nền tảng để thế hệ tiếp sau phát triển và tạo nền tảng vững chắc hơn cho thế hệ tiếp sau nữa.

Khi nhà nước phát huy đầy đủ vai trò tích cực của mình đối với thị trường và xã hội, mang lại những thành quả thiết thực cho đất nước: Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định kinh tế vĩ mô và bình ổn giá cả hàng hóa; cung ứng đầy đủ hàng hóa và bảo vệ người tiêu dùng; NLĐ có đủ việc làm phù hợp với năng lực và có thu nhập như mong muốn; đời sống người dân được cải thiện và không có ai bị bỏ lại phía sau; kinh tế phát triển liên tục và bền vững theo thời gian. Những điều này cũng chính là sự khẳng định lòng tin của người dân, của DN đối với Đảng và Nhà nước; từ đó toàn tâm, toàn ý, đồng lòng tiếp bước trên con đường xây dựng CNXH ở Việt Nam.

Về phía mình, Nhà nước cần tiếp tục phát huy vai trò điều tiết thị trường và xã hội, tập trung hoàn thiện các nguyên tắc thị trường và thể chế kinh tế, nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh và năng lực đổi mới của nền kinh tế cũng như khả năng theo kịp của DN và NLĐ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Nền KTTT định hướng XHCN và giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa Nhà nước- thị trường và xã hội trong nền KTTT định hướng XHCN là một sự sáng tạo riêng có và thể hiện trí tuệ, bản lĩnh cách mạng của Đảng ta, trên cơ sở nhận thức đầy đủ về lý luận và lịch sử kinh tế thế giới, vận dụng một cách khoa học các quy luật của KTTT vào điều kiện của Việt Nam.

TS.Phạm Đình Thành

(TG) - Đường lối, quan điểm, chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là sự kế thừa và phát triển về tư duy, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, thật sự khoa học, có nhiều nội dung mới, kết tinh trí tuệ và sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Những đường lối, quan điểm, chính sách này có tính khái quát cao; vừa có tính tổng kết lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, phản ánh ý chí và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta về phát triển đất nước nhanh, bền vững.

Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Ảnh minh hoạ

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN MỚI

Báo cáo Chính trị tại Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thống nhất và nêu rõ: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu” dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”(1).

Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam như trên là sự kế thừa và phát triển nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa qua các Đại hội Đảng từ khi đổi mới đến nay, chủ yếu là 10 năm từ Đại hội XI và thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam.

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Sự hiện đại, hội nhập quốc tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được kế thừa, phát triển từ Đại hội XII và được thể hiện ở nhiều nội dung, tiêu chí khác nhau như sự hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế của thể chế, pháp luật, cơ chế, chính sách; sự hiện đại của quản trị quốc gia; sự đồng bộ, gắn kết với thị trường khu vực và thế giới của hệ thống các loại thị trường, yếu tố thị trường trong nền kinh tế…

trên cơ sở phát triển nhận thức lý luận về các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ, đầy đủ hơn vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế, chú trọng việc gắn kết giữa các thành phần kinh tế trong chỉnh thể nền kinh tế: Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Đây là chức năng quan trọng của kinh tế nhà nước, đồng thời cũng là điểm đặc trưng khác biệt, tiến bộ của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có phạm vi hoạt động rộng lớn, với vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết, phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân, có vai trò lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu.

tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nội dung và mục đích mới. Nếu ở Đại hội XII, việc hoàn thiện thể chế nhằm “nâng cao hiệu lực” quản lý kinh tế và quản lý nhà nước về kinh tế, thì Đại hội XIII nhấn mạnh mục đích xây dựng “thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập”(2) và “tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh”(3).

Ngoài ra, việc hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tập trung vào những tháo gỡ những điểm nghẽn, những vấn đề quan trọng đang cản trở sự phát triển đất nước như nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch... Đồng thời, trước yêu cầu phát triển mới, đặc biệt tác động của cuộc cách mạng lần thứ tư nhiều ngành nghề mới ra đời cần phải có môi trường pháp lý đảm bảo cho sự phát triển. Văn kiện Đại hội nêu rõ: “Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành”(4). Những điểm mới này là một cách tiếp cận vấn đề rất thực tế, một phương hướng hợp lý, tích cực nhằm phát triển kinh tế - xã hội đất nước nhanh và bền vững.

phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường. Điểm mới ở đây là khẳng định thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa dịch vụ, kể cả các dịch vụ công cơ bản.

Trong những năm qua, cơ chế thị trường của chúng ta còn lúng túng, nhất là xác định giá cả đối với các dịch vụ, nhất là dịch vụ công. Văn kiện Đại hội XIII xác định cần nhất quán thực hiện giá thị trường, phân biệt rõ phúc lợi, ưu đãi hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đồng thời, tiếp tục nhấn mạnh phát triển thị trường các yếu tố sản xuất để thị trường đóng vai trò quyết định trong huy động, phân bổ và sử sung các nguồn lực. Cụ thể phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo các phương thức tổ chức giao dịch văn minh, hiện đại, thương mại điện tử. Phát triển thị trường khoa học và công nghệ, phát triển đồng bộ thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm…trên nền tảng công nghệ số với kết cấu hạ tầng công nghệ và phương thức giao dịch hiện đại. Phát triển và quản lý chặt chẽ thị trường bất động sản; thị trường sử dụng đất. Phát triển thị trường lao động, cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội. Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường. Xử lý tốt những bất cập của cơ chế thị trường, bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, quốc phòng an ninh và bảo vệ môi trường sinh thái.

về mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội trong vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điểm mới nổi bật chính là trong mối quan hệ này bổ sung thêm nhân tố xã hội so với nhận thức trong các Đại hội trước đó. Trong đó, nêu rõ vai trò, chức năng của nhà nước, thị trường và xã hội trong mối quan hệ chung. Nội dung xã hội được hiện ở chỗ hỗ trợ, bổ sung, khắc phục các khiếm khuyết cho các yếu tố nhà nước, thị trường nhằm tạo cơ chế vận hành hoàn chỉnh, đồng bộ nền kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ. Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đốì lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trương hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, đời sổng nhân dân, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế nhà nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trưòng. Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. Các tổ chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật”(5).

xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.

Văn kiện Đại hội XIII xác định rõ: “Giữ vững độc lập tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối chiến lược phát triển kinh tế đất nước; Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Tăng cường bồi dưỡng đào tạo cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế”(6).

NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN MỚI

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(7), trong đó có những đánh giá khách quan, khoa học thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nổi bật là những thành tựu: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp vối yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Nhiều rào cản tham gia thị trường được dỡ bỏ; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ rệt, khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp khá sôi động. Doanh nghiệp nhà nước từng bưóc được sắp xếp, tổ chức lại có hiệu quả hơn; kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế tập thể từng bước đổi mới gắn với cơ chế thị trường; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh, là bộ phận quan trọng của nền kinh tế nước ta... Hội nhập kinh tế quốc tế phát triển sâu, rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, ký kết nhiều hiệp định thương mại song phương, đa phương thế hệ mới; xuất, nhập khẩu, thu hút vôh đầu tư nước ngoài tăng mạnh, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của đất nước”(8).

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, Đại hội XIII của Đảng cũng khách quan, thẳng thắn chỉ ra một số hạn chế, khuyết điểm: Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập; nhiều doanh nghiệp nhà nước chậm thực hiện cơ cấu lại và đổi mới cơ chế quản trị; phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính và quản trị yếu; nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài công nghệ trung bình, gia công, lắp ráp, thiếu gắn kết, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phát triển; đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác còn chậm, nhiều hợp tác xã chưa làm tốt vai trò liên kết, hỗ trợ kinh tế hộ; thực hiện cơ chế giá thị trường đối với một số hàng hóa, dịch vụ công còn lúng túng; một số loại thị trường, phương thức giao dịch thị trường hiện đại chậm hình thành và phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, chưa hiệu quả, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất; hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả có mặt chưa cao... Những hạn chế, bất cập này được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định cần kiên quyết khắc phục và giải quyết trong thời gian tới.

Về dự báo bối cảnh, tình hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời gian tới, Văn kiện Đại hội XIII cũng đã chú trọng phân tích, cập nhật những vấn đề mới, biểu hiện mới, xu hướng mới, yêu cầu mới, thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đặt ra đối với đất nước trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển nhanh, sâu rộng; tình hình thế giới, khu vực thay đổi nhanh, có nhiều đột biến, đặc biệt là sự tác động toàn diện, mạnh mẽ của khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng kinh tế thế giới, của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, già hóa dân số, ô nhiễm môi trường… trước mắt là đại dịch Covid-19.

Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

Để hưởng đến mục tiêu đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: trở thành nước phát triển, thu nhập cao, trên cơ sở định hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp cơ bản:

tập trung rà soát, sửa đổi những quy định chồng chéo, mâu thuẫn, chưa hợp lý trong hệ thống luật pháp, các thủ tục hành chính gây phiền hà cho doanh nghiệp và người dân, gây phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, tạo nên những rào cản cản trở sự phát triển đất nước. Đồng thời, bổ sung luật pháp, cơ chế, chính sách thể chế hóa đầy đủ quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, hấp dẫn, công khai, minh bạch, thông thoáng để thu hút đầu tư, thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là việc tạo môi trường thuận lợi cho hình thành, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo doanh nghiệp; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực, những mô hình sản xuất kinh doanh mới, công nghệ mới, sản phẩm mới trên cơ sở những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; hỗ trợ, thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng; cơ cấu lại nền kinh tế để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, từng bước thực hiện chuyển đổi số cho các ngành, lĩnh vực, phát triển kinh tế số, kinh thế tuần hoàn, kinh tế chia xẻ, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới.

hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ các nguồn lực, về quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, nguồn vốn đầu tư của Nhà nước để việc phẩn bổ các nguồn lực của Nhà nước được thực hiện theo cơ chế thị trường, thông qua đấu thầu công khai, minh bạch, có sự tham gia của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường. Thực hiện nhất quán cơ chế giá trị thị trường với các hàng hóa, dịch vụ, kể cả giá các dịch vụ công cơ bản, thu hẹp giá do nhà nước quyết định. Phát triển đồng bộ, với cơ sở hạ tầng và phương thức giao dịch hiện đại, các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường khoa học - công nghệ, thị trường lao động, thị trường bất động sản để các thị trường vận hành thông suốt, kết nối thị trường trong nước với thị trường thế giới.

giải quyết hài hòa mối quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phát huy đầy đủ vai trò của thị trường trong phân bổ các nguồn lực sản xuất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp và thanh lọc doanh nghiệp yếu kém. Đồng thời, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước; tập trung vào nâng cao chất lượng xây dựng và thực thi luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; đẩy mạnh cải cách hành chính; giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiến tạo phát triển. Tạo điều kiện và phát huy vai trò của các tổ chức chính trị xã hội bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên, hội viên, phản biện, góp ý luật pháp, chính sách của nhà nước, giám sát các doanh nghiệp, các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của nhà nước trong việc thực thi pháp luật.

tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước nhiệm vụ trọng tâm là đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu, thoái vốn, cổ phần hóa cơ cấu lại doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ và áp dụng chế độ quản trị doanh nghiệp hiện đại. Đồng thời, kiểm tra giám sát chặt chẽ không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hộ trang trại trong nông nghiệp. Hoàn thiện cơ chế chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, coi kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế. Phát triển doanh nghiệp tư nhân Việt Nam lớn mạnh, nâng cao trình độ công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mở rộng thị trường, cải thiện thu nhập, điều kiện làm việc của người lao động, và tham gia các hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện các trách nhiệm xã hội. Nâng cao hiệu quả các dự án đối tác công tư trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng. Ưu tiên những dự án đầu tư nước ngoài có trình độ công nghệ cao, sẵn sàng chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.

xây dựng, cụ thể hóa hệ tiêu chí xác định những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các nội dung: Về cơ cấu sở hữu và thành phần kinh tế: là nền kinh tế đa sở hữu, nhiều thành phần; doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tự chủ, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật. Về cơ chế vận hành: là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Về trình độ phát triển: Có lực lượng sản xuất phát triển ngày càng hiện đại; cơ cấu hợp lý; tăng trưởng theo chiều sâu; có năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao; là nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế….

GS.TS Nguyễn Quang Thuấn

------------------------

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, tập 1, 2021, tr.128-129, 220, 114, 132, 131-132,135-136, 25, 59.