Ức trai tâm thượng quang khuê tảo là câu thờ để ca ngợi ai

Ngày xưa mình đi học, thày dạy, sách báo viết " Lê Thánh Tông đánh giá Nguyễn Trãi qua câu thơ "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" nghĩa là "Ức Trai lòng cao thượng sáng tựa sao Khuê". Có cụ còn tán thêm "tảo nghĩa là buổi sáng sớm còn mờ đất", cho nên sao Khuê buổi sớm còn có ý nghĩa "quý hiếm" 

Ức trai tâm thượng quang khuê tảo là câu thờ để ca ngợi ai
:-). Cố nhiên là mình thuổng câu này trong một bài văn được 8 điểm (hồi đó văn không có 9 bao giờ, trừ học thuộc lòng kiểm tra miệng cho các đối t

ượng bồi dưỡng A1) đọc trước lớp.Thấy có một ý kiến là câu này dịch "sai nhưng hay". Vừa tra lại cẩn thận thấy như sau:"Ức Trai tâm thượng" không phải "lòng của ông Ức Trai cao thượng" mà là "trên (trong) lòng của ông Ức Trai""Quang" tất nhiên nghĩa là sáng lên. "Khuê tảo" không phải là "sao khuê buổi sớm". Tra baike "khuê tảo" là từ kép có nghĩa là văn chương đế vương, ý nói văn chương cao cấp. Chữ tảo đây viết hoàn toàn khác với chữ sớm. Vả lại muốn nói sao khuê sớm phải nói là tảo khuê chứ không thể là khuê tảoNghĩa đúng của nó là khen văn tài của Nguyễn Trãi, văn chương sáng chói trong lòng của Nguyễn Trãi, không có khen gì về đạo đức cao thượng hay so sánh với sao Khuê gì cả.

Mà dịch sai thì không bao giờ có thể gọi là hay, dù ý nghĩa có thể đúng với thực tế, nhưng tác giả không có ý định nói thế. Thế là suy luận nhét chữ vào mồm người khác.



Nguyễn Ái Việt (Debrecen,VIDI72)

Ức Trai - Lòng sáng tựa sao Khuê. Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo - Ngôi sao Khuê toả sángCái chếtNgày 27 tháng 7, 1442 (năm Nhâm Tuất), vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quan ở thành Chí Linh, Hải Dương. Nguyễn Trãi đón vua ngự ở chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8 vua về đến Lệ Chi Viên thuộc huyện Gia Định (nay thuộc huyện Gia Lương, Bắc Ninh). Cùng đi với vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi khi ấy đã vào tuổi 40 được vua Lê Thái Tông yêu quý vì sắc đẹp, văn hay, luôn được vào hầu bên cạnh vua. Khi về đến Lệ Chi Viên, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng hà, lúc này ông mới 20 tuổi. Các quan bí mật đưa về, ngày 6 tháng 8 mới đến kinh sư, nửa đêm vào đến cung mới phát tang. Triều đình đã quy cho Nguyễn Thị Lộ tội giết vua. Nguyễn Trãi và gia đình bị án tru di tam tộc.Truyền thuyếtCó truyền thuyết một thời cho rằng lúc Nguyễn Trãi (theo truyền thuyết thì cha của Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh cho học trò phát cỏ ở ngò để làm chỗ dạy học cho học trò chứ không phải là Nguyễn Trãi) còn dạy học có dự định cho học trò phát hoang khu vườn, đến đêm nằm mơ thấy một người đàn bà với bầy con dại tới xin ông cho thư thả ít hôm mới dọn nhà vì con mọn, sáng ra khi học trò của ông phát cỏ vườn nhà thì đánh chết một bầy rắn, lúc đó ông mới hiểu ra ý nghĩa giấc mơ, ông than thở, cho chôn bầy rắn và cho học trò biết là loài rắn thường hay thù dai, thế nào cũng trả thù ông. Đêm đó, lúc ông đọc sách thì có con rắn bò trên xà nhà nhỏ một giọt máu thấm vào chữ "đại" ("đời" qua ba lớp giấy ứng với việc gia tộc ông bị hại đến ba đời. Ngày sau con rắn hóa ra bà Nguyễn Thị Lộ dụ dỗ ông, hại ba đời nhà ông và biến thành rắn bò đi khi bà Nguyễn Thị Lộ bị dìm xuống sông.Nhiều người tin rằng truyền thuyết này nhằm đổ tội cho bà Nguyễn Thị Lộ, giải thích nguyên nhân tiền định về cái chết của vua Lê Thái Tông và Nguyễn Trãi, xoa dịu lòng tiếc thương Nguyễn Trãi và chán ghét nhà Lê nhỏ mọn đối với công thần. Họ cho rằng đây là thuật tuyên truyền của tầng lớp thống trị hồi đó lợi dụng lòng mê tín của nhân dân. Ngày nay truyền thuyết này bị bác bỏ và không được xác chứng.Nguyên nhânĐến nay, nhiều nhà sử học đã đi đến thống nhất về nguyên nhân đích thực của vụ thảm án này. Chủ mưu vụ án chính là Nguyễn Thị Anh, vợ thứ vua Lê Thái Tông.Ngoài suy đoán căn cứ vào sử sách, mới đây các nhà nghiên cứu tham khảo gia phả dòng họ Đinh là con cháu của công thần Đinh Liệt nhà Hậu Lê (công bố trong tác phẩm "Nhìn lại lịch sử" của Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ) và phát hiện nhiều bài thơ của chính Đinh Liệt để lại. Bài thơ được viết bằng chữ Hán nhưng viết theo kiểu ẩn ý, dùng phép nói lái để người đọc suy đoán rằng: Thái tử Lê Bang Cơ (tức vua Lê Nhân Tông) không phải là con vua Lê Thái Tông.Vua Lê Thái Tông lúc mất mới 20 tuổi nhưng trước khi mất vua đã có 4 con trai. Con lớn nhất là Lê Nghi Dân, con thứ hai là Khắc Xương, con thứ ba là Bang Cơ (Lê Nhân Tông sau này), con thứ tư là Tư Thành (Lê Thánh Tông sau này). Vì các hoàng tử đều còn quá nhỏ (chỉ chênh nhau một vài tuổi) nên việc tranh chấp ngôi thái tử xảy ra giữa các bà vợ vua Thái Tông. Nguyễn Thị Anh là mẹ của Bang Cơ.Nghi Dân là con lớn nhất vốn đã được lập làm thái tử dù còn rất nhỏ. Nhưng sau đó Nguyễn Thị Anh được vua sủng ái nên năm 1441 vua truất ngôi của Nghi Dân mà lập Bang Cơ. Bà mẹ của Khắc Xương vốn không được vua sủng ái nên không thể tranh chấp ngôi thái tử. Tuy nhiên, nhiều người trong triều dị nghị rằng, Nguyễn Thị Anh đã có thai trước khi vào cung và Bang Cơ không phải là con vua Thái Tông. Cùng lúc đó, một bà phi khác của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại có mang sắp sinh. Nguyễn Thị Anh sợ chuyện bại lộ thì ngôi lớn sẽ thuộc về con bà Ngọc Dao nên tìm cách hại bà Ngọc Dao. Bà này được vợ chồng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ hết sức che chở, mang đi nuôi giấu và sinh được hoàng tử Lê Tư Thành năm 1442.Biết bà Ngọc Dao đã sinh con trai mà ngày càng nhiều người đồn đại về dòng máu của Bang Cơ, nhân lúc con mình còn đang ở ngôi đương kim thái tử, Nguyễn Thị Anh chủ động ra tay trước. Nhân dịp vua Thái Tông về thăm Nguyễn Trãi, sợ Nguyễn Trãi gièm pha mình và nói tốt cho Tư Thành nên bà sai người sát hại vua Thái Tông rồi đổ tội cho vợ chồng Nguyễn Trãi.Sau khi vua mất, Bang Cơ lên ngôi, Nguyễn Thị Anh được làm thái hậu, nắm quyền trị nước. Nguyễn Trãi không thể biện bạch cho sự oan uổng của mình và phải thụ án.Theo sử sách, vài ngày sau khi hành hình gia đình Nguyễn Trãi, triều đình thực ra chính là thái hậu Nguyễn Thị Anh nhiếp chính thay con, ra lệnh giết hai hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng vì trước khi chết Nguyễn Trãi có nói: "Ta hối không nghe lời Thắng, Phúc". Các nhà nghiên cứu cho rằng chính Đinh Phúc, Đinh Thắng là những người khuyên Nguyễn Trãi sớm tố cáo Nguyễn Thị Anh với vua Thái Tông. Do đó để diệt khẩu, bà sai giết hai người này.Chính bởi ngôi vua của Lê Nhân Tông có phần "không chính" nên sau này, năm 1459, con trưởng của vua Thái Tông là Lê Nghi Dân lấy lý do để làm binh biến giết hai mẹ con Nguyễn Thị Anh. Trong bài chiếu lên ngôi, Nghi Dân nói rõ: "Diên Ninh (niên hiệu của vua Nhân Tông) vốn không phải là con của tiên đế (Thái Tông)..."Dù sao đi nữa, chuyện Bang Cơ có phải con vua Thái Tông thực hay không nhưng cũng như Tần Thủy Hoàng, ngôi chính của ông đã định, bởi thế những người phản lại như Lê Nghi Dân nhà Lê hay tướng Phàn Ô Kỳ nước Tần vẫn bị coi là "nghịch", là trái lẽ.Được minh oanTuy nhiên, ngay đương thời đã có nhiều người biết việc oan khuất của Nguyễn Trãi. Hơn 10 năm sau, mẹ con vua Nhân Tông bị người con cả Thái Tông là Nghi Dân giết chết để giành lại ngôi vua. Nhưng rồi Nghi Dân nhanh chóng bị lật đổ. Người con thứ của Thái Tông là Khắc Xương từ chối ngôi báu nên người con út là Tư Thành được vợ chồng Nguyễn Trãi cứu thoát trước kia, nay được Nguyễn Xí rước lên ngôi, tức là Lê Thánh Tông.Năm 1464, Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi. Con cháu ông được tìm lại và bổ dụng. Người con út sinh ra sau khi ông qua đời là Nguyễn Anh Vũ được Lê Thánh Tông phong cho chức Đồng Tri Phủ huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa), cấp cho 100 mẫu ruộng gọi là "Miễn hoàn điền" (ruộng không phải trả lại) con cháu đời đời được hưởng. Nguyễn Anh Vũ xây dựng mộ chí của Nguyễn Trãi tại xứ đồng Tai Hà, làng Dự Quần, lấy sọ dừa, cành dâu táng làm cốt; lấy ngày mất của Nguyễn Trãi - 16 tháng 8 là ngày giỗ họ[2]Minh oan cho Nguyễn Trãi, vua Thánh Tông ca ngợi ông: "Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo" (tấm lòng Ức Trai sáng như sao Khuê). Năm 1467, vua Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi.Dù vậy, các nhà nghiên cứu vẫn băn khoăn chưa rõ vì sao một vị vua được coi là anh minh và quyết đoán như Lê Thánh Tông, đã minh oan cho Nguyễn Trãi, một đại công thần sáng lập vương triều Lê, người đã cùng với vợ là Nguyễn Thị Lộ ra sức che chở cho mẹ con nhà vua lúc gian nan, mà chỉ truy tặng tước bá, thấp hơn cả tước hầu vốn được Lê Thái Tổ ban phong khi ông còn sống. Các công thần khác của nhà Hậu Lê thường được các vua đời sau truy tặng tước cao hơn, như công và sau nữa lên vương.Năm 1980 nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, UNESCO đã công nhận ông là danh nhân văn hóa thế giới.

Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Lê Thánh Tông » Thơ chữ Hán » Quỳnh uyển cửu ca thi tập

Xếp theo: Ngày gửi Mới cập nhật

Trang 1 trong tổng số 1 trang (6 bài trả lời)
[1]

Cao đế anh hùng dễ mấy ai,Văn Hoàng trí dũng kế ngôi trời.Văn chương Nguyễn Trãi lòng soi sáng,Binh giáp Lê Khôi bụng chứa đầy.Mười Trịnh vang lừng nền phú quý,Hai Thân sáng rạng vẻ cân đai.Cháu nay Hồng Đức nhờ ơn trước,

Cơ nghiệp Thành Chu vận nước dài.


Nguồn: Hoàng Việt thi tuyển (Tồn Am Bùi Huy Bích), NXB văn học, 2007

Trung tình vô hạn bằng thuỳ tố,
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.

DỊCH SAI MÀ LẠI HAY ?Xưa nay không thiếu gì chuyện "dịch sai".Có 2 lý do:một là người dịch không hiểu ý tác giả;hai là vốn chữ nghĩa(că 2 phía ngôn ngữ)không đủ;ba là người dịch kiến thức uyên bác nhưng cố tình dịch sai với một ý đồ riêng(xuyên tạc để phục vụ chủ ý của mình);  cũng không ít trường hợp"dịch sai" mà lại thành "hay" rất được phổ biến,để người đời cứ tưởng đó là thật,cứ dùng,không chấp nhận bản "dịch đúng nguyên tác".Xin ví dụ : Trong bài "Minh Lương"(Vua sáng tôi hiền) của Vua Lê Thánh Tông,các câu 3+4 là:            Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo            Vũ Mục hung trung liệt giáp binhdịch đúng là:            Văn chương Nguyễn Trãi lòng soi sáng            Binh giáp Lê Khôi bụng chứa đầydịch sai là:            Ức Trai lòng sáng tựa sao Khuê            ... Ở đây Lê Thánh Tông chỉ khen ngợi (Nguyễn Trãi) về mặt tài năng,chứ không nói về nhân cách !"khuê tảo"là 1 từ kép đối với "binh giáp" ."khuê" là ngôi sao chủ về văn chương,"tảo" là 1 loại rong rêu có màu sắc đẹp đẽ,nếu chỉ dịch là "sao khuê" tức là bỏ từ "tảo" một cấu thành của từ kép"khuê tảo" làm lạc nghĩa của từ kép này. Lý do: Vua cháu (Lê Thánh Tông) khi minh oan cho Nguyễn Trãi(sau vụ án Lệ chi viên) cũng chỉ phong tặng cho tước"Tán trù bá"(thua cái tước Quan Phục hầu) thời Vua Ông (Lê thái tổ)là vì:"Trẫm phải có trách nhiệm giữ gìn uy tín của Triều trước(Ông cha).

Với cách dịch(sai cố tình)đã ví sánh Nguyễn Trãi với Sao Khuê chỉ thấy xuất hiện đầu tiên trong sách Nguyễn Trãi(nxb Sử học-1963).Nhờ lời dịch sai đó mà lại đem đến cho Đời một lời bình luận sáng giá,một hình ảnh rạng toả về con người Nguyễn Trãi.có lẽ vì thế mà lời dịch,lời thơ dễ được thiên hạ chấp nhận ?(Lời dịch sai đã đi vào tâm thức của nhân dân).

Cao Đế anh hùng nổi tiếng thay,Văn Hoàng trí dũng tiếp xưa nay.Ức Trai khuê tảo văn bừng sáng,Vũ Mục giáp binh kế chứa đầy.Họ Trịnh anh em phẩm tước lớn,Nhà Thân con, bố đặc ân dày.Cháu nay Hồng Đức gìn ngôi báu,

Đời thịnh Cơ Chu chắp nối dài.


Nguồn: Bùi Văn Nguyên (chủ biên), Doãn Như Tiếp, Cao Yên Hưng, Tổng tập Văn học Việt Nam - tập 5, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995

Trung tình vô hạn bằng thuỳ tố,
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.

Bác Khoi Dinh Bảng viết:DỊCH SAI MÀ LẠI HAY ? Xưa nay không thiếu gì chuyện "dịch sai".Có 2 lý do:một là người dịch không hiểu ý tác giả;hai là vốn chữ nghĩa(că 2 phía ngôn ngữ)không đủ;ba là người dịch kiến thức uyên bác nhưng cố tình dịch sai với một ý đồ riêng(xuyên tạc để phục vụ chủ ý của mình);  cũng không ít trường hợp"dịch sai" mà lại thành "hay" rất được phổ biến,để người đời cứ tưởng đó là thật,cứ dùng,không chấp nhận bản "dịch đúng nguyên tác".Xin ví dụ : Trong bài "Minh Lương"(Vua sáng tôi hiền) của Vua Lê Thánh Tông,các câu 3+4 là:           Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo           Vũ Mục hung trung liệt giáp binh dịch đúng là:           Văn chương Nguyễn Trãi lòng soi sáng           Binh giáp Lê Khôi bụng chứa đầy dịch sai là:           Ức Trai lòng sáng tựa sao Khuê           ... Bác Khôi viết đoạn trên là đúng. Đúng là như vậy.Nhưng xin Bác xem lại đoạn dưới:Ở đây Lê Thánh Tông chỉ khen ngợi (Nguyễn Trãi) về mặt tài năng, chứ không nói về nhân cách !"khuê tảo"là 1 từ kép đối với "binh giáp" ."khuê" là ngôi sao chủ về văn chương,"tảo" là 1 loại rong rêu có màu sắc đẹp đẽ,nếu chỉ dịch là "sao khuê" tức là bỏ từ "tảo" một cấu thành của từ kép"khuê tảo" làm lạc nghĩa của từ kép này. Và các sách khác mà Tiểu đệ nhặt nhạnh được:奎藻: 指帝王詩文書畫Khuê tảo: chỉ Đế Vương thi văn thư hoạ.Nghĩa là: Khuê tảo chỉ Thi văn Thư hoạ của bậc Đế Vương.

http://www.zdic.net/cd/

Lê Thánh Tông đã là bậc Đế Vương, nên Khuê tảo nên hiểu là "Thơ văn của ta, của trẫm"và câu:Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo Nôm na ra là: Tấm lòng của Ức Trai đã soi sáng "Thơ văn của trẫm"Thơ văn còn thể hiện Tư tưởng chứ.Đấy là chưa kể đến, một người là "Hoàng thượng", người kia là "Tâm thượng".Khi đọc cả 2 câu:Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo Vũ Mục hung trung liệt giáp binh mới thấy, không thể cảm nhận được cái hay tột cùng.Đền thờ Nguyễn Trãi ở Nhị Khê, Bảng sắc phong cũng có câu này, toàn văn là:Ngự đềỨc Trai tâm thượng quang khuê tảo Khâm phụngThế thì:Ở đây Lê Thánh Tông không những chỉ khen ngợi (Nguyễn Trãi) về mặt tài năng, mà còn khen ngượi về nhân cách.Mà cũng đúng là như vậy.Còn ý dịch sai mà lại hay. Tiểu đệ đoán Khôi huynh cũng có óc hài hước.Nếu có điều gì làm Khôi huynh không vừa lòng, xin ban cho chữ đại xá.

Hà Như

Thái Tổ anh hùng nhất thế danh,Thái Tông mưu dũng giữ an thành.Ngời cao Nguyễn Trãi lòng văn vẻ,Oanh liệt Lê Khôi bụng võ binh.Họ Trịnh anh em mười hiển hách,Dòng Thân phụ tử hai ơn vinh.Thánh Tông cháu đích tôn Hồng Đức,

Nuôi chí Cơ Chu tám thái bình.

Quân Sơn

☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào

Trả lời

Cao Đế anh hùng, nổi tiếng thay,Văn Hoàng trí dũng, nghiệp an bài.Ức Trai văn học thân ngời sáng,Vũ Mục kinh luân bụng chứa đầy.Họ Trịnh mười người đều phú quý,Dòng Thân phụ tử thảy vinh hoa.Kế thừa Hồng Đức cơ đồ lớn,

Bình trị như Chu triều đại dài.

☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào

Trả lời