Tượng tượng sau một thời gian con trai lão Hạc trở về và có một cuộc trò chuyện với ông giáo

Lão Hạc là một truyện ngắn đầy xúc động về người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Đọc truyện ta cảm nhận được sự khổ sở đến khốn cùng của lão Hạc, thà chết để giữ gìn mảnh vườn cho con trai. Liệu khi con trai lão về có hiểu và biết ơn tấm lòng của lão hay không? Tưởng tượng rồi kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng và thăm mộ cha sẽ giúp các em vận dụng những hiểu biết về tác phẩm và sáng tạo của bản thân để viết tiếp nội dung cho truyện Lão Hạc.


Đề bài: Tưởng tượng rồi kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng và thăm mộ cha

Mục lục bài viết:
1. Dàn ý
2. Bài mẫu số 1
3. Bài mẫu số 2
4. Bài mẫu số 3

Tưởng tượng rồi kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng và thăm mộ cha

I. Dàn ýTưởng tượng rồikể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng và thăm mộ cha (Chuẩn)

1. Mở bài

Đóng vai là con trai lão Hạc và giới thiệu chung về bản thân, hoàn cảnh sống

2. Thân bài

a. Hoàn cảnh khi về thăm quê
- Lấy được tiền lương ở đồn điền cao su
- Quyết định về quê thăm cha và mọi người

b. Cảm nhận khi về quê
- Làng quê sau vài năm đã thay đổi đi nhiều
- Cuộc sống của mọi người vẫn vất vả và lam lũ như xưa, cái nghèo vẫn đeo bám dai dẳng.
- Căn nhà không có bóng người, cây cối um tùm

c. Khi đi thăm mộ cha
- Ông giáo kể lại cuộc đời và cái chết của cha
- Tâm trạng đau xót, bất lực và tự trách bản thân mình
- Ra thăm mộ cha, bày tỏ lòng xin lỗi, cầu mong cha yên nghỉ

3. Kết bài

Bày tỏ suy nghĩ và sự hối hận của một người con trai bất hiếu, không thể về gặp cha lúc nhắm mắt xuôi tay.

II. Bài văn mẫuTưởng tượng rồikể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng và thăm mộ cha

1.Tưởng tượng rồikể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng và thăm mộ cha, mẫu 1 (Chuẩn)

Khi còn trẻ, tôi rời bỏ quê hương đi làm ăn nơi xa xứ với mong muốn kiếm được nhiều tiền để cha bớt khổ, có cái vốn để về quê lập nghiệp an cư. Thế nhưng cũng chuyến đi ấy cũng khiến tôi đánh mất nhiều thứ quý giá.

Từ lần tôi đòi cha cho lấy vợ nhưng vì nhà nghèo quá chẳng đủ tiền thách cưới nên không lấy được người mình yêu, tôi chán cho số mình đành lên tỉnh đến sở mộ phu đưa thẻ cho họ kí giấy đi làm đồn điền cao su. Kể từ giây phút ấy bẵng đi đến nay đã 7 năm tôi mới trở về quê. Lần này về tôi thầm mừng có thể đem về cho cha vài trăm bạc để ông cơ cực. Về làng tôi thấy nhiều nhà đổi thay, vẫn cái lối mòn nhỏ ấy nhưng lại có thêm vài nhà nữa mọc lên, bọn trẻ con cũng lớn nhanh như thổi.

Bước đến nhà tôi lớn tiếng gọi cha, tưởng đâu sẽ có tiếng đáp lại nhưng không, tôi chỉ thấy sân nhà đầy lá, căn nhà lạnh lẽo, vườn tược um tùm cây cối. Tôi chạy sang nhà ông giáo, ông nhìn thấy tôi thì vui ra mặt, ông nói "Cuối cùng thì cậu cũng về", tôi hỏi ông giáo cha tôi đâu, không cần ông trả lời, nhìn sâu trong đôi mắt ông tôi đã hiểu ra rằng cha tôi không còn nữa. Cha mất rồi, mất vì lý do tôi không thể ngờ và cũng đau đớn đến nỗi tôi không dám tưởng tượng đến.

Tôi ngây người, đứng dại ra trước sân nhà ông giáo, thế là tôi chỉ còn lại một mình trơ trọi trên thế gian này. Ông giáo dẫn tôi ra trước mộ của cha, tôi quỳ xuống bật khóc như một đứa trẻ, tôi ôm mộ cha mà đau xót, chỉ biết hỏi cha tại sao lại chọn cách ra đi như thế. Tôi không cần mảnh vườn, không cần tiền của để ông phải chịu khổ chịu đau đớn như vậy. Tôi thật tội lỗi, bất hiếu, giá như tôi không bỏ đi đồn điền cao su, sẽ không có tiền nhưng ít ra không để ông phải khổ như thế.

Sự dằn vặt này có lẽ sẽ theo tôi đến cuối đời, nhưng tôi đã quyết không đi nữa, tôi phải ở nhà để gìn giữ và chăm bẵm cho cái vườn mà cha tôi bỏ cả tính mạng để giữ lấy.

2.Tưởng tượng rồikể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng và thăm mộ cha, mẫu 2 (Chuẩn)

Nếu được lựa chọn thì có ai là người muốn phải biệt xứ tha phương kiếm việc kiếm tiền, ra đi bỏ lại cha mẹ già không ai chăm sóc rồi đến khi có tiền về cũng chẳng còn báo hiếu cha mẹ được nữa.

Tôi về lại quê sau nhiều năm đi làm ở đồn điền cao su, vì đi làm xa, nhiều năm liền chẳng được trả tiền công nên tôi không biết làm cách nào để về nhà, thi thoảng năm một lần lại gửi giấy về cho cha yên tâm. Đã sáu năm rồi, tôi chưa về nhà, tính năm nay sẽ về nên không gửi thư về nữa, thế nhưng khi tôi về đã không kịp gặp cha lần cuối. Đi mất hai ngày đường tôi mới về tới làng, đi về làng mà tôi ngỡ như mình đi đến nơi khác, ai cũng nhìn tôi với ánh mắt khác lạ, chẳng ai chào hỏi vì dường như họ thấy tôi lạ quá. Đi làm được vài trăm bạc tôi cũng gọi là có quần áo mặc tử tế. Về đến nhà tôi thấy không khí im ắng lạ thường, trong đầu tôi thoáng có ý nghĩ đáng sợ, tôi cố trấn át nó đi rồi tìm cha khắp xung quanh nhà, tôi lớn tiếng gọi cha nghĩ ông đang ở ngoài vườn sẽ nghe thấy, nhưng mãi vẫn không thấy ai thưa.

Một lúc sau thấy tiếng bước chân, tôi mừng nghĩ cha đã về, thế nhưng không phải, đó là ông giáo. Ông sang thắp một nén hương rồi vái rằng "Lão Hạc ơi con trai ông đã về rồi đây này, ông về mà nhìn nó đi". Tôi lặng người đi, hóa ra cái suy nghĩ đáng sợ ấy là thật. Tôi ngồi sụp xuống, thế là chẳng còn gì nữa, đã quá muộn màng để tôi hối hận về quyết định bỏ cha đi làm ăn xa. Ông giáo dẫn tôi ra thăm mộ cha rồi kể cho tôi nghe về cái chết của cha tôi, tôi nghe mà lòng đau quặn thắt, chưa bao giờ tôi thấy mình đau đớn và thương cha đến như thế.

Nhìn mảnh vườn trước mặt, tôi vừa nhớ cha lại vừa trách mình bất hiếu. Giá như cha đừng vì tôi mà giữ mảnh vườn, cứ bán mà ăn mà sống thì có lẽ tôi còn có cha. Tất cả là vì tôi, giờ tôi sẽ chăm chỉ làm lụng, chăm bón cái vườn này vì cha.

3.Tưởng tượng rồikể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng và thăm mộ cha, mẫu 3 (Chuẩn)

Cuộc đời tôi sai lầm nhất có lẽ là khi bỏ nhà đi đồn điền cao su. Mẹ tôi mất sớm, tôi chỉ còn cha mà cha lại già cả, ốm yếu, ấy thế mà vì phút phẫn chí tôi quyết định bỏ lại cha già sống một mình không ai nương tựa để đi kiếm tiền.

Đi làm công nhân đồn điền cao su được vài năm, tôi bị bóc lột sức lao động, tiền công thì chẳng thấy đâu chỉ thấy bản thân gầy khô xương, tôi quyết định về quê làm vườn sống cùng cha. Sau khi kết thúc hợp đồng tôi dọn đồ trở về quê, trên đường về trong đầu tôi nghĩ và vẽ ra bao viễn cảnh, không biết người cha già bây giờ ra sao, có ốm đau nhiều không. Đi về làng tôi cảm nhận được sự quen thuộc đã bao năm xa quê, cây đa, giếng nước sân đình vẫn y nguyên một vẻ, những mái nhà tranh rêu xanh lụp xụp thấp thoáng bóng của trẻ con lít nhít, mấy đứa trạc tuổi tôi có lẽ bây giờ cũng vài đứa con rồi.

Về đến nhà, tôi không gọi cha mà lặng lẽ đi tìm, tìm mãi vẫn không thấy cha đâu tôi liền chạy sang nhà ông giáo xem cha có ở đó không. Gặp ông giáo tôi mừng vì trông ông giáo vẫn giữ được nét nho nhã, thư sinh của một người có học. Ông giáo nhìn tôi, không vui mà lại buồn xám xịt, tôi cảm được có chuyện chẳng lành, ông nắm chặt tay tôi mắm môi mà nói "Cậu về muộn rồi, ông lão không còn nữa, tôi và người nhà đã lo liệu xong cho công việc của ông". Nếu như cha tôi chết vì bệnh nặng không thuốc cứu chữa có lẽ tôi sẽ dễ dàng chấp nhận, thế nhưng cha tôi lại vì giữ mảnh vườn không muốn bán lấy tiền, không dám tiêu tiền vì để dành cho tôi để rồi chọn cách ăn bả chó mà chết. Tôi không thể tin vào điều đó, tôi nghiến răng lại, cố không bật khóc thành tiếng. Ông giáo dẫn tôi ra thăm mộ cha, thắp nén hương cho cha tôi thấy lòng mình nặng trĩu, tôi biết rằng mình chẳng thể làm được gì cho cha nữa, chỉ đành chắp tay nguyện cầu cha ở nơi chín suối hãy yên lòng, quên đi mọi đói khổ lo toan vất vả.

Tôi không thể thay đổi chuyện đã rồi, chỉ đành nuôi chí làm ăn, chăm cho mảnh vườn tốt tươi để cha tôi nếu như có đang dõi theo cũng cảm thấy yên lòng.

------------------HẾT---------------------

https://thuthuat.taimienphi.vn/tuong-tuong-roi-ke-lai-canh-con-trai-lao-hac-tro-ve-lang-va-tham-mo-cha-66009n.aspx
Bên cạnh bài Tưởng tượng rồi kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng và thăm mộ cha, các em có thể tự luyện tập kĩ năng kể chuyện tại nhà qua việc tham khảo: Tưởng tượng cảnh Lão Hạc bán chó và kể lại câu chuyện ấy, Vào vai nhân vật ông Giáo, kể lại cảnh lão Hạc sang báo tin bán chó, Tưởng tượng cảnh Lão Hạc bán chó và kể lại câu chuyện ấy, Trong vai vợ ông giáo, kể lại một mẩu trong truyện Lão Hạc.

Văn mẫu lớp 8: Tưởng tượng rồi kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng và thăm mộ cha, Văn mẫu lớp 8: Tưởng tượng rồi kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng và

Văn mẫu lớp 8: Tưởng tượng rồi kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng và thăm mộ cha gồm dàn ý chi tiết, cùng 4 bài văn mẫu. Giúp các em học sinh lớp 8 ôn tập, tích lũy vốn từ để viết văn ngày một hay hơn.

Kết thúc truyện Lão Hạc là các chết của Lão Hạc sau khi uống bả chó, nhưng chúng ta thắc mắc rằng sau khi con trai lão trở về và biết cha mình chết thì sẽ thế nào? Dưới đây là một số bài văn mẫu tưởng tượng rồi kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng và thăm mộ cha, mời các bạn cùng tham khảo.

Dàn ý Kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng

1. Mở bài: Giới thiệu chung

2. Thân bài

– Sau bao năm làm việc ở đồn điền cao su tôi đã quyết định quay trở về

– Làng tôi thay đổi nhiều quá, về đến nhà tôi không còn nhận ra nổi, cây cối um tùm, không thấy cha tôi đâu

– Tôi tim ông giáo để hỏi

– Ông giáo kể lại cái chết của lão Hạc

– Ông giáo đưa cậu con trai đi viếng mộ lão Hạc

– Cậu con trai trước mộ cha: Khóc, ân hận vì không ở bên chăm sóc cha

3. Kết bài

Tổng kết lại, rồi hứa sẽ làm lụng chăm chỉ để bảo vệ tài sản cha để lại.

Kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng – Mẫu 1

Tôi xa quê hương đã nhiều năm, nay mới có dịp trở lại làng quê thân thương, thăm người cha cô độc của mình, thăm lại chú chó Vàng cùng con cháu chú, bởi khi tôi đi nó chỉ vẫn còn nhỏ xíu, giờ này chẳng biết nó có còn sống mà đợi tôi về hay không?

Vừa tới đầu làng, nhìn thấy cây đa, bến nước con đò quen thuộc, lòng tôi đã trào dâng niềm xúc động mãnh liệt. Hai tiếng quê hương nghẹn ngào ứ đọng nơi cuống họng tôi không thể thốt nên lời. Quê hương của tôi đây sao? Sao mà tàn lụi, tiêu điều tới vậy? Ngày tôi ra đi những người dân lương thiện quê tôi thường ngồi bán rau, rồi chơi cờ tướng uống nước trà ở quán bà Tư béo đầu làng. Nhưng nay không thấy bóng dáng một ai. Chiếc quá lá cũ đã còn trơ trọi những bức tường đất, dưới nền còn vương vãi lớp bụi tro tàn, chắc ai đó đã đốt quán.

Tôi nghe đâu đó tiếng còi, rồi tiếng chó sủa ầm ĩ, rồi tiếng bước chân người huỳnh huỵch chạy như có gì gấp gáp lắm. Tôi giật mình ngoảnh lại phía sau. Hóa ra mấy tên lính tay sai của bọn sĩ quan Pháp đang truy tìm những người lính cách mạng.

Tôi đi về tới nhà, thấy nhà cửa tiêu điều cửa đóng im ỉm bởi một chiếc khóa nghèo nàn sơ sài, xung quanh nhà cỏ lau mọc um tùm như nhà bị bỏ hoang từ nhiều năm nay thì phải. Tôi lấy cục gạch đập vào ổ khóa chiếc khóa mở tung ra.

Tôi lặng lẽ mở cửa bước vào nhà, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tôi chính là chiếc ảnh cha tôi trên bàn thờ. Ông cụ đã mất rồi sao, mất như thế nào sao tôi không biết. Nước mắt tôi thi nhau rơi xuống. Tôi ôm lấy bức ảnh của cha mình mà khóc nấc lên nghẹn ngào. “Cha ơi! Con đã về muộn mất rồi. Con thật bất hiếu”

Khóc một lúc lâu rồi tôi đứng dậy, đi ra vườn nhìn khung cảnh cũ lòng vô cùng buồn rầu. Tôi nhìn sang xung quanh hàng xóm, tất cả đều một màu tiêu điều xám xịt. Cạnh nhà tôi là nhà thầy giáo Thứ, anh giáo là người có học, có chữ nghĩa lại vốn thân thiết với cha tôi chắc anh sẽ cho tôi biết nguyên nhân vì sao cha tôi chết. Và mộ cha tôi ở đâu. Nghĩ vậy tôi bèn cài then cửa rồi bước vội sang bên nhà anh giáo.

Trong ngôi nhà đó, tôi thấy anh giáo đang ngồi bên bàn viết gì đó rất chăm chú. Tôi gọi lớn từ ngoài cổng.” Anh giáo có nhà không ạ?” Từ trong nhà, tiếng anh giáo vọng ra. Tôi có đây. Ai tìm tôi đó ạ? Rồi anh bước ra, chiếc áo đông xuân cũ kỹ bạc màu, khuôn mặt khắc khổ, già nua hơn so với lúc tôi ra đi. Nhìn thấy tôi anh khựng người một lúc rồi lao vào ôm lấy tôi. Miệng rối rít nói “Ôi cậu Sơn cậu đã về đấy ư. Tôi mong cậu mãi”

Rồi anh kéo tôi vào nhà rót nước mời tôi. Sau đó, anh mở khóa tủ lấy ra một chiếc hộp nhỏ đưa cho tôi và bảo “Đây là tất cả những gì mà cụ Hạc gửi tôi, bảo khi nào anh về thì đưa lại cho anh. Tôi đã giữ nó rất nhiều năm nay, mong anh về từng ngày mà không thấy, may qua hôm nay anh đã về, coi như tôi hoàn thành nhiệm vụ với người đã khuất”.

Tôi lặng lẽ mở chiếc hộp ra xem thử thì ra đó là giấy tờ đất nhà tôi. Một ít tiền mà cha tôi dành dụm được. Tôi nhìn anh giáo hỏi giọng run run “Cha em mất như thế nào hả anh”.

Anh giáo lấy tay thấm nước mắt, giọng nghẹn ngào “Cha em mất tội lắm. Cụ ăn bả chó tự vẫn để giữ được mảnh đất cho cậu lấy vợ có chốn nương thân“. Tôi không kìm được cảm xúc của mình khi nghe anh giáo nó thế. Máu trong người tôi dồn lên mặt nóng bừng, nước mắt tôi nhòa đi. Tôi hỏi tiếp “Ai đã hại cha em vậy anh? Kẻ nào khiến cha em phải chết thảm như vậy?”

Anh giáo từ tốn nói giọng chua chát “Thì còn ai vào đây nữa cha con thằng Bá Kiến nó muốn cướp mảnh vườn của nhà em. Cha em không muốn mất mảnh vườn hương hỏa, muốn để lại chút vốn cho em phòng thân nên ông cụ chọn cách ra đi“.

Tôi chết điếng nửa người, sự căm hận bọn lũ ác ôn, thương cha già nghèo khổ một mình chống chọi với lũ sâu mọt, vì thương con cái mà phải tìm tới cái chết. “Cha ơi! Con có tội với cha quá! Cha ơi!”

Buổi hôm đó, tôi và anh giáo tâm sự với nhau rất nhiều. Chúng tôi nói về cha tôi. Anh giáo cũng đưa tôi ra viếng mộ cha tôi. Sau đó, chúng tôi lại về nhà anh cùng nhau hàn huyên tâm sự về phong trào cách mạng, về những người dân khốn khổ của quê tôi đang cố gắng tìm cách cứu mình.

Anh giáo hỏi tôi “Giờ cậu định làm sao? Có cô nào ưng chưa? Có lấy vợ và sống lại làng mình không?”. Tôi nhìn anh giáo lắc đầu buồn rầu đáp “Em chưa lấy vợ đâu anh ạ. Em quyết định ra đi chuyến nữa. Nhưng lần này em không đi phu đồn điền cao su nữa, mà em đi theo Việt Minh. Em quyết tâm gia nhập hàng ngũ cách mạng để trả thù cho quê hương, trả thù cho cha em anh ạ.”

Anh giáo nhìn tôi rưng rưng xúc động “Cậu khá lắm. Cậu thật giống với cha cậu, kiên định dù chết vẫn không đầu hàng bọn tàn ác. Tôi nói thật với cậu, thực ra tôi cũng hoạt động lâu rồi, những hoạt động ngầm trong bóng tối mà thôi, vì gia cảnh nhà tôi còn có mẹ già con thơ. Tôi không thể bỏ đi hẳn được”

Tôi nhìn anh giáo cảm thấy như lần trở về quê hương này của mình thật sự không hoài phí. Ngay sáng hôm sau, khi gà vừa gáy canh 3 tôi đã thức dậy, anh giáo đợi tôi ở đầu làng để tiễn chân tôi. Anh đưa tôi một lá thư rồi bảo “Cứ tới địa chỉ này sẽ có đồng chí của mình đưa cậu ra chiến trường”. Chúng tôi ôm nhau chào tạm biệt.

Tôi nhìn lại quê hương lần cuối, lòng tự nhủ ta sẽ trở về khi trên đất nước này không còn bóng quân thù, khi bọn cường hào ác bá sẽ bị trả giá đền tội. Hẹn gặp lại quê hương của tôi ơi!.

Kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng – Mẫu 2

Tượng tượng sau một thời gian con trai lão Hạc trở về và có một cuộc trò chuyện với ông giáo

Mới đó mà đã ngót bảy năm trôi qua kể từ ngày tôi phẫn chí, bỏ quê đi phu đồn điền mãi tận Phú Riềng. Suốt những năm tháng đó, tôi đã phải sống cuộc đời cay cực, lầm than để bòn từng cắc bạc. Tương lai mờ mịt, tưởng chừng chẳng bao giờ còn được về lại quê hương. Cách mạng tháng Tám nổ ra, tôi cùng các dân phu tham gia Việt Minh đánh lại bọn chủ đồn điền và bọn thực dân để giải phóng dân tộc, giải phóng mình. Và hôm nay, tôi đã có thể trở lại quê xưa để gặp người cha già thân yêu sau bao năm cách biệt.

Trên suốt chặng đường về quê, tôi bâng khuâng ngắm nhìn từng cảnh vật. Khung cảnh làng quê tuy vẫn nghèo với những vườn cây vàng võ, những mái tranh tiêu điều, những mảnh ruộng cằn khô nhưng vẫn cảm nhận được khí thế cách mạng thể hiện qua nét mặt hân hoan của mọi người. Tôi miên man nghĩ về thầy tôi, không biết giờ này thầy đang làm gì, mắt đã mờ, chân đã chậm nhiều chưa? Tôi thấy mình có lỗi vì một phút nông nổi đã bỏ lại người cha già yếu mà đi. Bất giác, tôi ước mình có đôi cánh để bay nhanh về ngôi làng nhỏ bé, thân thuộc, nơi ấy có một người thân yêu đang ngóng đợi tôi về.

Mải suy nghĩ, tôi ngỡ ngàng khi nhận ra mình đã bước về làng cũ. Vẫn còn đó cây đa, bến nước, sân đình,… Tất cả vẫn thân thuộc, gần gũi làm sao! Rồi những hồi ức, kỉ niệm của những tháng ngày sống kham khổ với rau chuối, củ riềng, củ ráy nhưng ấm áp hương vị quê hương lại ùa về nguyên vẹn trong tôi. Tôi hối hả bước về ngôi nhà tranh với bờ rào râm bụt đỏ quen thuộc, trong lòng vang lên tiếng gọi tha thiết: “ Thầy ơi! Con đã về rồi!”.

Nhưng đáp lại tiếng kêu thảng thốt của tôi là cảnh im vắng của khu vườn rộng thênh, cỏ vườn tốt um, căn nhà heo vắng, không thấy bóng dáng của thầy, Cậu Vàng đâu, sao không chạy ra đón?… Sự ngạc nhiên cùng tâm trạng bồn chồn lo lắng cùng lúc xuất hiện trong lòng tôi. Tôi khẽ khàng đẩy cánh cửa. Trời ơi! Một cảnh tượng thê lương đập vào mắt khiến tôi khuỵu xuống. Trên ban thờ cũ kĩ có thêm một bát hương mới. “ Có lẽ nào, cha tôi đã…” Tôi đã không dám nghĩ tiếp, vội chạy sang nhà ông giáo, người mà trước đây thầy tôi vẫn hay tâm sự, truyện trò để hỏi thăm.

Ông giáo đón tôi với vẻ mặt trầm buồn, rồi ông chậm rãi kể cho tôi nghe những ngày tháng cuối cùng của thầy tôi trước khi rời xa thế giới này. Thì ra, suốt những năm qua, thầy tôi sống tằn tiện, chắt chiu, cực khổ, bòn từng hào lẻ để dành dụm cho tôi. Ông trời lại khéo trêu cợt khiến thầy gặp phải trận ốm thập tử nhất sinh, tiền bạc dành dụm bấy lâu cũng đội nón ra đi. Bồi thêm trận bão làm cho hoa màu trong vườn điêu tàn khiến cuộc sống của thầy tôi lại càng cơ cực.

Cuối cùng thầy đã bán con Vàng – niềm vui tuổi già của thầy trong tột cùng đau xót và chọn một cái chết tức tưởi, đớn đau nhằm chấm dứt tình trạng sống mòn để giữ cho tôi chút tài sản cuối. Tai tôi ù đi, lòng tôi tê tái khi nghe câu nói của ông giáo: “ Đây là văn tự mảnh vườn mà ông cụ đã cố để lại cho anh trọn vẹn. Cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào”.

Cầm tờ văn tự trong tay, tôi như người mộng du theo chân ông giáo ra bãi tha ma cuối làng. Khung cảnh nghĩa địa buồn hiu hắt dưới ráng chiều chạng vạng. Trên mộ thầy tôi cỏ mọc xanh tốt như thể được chăm chút thường xuyên. Liệu có phải ông trời thương xót thầy tôi mà độ cho không?

“Đốt nén hương thơm mát dạ người. Con đã về đây ơi thầy ơi!”. Tôi nghẹn ngào gọi thầy trong tâm tưởng. Thầy ơi! Đứa con bất hiếu đã trở về bên thầy đây. Thầy ơi! Con vô cùng hối hận vì trong lúc phẫn chí đã bỏ quê đi, bỏ lại thầy một mình, thân già quạnh quẽ, cô đơn không người nương tựa. Những khi trái gió, ốm đau, một mình thầy chịu đựng mà không một lời trách cứ về con. Thầy ơi! Con đã hiểu công ơn, tình cảm yêu thương vô bờ thầy đã thầm lặng dành cho con bao lâu nay. Thầy đã ngày đêm thương nhớ, lo lắng, mong ngóng con trở về. Mọi suy nghĩ, việc làm của thầy đều hướng về con. Thầy sống tằn tiện, kham khổ, làm việc chăm chỉ, chẳng quản nắng mưa cũng là để vun vén cho con. Thầy đã hi sinh cả điểm tựa tinh thần, niềm vui của tuổi già, cả mạng sống của chính mình cũng là vì hạnh phúc của con. Con cũng hiểu và căm giận vô cùng cái xã hội thực dân nửa phong kiến tối tăm, ngột ngạt, bất công đã đẩy thầy và những người có nhân cách cao đẹp vào cảnh đói nghèo, bế tắc, phải chọn cái chết thảm thương.

Nếu có thể cho thời gian quay trở lại, con nguyện sẽ không bao giờ rời bỏ thầy trong cô đơn, hiu quạnh mà đi. Nhưng giờ đây, mọi sự hối hận đều đã muộn màng, con xin thầy tha thứ cho con và ở nơi suối vàng, xin thầy hãy bình an yên nghỉ! Thầy hãy yên tâm về con thầy nhé! Con sẽ sống một cuộc sống tốt đẹp, lương thiện, ngay thẳng, trung thực như thầy đã từng sống. Mảnh vườn thầy đã giữ lại bằng chính mạng sống, con sẽ vun xới, chăm chút để cho ra nhiều hoa thơm, trái ngọt dâng thầy.

Kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng – Mẫu 3

Tôi là con trai lão Hạc. Sau tám năm ròng đi đồn điền cao su, nay tôi mới có dịp trở về quê hương, thăm người cha già kính yêu và thăm cậu Vàng yêu quý.

Cũng giống như bao người xa quê khác, tôi vô cùng hồi hộp, háo hức và xúc động khi được trở về quê nhà, gặp lại người cha đáng kính sau bao năm xa cách.

Ngần ấy năm trời, tôi không viết thư cho cha nên không biết cuộc sống của cha đã ra sao rồi và trong túi của tôi đã dành dụm được chút tiền gọi là để biếu cha và để về quê cưới vợ. Cảnh vật quê hương vẫn thân thuộc như ngày nào. Trong tâm trí tôi vẫn nhớ như in từng đường thôn ngõ xóm, từng dòng sông, ngọn đồi nhưng dường như cảnh vật dần dần tiều tụy, xơ xác hơn so với ngày tôi bỏ làng ra đi. Bỗng nhiên, một cảm giác lạnh lẽo bao trùm khắp không gian khi tôi đặt chân đến mảnh vườn của cha. Cây cỏ thì khô héo, cây cối xung quanh tiêu điều, trơ trụi như rất lâu rồi chưa có người đặt chân đến chăm sóc. Ngôi nhà bằng rơm của cha tôi thì siêu vẹo, tưởng chừng như sắp đổ. Tôi vội vàng ngó vào trong nhà nhưng chẳng thấy cha tôi đâu.

Tôi gọi lớn: “Cha ơi, cha ơi con đã về rồi đây cha ơi, cha ơi!…” nhưng mãi không có một tiếng trả lời. Tôi bỗng đâm ra lo sợ. Bất chợt, có một người hàng xóm đi qua, đã nhận ra tôi là con trai lão Hạc liền nói: “ơ, cháu đã về rồi à, nhưng bây giờ về thì đã quá muộn rồi, cha cháu đã mất cách đây năm năm trước và mảnh vườn cũng đã bán cho ông giáo rồi, cháu thử sang hỏi ông giáo mà xem”. Tôi sững sờ không tin vào tai mình, quên cả cảm ơn bác hàng xóm rồi chạy một mạch tới nhà ông giáo.

Vừa đến nơi, ông giáo đã nhận ra tôi ngay, ông “à”, lên một tiếng rồi mời tôi vào nhà. Ngay lập tức tôi vào thẳng vấn đề chính:

– Ông giáo ơi, ông giáo cho cháu biết chuyện gì đã xảy ra với cha cháu, à và còn về mảnh vườn nữa, chuyện cha cháu bán mảnh vườn cho ông giáo là như thế nào vậy?

– Cậu cứ từ từ đã, chuyện còn dài lắm, trước tiên tôi dẫn cậu đến mộ của cha cậu trước đã. Ông giáo từ từ đáp lại. Đến mộ của cha, ông giáo và tôi thắp vài nén hương khấn cha tôi và ông giáo nghẹn ngào nói:

– Lão Hạc ơi, cuối cùng con trai lão cũng đã trở về rồi đây, đã đến lúc tôi thực hiện lời hứa là trao trả mảnh vườn mà lão đã hi sinh cuộc đời để giữ lại cho con. Bây giờ thì lão có thể yên nghỉ dưới suối vàng rồi chứ?

Nghe đến đây, chưa rõ chuyện gì xảy ra nhưng tôi vô cùng xót xa, ân hận nói:

– Cha ơi, con quả là đứa con bất hiếu phải không cha, trong lúc cha cần có một bờ vai để nương tựa nhất thì con lại không có ở bên. Con chỉ mải mê lo kiếm tiền để hai cha con có thể sống một cuộc sống đầy đủ hơn sau này, con thật có lỗi quá

– Tôi tự dằn vặt bản thân mình.

Tôi vừa dứt lời thì ông giáo vỗ vai an ủi tôi rồi cả hai cùng trở về nhà ông giáo để nói chuyện tiếp. Ông giáo rót nước mời tôi uống rồi từ từ kể lại toàn bộ câu chuyện cho tôi nghe. Từ lúc mùa màng đói kém, cha tôi day dứt về chuyện bán cậu Vàng đến lúc ân hận, xót xa đã nỡ lừa một con chó. Cha tôi đã phải tự giải thoát cuộc đời bằng cách ăn bả chó xin được của Binh Tư để không tiêu vào số tiền dành dụm cho tôi và giữ lại mảnh vườn cho tôi. Cha tôi đã nhờ ông giáo viết văn tự bán vườn để nhằm giữ nguyên mảnh vườn khi tôi trở về.

Nghe xong câu chuyện mà ông giáo kể, tôi không thể nào kiềm chế được nỗi xúc động, hai dòng nước mắt cứ thế chảy ra. Tôi ân hận lắm, xót xa lắm, chỉ vì tôi mà cha đã nhịn đói, chỉ vì tôi mà cha đã phải tự tìm đến cái chết thảm khốc để giải thoát bản thân. Đầu óc tôi choáng váng, tôi cảm thấy mình thật đáng chết, mình là người con bất hiếu, việc gì mà cha phải hi sinh cuộc đời cho một người con như tôi chứ. Trong lòng tôi tràn đầy cảm giác tội lỗi, ân hận. Tôi thương cha vô cùng. Thực ra ngày ấy phần vì nông nổi sau khi người yêu đi lấy chồng do tôi nghèo khó không có đủ tiền cưới vợ, phần vì thấy cha đã già mà phải làm việc vất vả tôi mới bỏ làng ra đi để kiếm chút ít tiền vừa để có chút vốn liếng lập nghiệp về sau, vừa để cho cha an hưởng lúc về già, ai ngờ sự việc lại xảy ra như thế này. Tôi chỉ nghĩ vùng đất ấy là một vùng đất đầy hứa hẹn, có thể kiếm được nhiều tiền để sau này về biếu cha rồi lập nghiệp và cưới vợ.

Ông giáo liền đưa cho tôi xem văn tự mảnh vườn và nói: “Giờ đây, văn tự này chẳng còn ý nghĩa gì nữa” rồi ông giáo liền xé nó đi và đưa trả lại tôi cả mấy chục đồng bạc mà cha tôi nhờ ông giáo cất giữ. Trước khi ra về, tôi có đưa cho ông giáo mấy đồng bạc nhưng ông giáo nhất quyết không nhận, ông bảo không có lí do gì để nhận số tiền ấy cả.

Kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng – Mẫu 4

Tượng tượng sau một thời gian con trai lão Hạc trở về và có một cuộc trò chuyện với ông giáo

Vì không có tiền để cưới người con gái mình yêu nên anh con trai lão Hạc phẫn chí bỏ làng ra đi, vào tận Nam Kì làm phu ở đồn điền cao su đất đỏ. Biền biệt suốt mấy năm trời, tích cóp được ít tiền, nay anh mới trở về quê.

Về tới đầu làng, anh thấy cảnh xóm làng tuy vẫn còn xơ xác, tiêu điều vì trận đói khủng khiếp vừa qua nhưng khí thế cách mạng của bà con nông dân thì sôi nổi lắm. Tiếng trống, tiếng mõ vang rền. Các kho thóc của phát xít Nhật bị phá tung, cán bộ Việt Minh chia thóc cho dân chúng. Từng đoàn, trai tráng kéo nhau đi rầm rập trên con đê chạy dọc bờ sông, miệng hô to những khẩu hiệu đả đảo Pháp, Nhật, ủng hộ chính quyền cách mạng. Dẫn đầu đoàn người là lá cờ đỏ sao vàng phấp phới.

Quả là một cảnh tượng anh chưa từng được chứng kiến trong đời. Tim anh đập rộn lên khi đặt chân về đến rặng tre đầu ngõ. Khu vườn quen thuộc đây rồi! Ba gian nhà tranh cũ kĩ, xiêu vẹo, im lìm đứng giữa vườn cây xơ xác. Lối vào nhà và miếng sân đất um tùm cỏ dại.

Anh cất tiếng gọi cha, không một lời đáp lại. Nhấc chiếc cửa liếp ra, anh ngó vào trong:

Mạng nhện chăng đầy; nắng chiếu qua lỗ thủng trên mái rạ, in trên mặt đất gồ ghề những vệt sáng không đều. Không khí lạnh lẽo và mùi ẩm mốc xông lên khiến anh bất chợt rùng mình. Anh sang nhà ông giáo để hỏi thăm về người cha già yếu của mình.

Ông giáo Tri, người hàng xóm thân cận pha nước mời anh uống rồi khuyên anh hãy bình tĩnh nghe ông kể về những ngày cuối đời của người cha tội nghiệp:

– Từ hôm anh đi, ông cụ buồn lắm! Sớm tối chỉ có con chó Vàng quanh quẩn bên ông cụ mà thôi. Cả tổng đói, cả làng đói. ông cụ đứt bữa thường xuyên, Thôi thì kiếm được cái gì ăn cái nấy cho qua ngày. Thỉnh thoảng sang bên tôi chơi, ông cụ cứ tự trách mình vì nghèo mà không cưới được vợ cho con, để con phải lưu lạc tha phương kiếm sống. Một buổi chiều, ông cụ nhờ tôi trông coi hộ mảnh vườn ba sào để sau này anh về thì có sẵn đất đấy mà làm ăn. Ông cụ còn gửi tôi giữ giùm ba mươi đồng bạc dành dụm từ việc bán hoa lợi thu được từ mảnh vườn suốt mấy năm qua và tiền bán con chó Vàng. Khốn khổ! Nhắc đến chuyện phải buộc lòng bán nó vì không nuôi nổi nữa, ông cụ cứ khóc vì ân hận là đã lừa nó. Ông cụ bảo thà chết chứ không bán mảnh vườn của mẹ anh để lại cho anh.

Tôi có ngờ đâu ông cụ lại chọn cái chết, ông cụ xin Binh Tư ít bả chó. Lúc thấy ồn ào, tôi chạy vội sang thì ông cụ đang quằn quại. Chẳng thể làm thế nào cứu được nữa! Số tiền ông cụ gửi, tôi chỉ một ít lo ma chay, chôn cất ông cụ; số còn lại, tôi vẫn giữ đây chờ anh về. Lát nữa, tôi sẽ dẫn anh ra thăm mộ ông cụ. Ôi Chao! Trên đời này, thật hiếm có người cha nào thương con như thế!

Anh con trai lão Hạc ngồi lặng đi, hai hàng nước mắt lăn dài trên má. ông giáo lấy văn tự nhà đất cùng túi tiền cất ở trên bàn thờ xuống, đưa cho anh. Anh run run đưa tay ra đón lấy rồi nghẹn ngào thốt lên hai tiếng: “Cha ơi!”.

Thắp mấy nén nhang cắm lên nấm mộ chưa xanh cỏ, anh thổn thức tâm sự với người cha mà anh hằng yêu quý và thương nhớ: “Cha ơi! Con là đứa con bất hiếu, không đỡ đần được gì cho cha lúc tuổi già sức yếu! Con mong cha tha thứ cho con! Con lầm tưởng là bỏ làng ra đi thì sẽ dễ dàng kiếm được tiền, nhưng ở đâu dân mình cũng cơ cực, cha ạ! Trong những ngày làm phu cạo mủ cao su ở đồn điền của lũ chủ Tây ở đất Đồng Nai, con đã được cán bộ cách mạng giác ngộ, chỉ cho con đường đúng nên theo, về làng lần này, con những mong được gặp lại cha, để cha mừng cho con đã trưởng thành. Nào ngờ buổi chia tay cũng là vĩnh biệt!”.

Anh con trai lão Hạc chỉ ở nhà được mấy hôm. Anh dọn dẹp nhà cửa, vườn tược gọn gàng rồi nhờ ông giáo tiếp tục trông nom. Trước lúc ra đi, anh chào và cảm ơn khắp lượt bà con hàng xóm đã giúp đỡ cha anh lúc anh vắng nhà. Ông giáo tiễn anh ra tới đầu làng, vắt chiếc tay nải đựng quần áo lên vai, anh rảo bước về phía nhà ga. Mặt trời đã lên cao, tiếng còi tàu giục giã ngân dài trong gió.