Tôi đứng lặng trước em phong cách ngôn ngữ
Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần. Thường khi đến gà gáy sáng Mị ngồi dậy ra bếp lửa sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong nhà mới bắt đầu dậy ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn. Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi lửa suốt đêm. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước. Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng như thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ… Mị phảng phất nghĩ như vậy. Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ… Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay…”, rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khụyu xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy. Mị đứng lặng trong bóng tối. Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt: – A Phủ cho tôi đi. A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói: – Ở đây thì chết mất. … A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. (Trích Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục, 2008, tr. 13-14) Cảm nhận của anh/chị về tâm trạng nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó bình luận ngắn gọn về tư tưởng nhân đạo của nhà văn trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ. a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề. b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Tâm trạng nhân vật Mị trong đoạn trích; tư tưởng nhân đạo của nhà văn trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ. c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lý lẽ và dẫn chứng. *Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn trích và nhân vật – Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Vợ chồng A Phủ là tác phẩm tiêu biểu của ông. Đoạn trích miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm cởi trói cứu A Phủ là đoạn thể hiện sâu sắc tư tưởng của nhà văn. – Mị là cô gái trẻ đẹp, chịu thương, chịu khó, tài năng, hiếu thảo, nhưng vì món nợ cũ của bố mẹ Mị buộc phải làm dâu gạt nợ. Cuộc sống của Mị ở nhà thống lý Pá Tra như địa ngục trần gian khiến cho Mị bị tê liệt về tâm hồn. Đêm tình mùa xuân năm ấy, sức sống trong Mị trỗi dậy. Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử trói đứng vào cột nhà. Mị không cảm thấy bị trói, tâm hồn Mị vẫn đi theo tiếng sáo gọi bạn. Chính sức sống ấy là tiền đề cho Mị bừng tỉnh nhận thức và cháy bùng lên ngọn lửa giải thoát cho A Phủ sau này. * Cảm nhận về tâm trạng Mị trong đoạn trích – Tâm trạng của Mị trước đêm cởi trói cho A Phủ + A Phủ vì đánh con quan nên đã bị phạt vạ và trở thành nô lệ cho nhà thống lý Pá Tra. Vì để hổ vồ mất một con bò nên A Phủ bị thống lý Pá Tra trói đứng vào cột ở góc nhà, chờ khi nào bắt được hổ mới tha. + Mấy đêm đầu, Mị dậy thổi lửa hơ tay thấy A Phủ bị trói, Mị dửng dưng vô cảm (Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi). Bởi cảnh trói người, đánh người đến chết ở nhà thống lý Pá Tra là một cảnh rất quen thuộc đối với Mị. Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện, kể cả lúc ra sưởi lửa bị A Sử đánh ngã xuống cửa bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa hơ tay. – Tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ + Tâm trạng Mị từ vô cảm đến đồng cảm: Đêm ấy đã khuya, Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị trông thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ, Mị không còn thờ ơ, vô cảm nữa. Chính dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương người của Mị. Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng như thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. + Từ đó Mị nhận thức rõ và căm thù sự độc ác của nhà thống lý Pá Tra: Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này… Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. + Từ lòng thương người và lòng căm thù, Mị nhận ra sự độc ác và bất công: từ cảnh ngộ của mình và những người đàn bà bị hành hạ ngày trước đến cảnh đau đớn và bất lực của A Phủ trước mắt, Mị nhận thấy chúng nó thật độc ác, Mị so sánh thân phận mình với thân phận của A Phủ Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… người kia việc gì mà phải chết. Sự đồng cảm, lòng thương người thức dậy trong Mị, nhưng Mị vẫn còn sợ: Mị tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. + Nhưng tình thương và sự đồng cảm giai cấp mạnh mẽ đã thôi thúc Mị đi đến một hành động táo bạo: cắt dây trói cứu A Phủ. Sau khi được cứu thoát, A Phủ quật sức vùng lên chạy, Mị đứng lặng trong bóng tối và khát vọng sống, khát vọng tự do trỗi dậy, Mị quyết định chạy theo A Phủ. Hai người trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa tạo lập cuộc sống mới -> Mị cứu A Phủ cũng là tự giải thoát cho cuộc đời đầy đau khổ của mình. Hành động này có ý nghĩa bước ngoặt đối với cuộc đời nhân vật Mị và và sự phát triển của cốt truyện. Nó phù hợp với quá trình phát triển tâm lý và tính cách của Mị, là đỉnh điểm của tinh thần phản kháng, thể hiện rõ sức sống tiềm tàng, mãnh liệt trong tâm hồn Mị => Mị đã chiến thắng cả thần quyền lẫn cường quyền. * Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật – Khi miêu tả tâm lý nhân vật, tác giả đặt nhân vật trong một hoàn cảnh đặc biệt để nhân vật tự bộc lộ tâm lý của mình. – Tác giả khai thác có hiệu quả ngôn ngữ nửa trực tiếp và độc thoại nội tâm để làm nổi bật chiều sâu tâm hồn nhân vật, tâm lý nhân vật được Tô Hoài tái hiện một cách tinh tế, chân thực sinh động đạt đến phép biện chứng của tâm hồn. * Bình luận về tư tưởng nhân đạo của nhà văn trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Diễn biến tâm lý của nhân vật Mị, hành động cắt dây trói cứu A Phủ, cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài của Mị đã thể hiện một tư tưởng nhân đạo tiến bộ của nhà văn Tô Hoài. Ngoài những nội dung nhân đạo chúng ta thường bắt gặp trong văn học thì tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài đã thể hiện cách nhìn nhận con người theo chiều hướng tích cực của tác giả: chỉ ra con đường giải phóng hướng tới tương lai tươi sáng cho nhân vật; đồng thời tác giả khám phá, ngợi ca, bênh vực, tin tưởng vào sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của người lao động miền núi. Chính tư tưởng nhân đạo tiến bộ ấy đã làm nên sức sống bất diệt cho tác phẩm Vợ chồng A Phủ. d. Sáng tạo Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi: (Trần Vinh Dự – ncwzing. vn 27/01/ 2018 ) Câu 1: Chỉ ra biện pháp tu từ cú pháp được sử dụng trong hai câu văn mở đầu văn bản. Câu 2: Vì sao tiến sĩ Trần Vinh Dự lại khẳng định: kết quả như vậy thậm chí còn tuyệt vời hơn về lâu dài? Câu 3: Theo anh/chị, thế nào là: những cuộc tập hợp, những cuộc xuống đường trong lòng mỗi người? Câu 4: Anh/chị có đồng tình với thông điệp mà tác giả đưa ra: Chúng ta phải cùng xắn tay áo lên và hành động không ? Vì sao ? Câu 1 (2,0 điểm) (Trích Sóng – Xuân Quỳnh, SGK Ngữ Văn 12 tập 1, NXBGD VN) Từ đó, liên hệ với đoạn thơ : Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm Ta muốn ômCả sự sống mới bắt đầu mơn mởnTa muốn riết mây đưa và gió lượnTa muốn say cánh bướm với tình yêuTa muốn thâu trong một cái hôn nhiềuVà non nước, và cây và cỏ rángCho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sángCho no nê thanh sắc của thời tươi– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !(Trích Vội Vàng – Xuân Diệu, SGK Ngữ văn 11 tập 2, NXBGD VN) Để thấy được khát vọng sống của hai nhà thơ. …….…………..HẾT…………………
——————————-HẾT——————————-
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:Những đứa trẻ ngoan ngoãn, biết vâng lời, đợi cha mẹ sắp đặt học ở đâu, làm ở đâu… thì rất dễ thương, nhưng chỉ dành cho trẻ em dưới 18 tuổi. Đã trên 18 tuổi, bạn trẻ toàn cầu bây giờ chỉ cần “không hư” là được. Không hư là không hại người, không hại mình, không phạm pháp. Còn lại, mình muốn học gì, làm gì, quen ai, sống ở đâu, tiền bạc mình kiếm ra mình tiêu vào việc gì…thì mình quyết. Tự chủ tài chính sẽ tự chủ về nhận thức. Và ngược lại.Đừng sợ sai. Sai thì mình có trải nghiệm, có bài học. Đúng thì mình hưởng.Thông tin giờ nhiều, tự mình tìm tòi, phán đoán, quyết.Giới trẻ thế giới bây giờ, ai ai cũng tâm niệm thế này. Bây giờ là lúc hành động với sự nghiệp. Khi chết đi còn để lại thành tựu gì đó cho đời, 100 năm sau, 1000 năm sau nhân loại còn nhắc đến. Phải đi thật xa và thật nhiều, phải học, phải làm….những khi sức khoẻ cho có thể cho mình đi, mình học, mình làm. Phải chịu đựng gian khổ vào những năm tháng mình còn chịu đựng được. Một chén cơm chan nước lã rồi húp, cũng no bụng. Một manh chiếu góc nhà nào đó vẫn ngủ được, có chết đâu. Những cụm từ cảm tính và cái tôi lớn như “tôi không thích, tôi thích, tôi ưa, tôi ghét, tôi ủng hộ, tôi tẩy chay, tôi đưa quan điểm, tôi phản đối, tôi phàn nàn, tôi claim, tôi blame, tôi complain, tôi chán, tôi buồn, tôi cô đơn, tôi cực khổ, tôi x tôi y”….gì đó đã từ lâu không còn nằm trong từ điển của giới trẻ giỏi và tiến bộ. Họ lặng lẽ làm và làm. Thành tựu sẽ khẳng định ai là ai. . (Theo https://www.facebook.com/TonyBuoiSang, Ngày 17/02/2018)Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của văn bản trên. Câu 1 (2.0 điểm)Từ nội dung văn bản phần Đọc – hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của lòng tự tin trong cuộc sống. Câu 2 (5.0 điểm)
Lưu ý: Người chấm có sự khuyến khích đối với bài viết có diễn đạt mới mẻ, suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận. Tránh đếm ý cho điểm. Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: “…Tôi đứng lặng trước emKhông phải trước lỗi lầmbiến em thành đá cuộiNhớ vận nước có một thời chìm nổiBắt đầu từ một tình yêuEm hoá đá trong truyền thuyếtCho bao cô gái sau emKhông còn phải hoá đá trong đờiCó những lỗi lầm phải trả bằng cảmột kiếp ngườiNhưng lỗi lầm em lại phải trả bằngmáu toàn dân tộcMáu vẫn thấm qua từng trang tập đọcVó ngựa Triệu Đà còn đau đến hôm nay…” ( Trần Đăng Khoa – Trước đá Mị Châu) Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên. (0,5 điểm) Câu 2. “Em hoá đá trong truyền thuyết Cho bao cô gái sau em Không còn phải hoá đá trong đời” ? (0,5 điểm)Ở những câu thơ này, theo tác giả sự “hoá đá” của Mị Châu “trong truyền thuyết”có ý nghĩa như thế nào? Câu 3. Em hãy nêu ngắn gọn ý nghĩa hai câu thơ sau: “Máu vẫn thấm qua từng trang tập đọc Vó ngựa Triệu Đà còn đau đến hôm nay…”. (1,0 điểm) Câu 4. Bài học sâu sắc nhất mà em rút ra từ đoạn thơ trên ? (1,0 điểm)
Câu 1: 2,0 điểm ĐÁP ÁN ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN 2018 THỜI GIAN: 120 PHÚT Câu 1: Phong cách ngôn ngữ: Nghệ thuật Câu 3: Câu thơ diễn tả nỗi đau mất nước của toàn dân tộc từ sự sai lầm, thờ ơ, mất cảnh giác của An Dương Vương. Nỗi đau thấm máu ấy không chỉ là nỗi đau của hai nghìn năm trước mà còn được nhân dân ta truyền lại cho con cháu qua từng trang tập đọc và nỗi đau ấy còn đau đớn đến ngày hôm nay. Mỗi lần nhớ tới vó ngựa xâm lược của Triệu Đà trái tim mỗi người dân Việt lại như thấm máu.Câu 4: Bài học về tinh thần cảnh giác . Bài học về ý thức xây dựng và bảo vệ đất nước .Bài học về những lỗi lầm trong cuộc sống và trong sự nghiệp.Câu 1: 2,0 điểm Lỗi lầm là những sai lầm, tội lỗi con người mắc phải và để lại những hậu quả đáng tiếc cho mình và mọi người. – Trong cuộc sống, không ai có thể tránh khỏi những lỗi lầm. Vì cuộc sống có nhiều khó khăn, thử thách; khả năng của con người là có giới hạn; đôi khi chỉ vì quá chủ quan, nhẹ dạ cả tin vào người khác mà con người dễ dàng mắc phải lỗi lầm. – Phê phán những người không có ý thức rèn luyện bản thân, gây ra lỗi lầm đáng tiếc.– Nhận thức: Cần nhận thức, lỗi lầm là một điều tất yếu của cuộc sống, nhưng không vì thế mà liên tiếp phạm lỗi lầm, vì hậu quả của những lầm lỗi nhiều khi rất khó cứu vãn. Khi mắc lỗi cần trung thực, nghiêm khắc nhận lỗi và thay đổi để hoàn thiện bản thân.
* Chân dung hiện thực của người lính:– Bên ngoài: có vẻ kì dị, lạ thường: không mọc tóc, da xanh màu lá ® chiến trường khắc nghiệt vì thiếu thốn, vì bệnh sốt rét đang hoành hành.=> gian khổ.– Bên trong: dữ oai hùm, mắt trừng ® thậm xưng thể hiện sự dũng mãnh. Bề ngoài thì lạ thường nhưng bên trong không hề yếu đuối, vẫn oai phong lẫm liệt ở tư thế “ dữ oai hùm” => ý chí.* Tâm hồn lãng mạn của người lính:– Người lính Tây Tiến là những chàng trai lãng mạn, hào hoa với trái tim rạo rực, khao khát yêu đương: gửi mộng, mắt trừng=> lãng mạn.– Càng gian khổ => càng căm thù=> tạo thành ý chí + nhờ tâm hồn lãng mạn giúp người lính vẫn sống, vẫn tồn tại trong đạn bom khắc nghiệt.– “dáng kiều thơm”: không làm người lính nản lòng, thối chí mà cổ vũ, động viên chiến sĩ, tiếp thêm sức mạnh cho chiến sĩ.* Lí tưởng cao đẹp của người lính:Câu thơ ”Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã nâng cao chí khí và tầm vóc người lính. Các anh ra trận vì một lý tưởng rất đẹp: “đời xanh” là đời trai trẻ, là tuổi thanh xuân của “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…”, những học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ lên đường đầu quân vì nghĩa lớn. Họ “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Câu thơ vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu để bảo vệ nền độc lập, tự do cho tổ quốc: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.* Sự hi sinh cao cả của người lính:– “ mồ viễn xứ”, “áo bào thay chiếu”: từ Hán Việt, nấm mồ của người chiến sĩ trở thành mộ chí tôn nghiêm.– “áo bào”: cái chết sang trọng.– Cái bi nâng lên thành hùng tráng bởi lí tưởng của người nằm xuống -> cái chết bi hùng, có bi nhưng không luỵ.– Sông Mã: gợi điển tích Kinh Kha®khí khái của người lính. Cái chết đậm chất sử thi bi hùng bởi tiếng gầm của sông Mã.ó Cả đoạn thơ là cảm hứng bi tráng về cuộc đời chiến đấu gian khổ, tư tưởng lạc quan và sự hi sinh gian khổ, anh dũng của người lính. óNghệ thuật: Đoạn thơ có sự kết hợp giữa bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng. Ngoài ra thành công còn được tạo nên nhờ biện pháp đối lập được sử dụng triệt để, biện pháp nói giảm tinh tế, cách sử dụng từ Hán Việt độc đáo…
– Lí tưởng của người lính trong bài “Tây Tiến”: “ Chiến trường….đời xanh” thể hiện thái độ dứt khoát ra đi với tất cả ý thức trách nhiệm, không tính toán. Sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân cho đất nước.– Lí tưởng của người chiến sĩ cách mạng ở đoạn thơ trích trong “Từ ấy”: Giác ngộ lý tưởng, giác ngộ nhận thức, lẽ sống đối với người cộng sản, trước hết là giác ngộ về chỗ đứng. Người chiến sĩ cách mạng chủ động, tự giác hoà “cái tôi” với “cái ta” chung của mọi người, tự nguyện đứng trong hàng ngũ những người lao khổ. Từ “buộc” thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu nguyện gắn bó mật thiết, sống chan hoà với “mọi người” với “trăm nơi” với quần chúng đông đảo khắp mọi niềm đất nước. Nhóm từ “để tình trang trải” thể hiện tâm hồn nhà thơ như muốn trải rộng với cuộc đời rộng lớn, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với mọi cảnh ngộ của những cuộc đời cần lao. – Hai câu sau: “Để hồn tôi với bao hồn khổ …. mạnh khối đời” khẳng định tình cảm hữu ái giai cấp của Tố Hữu. Tâm hồn của thi sĩ từ đây sẽ nghiêng về phía “bao hồn khổ” để cảm thông, chia sẻ, để cá nhân hoà vào tập thể, tạo nên một sức mạnh quần chúng đông đảo, vĩ đại. Sau này, khi đã trải qua gần 40 năm đời thơ, đời cách mạng, Tố Hữu cũng đã viết: “Tất cả cùng tôi. Tôi với muôn người. Chỉ là một. Nên cũng là vô số!”
– Người sống có trách nhiệm là người luôn hướng tới các giá trị chân, thiện, mĩ, luôn hướng tới sự chan hòa, chia sẻ nhân ái, sống vì mọi người, muốn cống hiến tài năng, sức lực cho quê hương, đất nước.– Tuổi trẻ là những công dân ở lứa thành niên, thanh niên, là người đã đủ điều kiện, đủ ý thức để nhận biết vai trò của mình đối với bản thân, xã hội. Tuổi trẻ của mỗi thời đại là niềm tự hào dân tộc, là lớp người tiên phong trong công cuộc xây dựng, đổi mới, phát triển đất nước.– Thế kỉ 21 là thế kỉ của sự phát triển, vì vậy tuổi trẻ cần: ra sức học tập văn hóa, khoa học kỹ thuật; tu dưỡng đạo đức, tư tưởng chính trị; có lối sống lành mạnh, rèn luyện kỹ năng, phát triển năng lực; có ý thức rèn luyện sức khỏe; tham gia các hoạt động sản xuất; tham gia các hoạt động chính trị xã hội…Xem thêm: ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NGỮ VĂN :Dạng đề liên hệ tác phẩm 12-11, SÓNG XUÂN QUỲNH Bài viết gợi ý: |